-Tên thật : Ngô
Tấn Thiền
-Sinh ngày
12/08/1944 tại Châu Đốc (Thất Sơn- Nam Việt)
-Tốt nghiệp Đại
Học Dược Khoa Sài Gòn.
-Thơ văn được
giới thiệu trên nhiều tạp chí văn chương trong và ngoài
nước.
-Đã xuất bản
riêng 14 tác phẩm, không kể có mặt trong hơn 40 tác phẩm
chung với bạn hữu.
-Chủ trương tạp
chí và nhà xuất bản Khai Phá trước 1975.
- Tác
phẩm đã xuất bản:
-DẤU CHÂN VÓ
NGƯỢC- tập thơ, Thể Hiện 1964.
-NGỌN GIÓ HƠI
CUỒNG- tập thơ, (in chung Lưu Nhữ Thụy) Trình Diện Tuổi
Đất 1966.
-THƠ KINH TỰ-
biên luận, NXB Khai Phá 1971.
-THIÊN THU CA- tập
thơ, NXB Khai Phá 1972.
-NGƯỜI HÀNH GIẢ
VÀ KHÚC TRƯỜNG CA SINH TỬ- tập thơ, NXB Khai Phá 1974.
-TỔ ẤM- tập
thơ, NXB Trẻ 1988.
-HIẾN DÂNG CÁT
BỤI- tập thơ, NXB Mũi Cà Mau 1989.
-HƯƠNG LỬA- tập
thơ, Văn Nghệ Châu Đốc 1990.
-CHỚP BỂ MƯA
NGUỒN- tập thơ, Văn Nghệ Châu Đốc 1992.
-HOÀNG HẠC- tập
thơ, Văn Nghệ Châu Đốc 2004.
-TRĂM NĂM NGÀN
NĂM- tập thơ, Văn Nghệ An Giang 2008
-TÁC GIẢ TÁC
PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI tập I,(nhận định phê
bình, NXB Thanh Niên, tháng 02/2010)
-TÁC GIẢ TÁC
PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI tập II,(nhận định phê
bình, NXB Thanh Niên, tháng 12/2010)
-TÁC GIẢ TÁC
PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI tập III,(nhận định
phê bình, NXB Thanh Niên, tháng 12/2011)
-TÁC GIẢ TÁC
PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI tập IV,(nhận định phê
bình, NXB Thanh Niên, quý IV/2012)
Tác phẩm in
chung:
-Gồm 40 tuyển
tập thơ và văn
(Tiểu sử và
hình ảnh do nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm cung cấp)
Lương Thư Trung(
LTT):
Kính chào nhà thơ
Ngô Nguyên Nghiễm,
Được biết quê
anh gốc Thất Sơn-Châu Đốc, anh có thể nhắc qua một
chút về làng quê của anh và những kỷ niềm thời thơ
ấu mà mãi đến nay anh không thể nào quên được, thưa
anh?
Ngô Nguyên Nghiễm
(NNN):
Bước vào ký ức
để làm sống lại dĩ vãng của một thời yêu dấu vừa
thoáng qua, thấy đó đã vội tan biến chớp nhoáng trong
hư không, nhiều lúc dù tĩnh tâm nhưng cũng chợt cảm
thấy bàng hoàng. Nhìn đi nhìn lại, thấm thoát hơn nửa
thế kỷ trôi qua,dù đã xa nơi chôn nhau cắt rún, người
tha hương trôi dạt phương xa nhưng trên vai vẫn quàng
nặng gióng gánh hình ảnh núi xanh non thẳm, tiếng chim
sơn dã run rúc trên ngàn, những chiếc mống vắt ngang
lưng trời biên giới giữa buổi chiều tà tịch dương
Khí hậu quê tôi được sinh trưởng giữa lưỡng nghi kỳ
diệu, một dòng sông Hậu tiền tam giang xuôi chảy êm đềm
bên cạnh một bình nguyên bát ngát hàng vài mươi ngọn
núi thiêng, bao trùm bảy đỉnh thất sơn linh địa. Hơn
300 năm qua thời di dân lập ấp,tiền nhân thống thiết
oằn vai gánh nặng bao nhiêu thống khổ, đào kênh vỡ
đất, xây dựng cương thổ giữa vùng hoang thổ trăn gáy
cọp gầm, nơi rừng thiêng nước độc muỗi kêu như sáo
thổi đĩa lội như bánh canh.Chính vậy, giữa cuộc sống
bủa vây mọi nguy hiểm rình mò, tai ương trời đất
không ngờ trước được, đức tin là phương kết nối
tâm linh cho yên lòng người sống. Không khí huyền đạo
đã trải dài tận cùng trên từng bước đi, đạo giáo
khai sinh cho tâm thức dân lành một chỗ dựa kiên cường
trong mọi thử thách, trong đời sống hàng ngày,bên thiên
tai,hay giữa giặc ngoại xăm…
Hình như, tôi
không bao giờ quên được những tiếng chim rúc trên ngàn,
những buổi chiều vàng lang thang trên những con đường
mòn sơn lộ. Hoa lá thảo dã rực rỡ sắc màu mọc đầy
ven những con đường nhỏ len lỏi chân núi, màu hoa thì
dân dã mà hồn hoa lại tinh khôi hồn hậu biết bao…Phưởng
phất giữa không gian mộc mạc của núi rừng, loáng
thoáng kỳ hương diệu hoặc ươm đầy trong khí hậu tinh
sương.Từng những khóm hoa cúc dại vàng tinh anh bên gốc
núi run nhẹ giữa cơn gió mơn man, hay lại là tâm khách
tha hương chợt động lòng cố xứ?Bên hàng rào gian
nhà tranh phố núi khi tôi vừa tuổi thơ đồng ấu, giàn
hoa dâm bụt nở bông đỏ rực, nghiêng xỏa từng cọng
nhụy hoa e ấp đã đi sâu vào tiềm thức nhưdấu ấn
thiên khai, ám ảnh tận cùng trong giấc ngủ sau nầy.Những
giấc ngủ giữa những đêm trường tại hòn ngọc viễn
đông, thấp thoáng giữa tiếng chim rúc trên sơn lộ,
những cây gáo vàng vẫn rơi trái xuống khe, những khóm
hoa cúc hắt hiu sơn dã, những cụm lục bình trôi thờ
thẩn giữa dòng sông thơ ấu, những hàng dâm bụt đỏ
thắm hồn người…
Khách tha hương
hình như vẫn chất đầy trong cõi nhớ, từng góc núi-con
sông-tiếng chim bìm bịp gọi đùa con nước-từng ngôi
trường cũ-từng tình thương yêu của song thân của thầy
cô-từng khuôn mặt thanh tú của bạn bẻ-từng những
buổi chiểu vàng làm thơ bên công viên- từng thơ thẩn
đứng vớt ngàn cánh phong du xoay tròn trong gió nổi-từng
những buổi nhớ nhung của tuổi mới lớn, để kéo dài
sợi dây nghiệp chướng phù sinh đến tận hôm nay mà
giật mình…tóc trắng như sương !!!
LTT:
Nghe anh kể quả là
một nỗi lòng hoài nhớ cố hương của anh như mới ngày
nào, tha thiết biết bao và như vậy, làng quê anh vốn là
một làng vùng “sơn dã” với dãy Thất Sơn chập chùng
nơi vùng biên giới Việt-Miên. Vậy hồi xa xưa ấy, cách
nay sáu bảy mươi năm, anh có còn nhớ những phong tục
tập quán Tết Nguyên Đán ở vùng biên cương ấy có gì
đặc biệt hoặc có những tục lệ nào khác với các
nghi thức Tết cổ truyền nơi các làng quê vùng đồng
bằng miền Tây Nam Việt của mình lúc bấy giờ không
anh? Nếu có, nhân dịp những ngày đầu năm Quý Tỵ này,
xin anh vui lòng kể lại vài tập tục Tết vùng Bảy Núi
để bạn đọc nghe chơi anh Ngô Nguyên Nghiễm?
NNN:
Phía Đông Bắc
thị xã Châu Đốc, một nhánh tam giang của dòng sông Hậu
hiển hiện hai tiểu cù lao. Hướng về phương Đông là
Cồn Tiên , một nhánh thổ cư chạy rẻ về vùng đất An
Phú, Khánh An …nằm sát biên giới Việt Miên là đồng
ruộng hoang sơ, chằng chịt lối nhỏ sông nước phân
chia giới tuyến biên cương.Chênh về phương Bắc,tiểu
cù lao Vĩnh Ngươn với đồng lúa bạt ngàn, hàng năm
thường xuyên chìm trong mùa nước nổi.
Chính vậy, đáp
ứng trước thiên tai ngập lụt hàng bốn năm lũ lụt một
lần, tràn ngập cà phố thị,và tại đây tương truyền
sản sinh một giống lúa nổi, bất cứ mực nước dâng
đến đâu, lúa vươn cao đến đó.Trời sinh trời dưỡng,
mùa màng theo tập tục địa phương nhờ vậy như hàm ân
huyền diệu cho người dân Bảy Núi. Thấp thoáng sau lưng
vùng thổ nhưỡng Vĩnh Ngươn, là đầu nguồn của con
kênh Vĩnh Tế , chạy dài sống lưng vùng đất biên cương
Châu Đốc băng
dọc xuyên ngang quần sơn giữa hai nước Việt Miên, phân
chia lãnh thổ bằng đường biên giới nhân tạo nầy. Gần
200 năm về trước, khi về trấn nhậm vùng đất biên
giới hỗn mang,khâm sai Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại
đã di dân lập ấp , trước cái nhìn sâu rộng của bậc
thiện trí , con kênh Vĩnh Tế được hoàn thành dài gần
trăm dặm, xuyên đến Hà Tiên,cộng nhiều công lao hãn mã
và vong linh của dân phu,hầu an định
vùng đất thiêng
liêng cho non nước.
Khi còn sinh tiền,
song thân nhiều phen trong trà dư tửu hậu an lạc mà kể
lại rằng. Thời gian Miền Bắc chiến tranh 1944-1945, đói
kém người chết như rạ, trong Nam vẫn giặc giả , giáo
phái … tạo dựng bè phái võ trang , cướp phá tràn đồng
. Theo thời thế, gia đình lánh nạn về khu thủy điền
Vĩnh Ngươn , trước lánh nạn và tìm một vùng hoang thổ
làm đất lành lập nghiệp.Khu gia cư, là một chòi lá
vách đất nằm cạnh ngôi chùa đại thừa.
Bên hông sân
chánh điện, một cây đào tiên vươn cao đầy trái , rải
rác quanh thiền tự và gác chuông là những khóm hoa dại
đầy màu sắc bao quanh, như những cánh tay thiên khai nâng
ngôi thiền tự như một đóa sen trăm sắc. Thân mẫu
chuyển dạ,thai sinh hoàn tục bằng một hình hài nhỏ bé
du phương trong lạc đạo…. Không khí cương thổ hòa
quyện, giữa thời gian thấm thoát, song thân kể rằng ,
chập chửng bước đi khệnh khạng, đầu thì ba vá , chân
đeo lục lạc, cứ mỗi tiếng chuông chiều bên cổ tự
âm vang , là lục lạc reo liền nhịp nhở bước về thiền
môn.
Tên tôi là vậy,
nguyên quán khai sinh là vậy. Những con đường sơn lộ,
hoa thảo dã, mống trời giữa hoàng hôn, thơ rơi giữa
công viên, với tay nhặt từng cánh phong du xoay vòng
trong cơn gió….hình ảnh thời hoa niên còn nhiều ngây
dại giữa khí hậu sơn dã ngày còn cấp sách đến
trường.
Ngoảnh đi ngoảnh
lại,thấm thoát hôn nửa thế kỷ, ngày niên thiếu còn
tắm sông, làm thơ tặng tri kỷ, tán hưng , đáo lạc
, búng thun , nhảy cò cò, đáo lỗ,,, vẫn là hình ảnh
trong sang của nhà thơ ? Phong tục tập quán của mình là
vậy, của người miền Nam là vậy, chắc cũng không khác
gì với bạn bè vùng khác ?
Châu Đốc-Thất
Sơn quy tụ phần đông người tứ xứ, quây quần trên
một cứ địa thiêng liêng hồn hậu,tấm lòng trải dải
như ruộng vườn bát ngát , thẳng cánh cò bay. Người dân
sống trong đức tin giáo lý, chân chất và bảo bọc tận
tụy chòm xóm , kể cả kẻ sa cơ thất thế phương xa
trôi dạt tình cờ.Tập quán bất di bất dịch, nhân nghĩa
tràn qua trái tim, lên ánh mắt. Có dịp, ngày về quê xưa,
trên chuyến xe lục tỉnh, gió bụi phong trần phủ trùm
cả cơn mê mỏi. Xe đò thản nhiên lướt đi, bên tai
thoang thoảng bài Tống Tửu Đơn Hùng Tín, như tiếng nấc
nghẹntử sinh của nghĩa khí tình bạn ngàn đời. Đờn
ca tài tử của vùng quê tôi, đã đi xuyên vào tập quán
người miền Tây và hóa thân vào thần thức.
Tập quán thì
vậy, dù chỉ bộc bạch phần nhỏ, đi thưa về trình,
con dại vẫn roi vọt dù trưởngthành…Chắc chắn phong
tục giữa vùng đất an cư của bốn sắc dân
Việt-Hoa-Miên-Chămdù có sắc thái riêng, nhưng giữa bốn
bề tình người, đồng lao cộng khổ trong nhiều thế
hệcộng sinh, vẫn có những tập tục hóa thân vào nhau,
có những lễ lộc cùng tham dự như Tết Nguyên Đán…
Người miền Tây
nói chung, cư dân Bảy Núi nói riêng , Tết đầu năm âm
lịch vẫn không bao giờ thiếu sót dựng nêu tại đình
chùa, cúng quảy tổ tiên đất đai vương trạch những
mâm ngủ quà, đưa Ông Táo rước Ông Bà, hoa mai vàng ngõ,
lân pháo như một điềm lành , câu đối,dưa hấu bánh
tét, tranh lục bình những chuyện xưa tích cũ nhân gian,
dây bùa đỏ ,quần áo mới, rượu chè, chúc Tết và cờ
bạc…Những chi tiết đơn thuần có thể là chi tiết
chung của phong tục tập quán xa xưa biết có phai nhạt
thời gian…!!!
LTT:
Qua lời anh kể về
làng quê và tập quán nơi chôn nhau cắt rún, anh làm tôi
nhớ có lần đã đọc được bài thơ của anh: “Ngày
về Bảy Núi, ngồi trên đỉnh Bạch Vân uống rượu cùng
bằng hữu chợt hiểu rằng”(*),
ở đó nó có chút gì man mác buồn mà mênh mang một nỗi
vấn vương về những khoảngđời phiêu bạt giang hồ và
đến khi có dịp trở về nơi chốn cũ, một vùng núi cao
quạnh quẽ giữa đất trời biên giới u tịch mà chừng
như nghe trái tim mình cũng đang cùng nhịp đập với đất
trời, cỏ cây, non ngàn... Bài thơ khá dài, mạch thơ liền
lạc, hơi thơ khó dứt…
Anh NNN,
Rồi đến khi nào
anh mới ra Châu Đốc học và anh mê làm thơ từ lúc nào?
NNN:
Bước vào nghiệp
văn chương hầu như chẳng khácvới các bằng hữu văn
nghệ, bởi ngoài sự đa cảm sẵn có hình như ẩn hiện
một cách mặc nhiên trong tiềm thức.Chính vậy,khoảng
không thời gian định vị cho bước đầu của kẻ làm
thơ chắc chắn không ý niệm một xác suất chính thống.
Những năm đầu thập niên 50 thế kỷXX, từ trường làng
bước tập tểnh vào ngôi trường nam tiểu học ChâuĐốc,
ngôi trườngkhang trang cổ xưa với dãy tường gạch ,
ngói đỏ nằm ven một nhánh sông Hậu. Gia đình nội
ngoại quy tụ về một khu đất hoang, nằm giao thoa ven lộ
trình đường độc đạo vào núi
Sam và khu đường
sắt hỏa xa mà người địa phương thường gọi đường
xe lửa. Tam đại đồng đường khu trú trên vuông đất
chia làm ba ngôi nhà lá nhỏ theo thế chân vạc, nội ngoại
hai gian đối diện với gian nhà vách ván của song thân.
Năm học lớp nhứt trường Nam tiểuhọc, ký ức còn ghi
lại chút hiểu biết và hàm âm những công lao gian khổ
của gia đình, trong giai đoạn đất nước phân chia tam
kỳ, thù trong giặc ngoài, quê hương cuồng rối tang
thương. Gia đình nội ngoại thuộc giai cấp nghèo khổ,
song thân chạy từng miếng ăn bằng tất cả sứclực và
tài hoa trời phú, cật lực lao động đánh đổi sự sống
chân chánh cho hằng ngày hằng bữa đạm bạc…Nội ngoại
tôi đều là người bạch đinh, không biết đến một chữ
cái quốc ngữ. Tuy nhiên trong tâm thức thì tràng giang đại
hải những câu ca dao hò vè và những cốt truyệnkỳ tích
kim cổ kỳ quan, kim vân kiều, lục vân tiên, thi ca sấm
giảng….Những buổi trưa hèhiu hiu nắng gió , buổi se
lạnh tàn đông, những chiều tàn vắng lặng … tổ phụ
thường nghêungao những vần thơ hay sấm giảng bằng
giọng nói thơ đặc thù của sông nước đồng bằng ,
khiến không gian chợt u hoài quánh đặc trong giai điệu
quan hoài khó tả, có lẽ chỉ người
trong cuộc mang
nặng tâm thức thuở ấu thơ mới hiểu thế nào là sự
nghẹn ngào của kỷ niệm.
Tôi thường ngồi
học bài bên khung cửa sổ, bên ngoài một khóm hoa dâm
bụt vươn cànhnghiêng nghiêng hàng chùm hoa đỏ rực rung
rinh trước gió.Thỉnh thoảng hàng âm thanh thơ phú sấm
giảng lại phủ đầy đặc quánh cho tiềm thức kẻ hậu
bối sau nầy. Mồ hôi cha ông chảy dài trên trán rộng,
gian lao khổ cực của người dân nhược tiểu hàng ngàn
năm lệ thuộcngoại bang, còn gì ngoài văn hóa và ý thức?
Năm đó, lớp nhứt đó, tôi cảm thức một cáchnon trẻ
nhìn thấy bao nhiêu cộng lực lao khổ của gia đình, hình
như bài thơ đầu tiên đượcsáng tác một cách cách
điệu, bằng sự thắm nhập từ những câu ca dao,truyện
thơ mà hàng ngày nội ngoại nghêu ngao truyền bá vô tình.
Bước vào ngưỡng cửa trung học, trường trung học Thủ
Khoa Nghĩa năm 1956, là một quãng đường dài từ đệ
thất đến đệ tứ, ngoài những
môn học chánh,
việt văn và hán văn in sâu tiềm thức tôi bóng dáng
những sư phụ hiền giả,thường xuyên gọi tôi dịch
những bài thơ hán nôm hay lên bảng đen làm thơ tốc
hành!Có thểđó là khoảnh khắc định mệnh đã an bày
cho một người làm thơ ?
Quê tôi với khí
thiêng sông núi, người tài hoa cũng không khá nhiều như
những địa phươngkhác. Về tập quán phong tục học, địa
phương chí, văn học, tín ngưởng, thi ca … phải kể
nhiều tiền bối học già quán triệt sâu sắc, nhiều
công lao nghiên cứu, giới thiệu tác phẩmbiên khào hơn
nửa thế kỷ nay, hoặc nhiều phen bôn ba hài ngoại tham
dự nhiều cuộc thuyết trình quốc tế.Đến nay, không
thể quên được công lao những hiền giả như học giả
NguyễnVăn Hầu, Nguyễn Văn Kiềm, Liêm Châu, Lâm Tâm…
và gần đây nhứt với người kế thừa của dòng nghiên
cứu nầy là Nguyễn Hữu Hiệp, Trịnh Bửu Hoài,Nguyễn
Bạch Trúc, NguyễnPhước Sanh .... Nhiều năm qua, tôi thật
tâm chú ý và thán phục quá trình biên khào của quýhiền
giả, mặc dầu người viết cũng dành chút tâm trí nghiên
cứu,nhưng hiện tại tài mọn chưa
thể sánh kịp
tiền hiền, nhưng cũng hy vọng sẽ là ngọn lửa soi tìm
được một vóc dáng kiênđịnh là tác giả ChâuĐốc học
mà tri kỷ mong chờ.
LTT:
Được biết anh là
người chủ trương tạp chí Khai Phá, vào những năm đầu
thập niên 1960, xin anh chia sẻ một chút về sự ra đời
của tạp chí này. Mục tiêu của tạp chí là gì, chỉ
thuần văn chương nghệ thuật hay còn mục đích nào khác
không, chẳng hạn như về văn hóa, đời sống, phong
tục, tập quán nơi miền Thất Sơn- Châu Đốc mình?
NNG:
Trong giai đoạn
thập niên 60-70 thế kỷ vừa qua, thời gian đất nước
còn trongbước đầu phôi thai độc lập, cái độc lập
giả tạm của cả hai phía quốc nội, và cái áp đặt
tiềm tàng mưu đồ của nước ngoài, đã khiến quê hương
nhiều nghiêng ngửa điêu linh hơn là được hưởng thanh
bình. Hàng triệu người di tản cuồn cuộn trôi dạt về
phía Nam,người ta nhân danh lý tưởng tạo dựng chiến
tranh bằng ý thức hệ được gắn danh hiệu dân tộc, đã
đưa đẩycuộc chiến tương tàn 20 năm qua, hàng triệu
người dân chôn vùi trong đạn bom …đến nay,cũng tràn
đầy nỗi đau không xóa nhòa được.Tình trạng hoang tàn
hàng ngày phơi diễn khắp nơi trên đất nước, tuổi trẻ
với tâm hồn quật cường với lịch sử gần 5000 năm,
không thể giữ im lặng cho một ý thức, không hành động
tích cực được, chính vậy ngòi bút, và sáng tạo bằng
văn chương là hiện hữu nhất.Văn nghệ lấn dần vào
cuộc sống hiện tại, hình tượng chânthật thảm thiết
cho tuổi trẻ và nghệ thuật.Từ đây, phát sinh trên khắp
các tỉnh thành từ QuảngTrị dài xuống Huế, Quảng Nam,
Tuy Hòa, Kom Tum, Đà Lạt, Vũng Tàu, Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, Sài Gòn, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Long Xuyên, Châu Đốc…xuất hiện đông đủ bằng
hữu văn nghệ trên các tạp chí vận động tự lực. Cứu
cánh của
các tạp chí
giống nhau trước tương lai đất nước và phần đông
anh em văn nghệ có chungmột ý niệm , tạo dựng tiếng
nói lớp người trẻ, phát huy qua tờ tạp chí văn học
nghệ thuậtquan niệm văn nghệ và đời sống.Sự ra đời
của Tạp Chí KHAI PHÁ cũng nằm trong quan điểm chung như
vậy. Tuy nhiên, với nét nhìn về tư hướng sáng hóa sáng
tạo nghệ thuật củaKHAI PHÁ có nhiều tư tưởng riêng
biệt , ngoài khơi dựng lại những giá trị văn học văn
nghệ cần được gìn giữ, còn cần tạo dựng một
khuynh hướng sáng hóa nghệ thuật cách tân.
Chính vậy, KHAI
PHÁ chọn nhiều chủ đề cho từng số báo như KP1 Nhìn
Văn Nghệ Trong Tình Thế Hiện Tại, KP 2 Con Đường Văn
Học Nghệ Thuật Việt Nam Trong 10 Năm Qua, KP 3 Thế Trăm
Hoa Của Văn Nghệ Miền Nam ,KP 4-5 Hiện Tượng Vong Thân
Của NgườiCầm Bút … và bản thảo KP 6 Vấn Đề Dân
Tộc Tính Trong Nghệ Thuật ..v…v..Ngoài chù đề gồm
nhiều cây viết cật lực cho mỗi số báo, sáng tác thơ
văn nhạc họa biên khào nghiên cứu phê bình nghiên sâu
về phong tục tập quán, ca dao hoạt kê tiếu lâm,nghệ
thuật nhângian, còn đề cập đến các loại hình văn
chương nhi đồng, âm nhạc ,nghệ thuật tượng hình,nghệ
thuật sân khấu di sản văn hóa độc đáo của dân tộc.
Dựng luồng sinh
khí nghệ thuật mới là chủ trương và hướng đi lâu
dài cho KHAI PHÁ đượchòa nhịp trong vườn hoa văn nghệ
phía Nam đến tận hôm nay….
Bìa các tạp chí
Khai Phá số 1, số 2 và số 3
(Do nhà thơ Ngô
Nguyên Nghiễm cung cấp)
LTT:
Về việc phát hành,
điều hành, tạp chí Khai Phá có phát hành lên tới
Sài Gòn, ra Miền Trung hoặc các tỉnh Miền Tây hay
chỉ phổ biến trong địa phận tỉnh Châu Đốc, Long
Xuyên? Khai Phá có gặp trở ngại nào về bài vở, in ấn,
và các tác giả cộng tác không?
NNN:
Thời kỳ phân
hóa nầy, quê nhà hứng chịu nhiều trận chiến dầu sôi
lửa bỏng, các phương tiện giao thông từ tỉnh thành nầy
đến tỉnh thành kế cận, dù chỉ khoảng 50-70 cây
sốnhưng sự di chuyển bằng xe cơ giới cũng mất cả
ngày, thư từ bưu phẩm lưu thông nhiềulúc cả tuần đến
10 ngày là chuyện thường. Chính vậy, khi hoàn thành xong
số báo nào,kếhoạch gởi bưu điện của KHAI PHÁ lúc
nào cũng từ 5 ngày hoặc 1 tuần trước khi quảng cáo
trên báo chí lớn Saigon ( nói rõ thêm, hầu hết giới
thiệu miễn phí ). Tạp chí KHAI PHÁ vinhhạnh được bằng
hữu văn nghệ người một tay giúp phát hành trên khoảng
20 tỉnh thành đấtnước, mà không nhận lợi nhuận nào.
Đà Nẳng có Nguyễn Huy Chương- Đoàn Minh Hải, Tuy Hòa có
Hoàng Đình Huy Quan,Quy Nhơn có sự trợ giúp của Đặng
Tấn Tới, Đà Lạt có Ngọc Thùy Khanh, Pleiku-Kontum có
Kinh Dương Vương, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Bạch Dương, Biên
Hòa có Nguyễn Tất Nhiên hồn nhiên bảo trợ, Long Xuyên
có Trịnh Bửu Hoài, Châu Đốc dưới sự điều hành của
Trần Biên Thùy-Thái Văn Sơn, Ba Xuyên có Triều Uyên
Phượng, Vĩnh Bình đảm đương của Tô Nhược Châu phát
hành, Vĩnh Long thì Trần Mộng Hoàng chăm chút lo toan, Cần
Thơ-Chương Thiện có Ưu Thức- Trần Kiêu Bạt, Rạch Giá
có Trương Quang Vinh, Long An được nhà thơ Phạm Trích
Tiên gánh vác, Tây Ninh phải nhờ vả Sa Chi Lệ khai
thông…Như vậy, KHAI PHÁ hiện diện gần 20 tình thành
đất nước, với những hy sinh đồng lao cộng khổ của
bạn bè văn nghệ, phải chăng đó là những trái tim đầy
nghiệp chướng và tình người. Cũng như các tạp chí
bạn, KHAI PHÁ có nhiều trở ngại trên bước đường vận
động tân lập sáng hóa nghệ thuật góp phần với quê
hương…
LTT:
Tạp chí Khai Phá
đình bản năm nào?Các tác giả viết cho Khai Phá ngày ấy,
nay còn lại những vị nào và các vị ấy còn tiếp tục
trước tác không?
NNN:
Quyết định đình
bản Tạp chí KHAI PHÁ để chuyển sang Nhà Xuất bản cũng
nằm trong kế
hoạch dự phòng cùa nhóm chủ trương trước diễn biến
pháp lý và thời cuộc.Song song với việc ấn hành KHAI
PHÁ 4+5 với giấy phép tháng 9/1971, đã mang thầm một
trọng trách xuất bản các tác phẩm văn nghệ của bằng
hữu như bước tiến khẳng định cho hướng đi dấn thân
mãnh liệt hơn.Một phần góp mặt đưa tiếng nói chân
tình của tuổi trẻ với tình thế văn học nghệ thuật
hiện tại, một phần giới thiệu sâu rộng hơn các tác
phẩm tài hoa của anh em văn nghệ, trong giai đoạn hiện
giờ anh em không có thời gian để tạo lập cho mình kịp
lúc ra mắt những đứa con tinh thần đã cưu mang. Bước
vội qua thời gian, vì tìnhthế cấp bách nên sự tính
toán nầy, giúp KHAI PHÁ vượt thoát nhiều sự kiện có
lúc xem như bất khả kháng. Vô hình chung KHAI PHÁ đi trước
một bước lịnh báo chí phải đóng ký quỷ để nhận
giấy phép tạm thời cho các dạng báo chí , 2 tác phẩm
được xuất bản đánh dấu sự góp mặt trang trọng của
Lâm Chương với thi phẩm Loài Cây Nhớ Gió và tác phẩm
biên luận Thơ Kinh Tự của Ngô Nguyên Nghiễm về dòng
thơ mới tại Việt Nam.Sang năm 1972, chiếc áo tạp chí
KHAI PHÁ thắm đầy trí tuệ của anh em văn nghệ trẻ đầy
nhiệt tâm tạm thời hóa thân về một cứ địa an lành
hơn: Nhà Xuất bản KHAI PHÁ nối tiếp vai trò văn nghệ
khingộ biến tùng quyền, chính vậy vô hình chung từng
khuôn mặt độc đáo văn nghệ được giới thiệu trân
trọng .
Hiện nay, thời
gian trôi qua hơn 40 năm dài, nhiều bằng hữu đã tiếp
nối đi vào vĩnh cửu nhưTô Nhược Châu, Nguyễn Bạch
Dương, A Khuê, Vũ Hữu Định, Phan Nhự Thức, Thái Văn
Sơn, Nguyễn Lệ Tuân, Châu Thành Thơ, Thụy Miên, Triều
Uyên Phượng, Mai Văn Cương, Tô Đình Sự, Chóe, Ngọc
Thùy Khanh, Nguyễn Phước Sanh, Lộc Vũ, Phạm Hữu
Quang,Trần Kiêu Bạt, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Mai, Phạm
Yến Anh, Nguyễn Tôn Nhan, Hoài Giang Lê Bá Diệp, Nguyễn
Lang Quân, Dương Trữ La, Nguyễn Phan Thịnh, Ưu Thức…
Anh em hiện tiền
trước thời cuộc phân hóa hiện sanh sống rải rác khắp
cùng hành tinh nầy,phần đông đều bước qua ngưỡng cửa
đáo tuế với tâm hồn thênh thang rộng mở trước cõiphù
đồ đầy trí tuệ và sáng tạo khôn cùng. Mọi người
đang trải rộng tác phẩm trước tuế nguyệt, nhìn quanh
nhân dáng vòi vọi bằng hữu chợt thấy như Lâm Hảo
Dũng, Phạm Nhã Dự, Phan Bá Thụy Dương, Trần Văn Sơn,
Hà Thúc Sinh, Nguyễn Lê La Sơn, Trần Phù Thế, Nguyễn Cát
Đông, Huyền Vân Thanh, Nguyễn Minh Thanh, Song An Châu, Hoài
Ziang Duy, Trầm Mặc Nghệ Thế, Lâm Hảo Khôi, Cao Thoại
Châu, Trần Tuấn Kiệt, Trần Yên Thảo, Đoàn Minh Hài,
Trịnh Bửu Hoài, Phù Sa Lộc, Yên Uyên Sa, Hạc Thành Hoa,
Mặc Tuyền, Phạm Trích Tiên, Yên Bằng, Rừng-Kinh Dương
Vương, Lê Triều Điển, Trần MộngHoàng, Minh Nguyễn,Lê
Trúc Khanh, Trần Biên Thùy, Nguyễn Thành Xuân,Lưu Vân, Chu
Ngạn Thư, Kim Đan…
Nỗi nhớ đong
đầy với nhiều kỷ niệm đầy vơi, loáng thoáng trong
gió bay về những khuônmặt thời gian chất chồng trong
trí não. Những tâm hồn đã vác nghệ thuật trên đôi
vai tuổi trẻhiến dâng hết tâm thức cho quê hương,
chính thức vang vọng tiếng nói chánh kiến đi vào lịch
sử và nghệ thuật .
LTT:
Còn nhà xuất bản
Khai Phá thì sao, thưa anh NNN? Lúc bấy giờ nhà xuất bản
của anh có in tác phẩm nào cho các tác giả cộng tác
hoặc các tác giả khác trong vùng không?
NNN:
Luật báo chí
thực hiện năm1972, áp dụng ngân sách ký quỷ lớn khiến
nhiều
nhật báo, tạp
chí … đứng trước cửa ngõ tự đình bản.Sau những
thăm dò bàn thảo, KHAIPHÁ chuyển sang Nhà Xuất bản, một
vị trí hóa thân bất đấc dĩ, nhưng qua một thời gian
chuyển biến vai trò mới cũng ổn định dần, nhìn chung
kết quả cũng có phần tuyệt diệu.Thực hiện chủ
trương tờ tạp chí KHAI PHÁ, ngoài khơi hoạt cách tân
nghệ thuật và đi sâuvào giới thiệu nghiên cứu về
phong tục tập quán, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc,
giới thiệuđịa phương chí về vủng Thất Sơn linh địa….
nên từ tờ tạp chí cũng đã mở rộng cửa ngõ chào đón
bằng hữu khắp nơi. Chủ trương nầy di chuyển sang Nhà
Xuất bản với hoài vọngkhám phá và nhân sâu rộng nhân
dáng bằng hữu văn nghệ khắp miền.
Nhà Xuất bản
KHAI PHÁ, ngoài hình thức giới thiệu khoảng gần 30 tác
phẩm nội bộ nhưhình thức ấn phẩm Nhà Xuất bản Con
Đuông, mỗi tác phẩm khoảng 50 quyển, không phép.
Còn chánh thức
có giấy phép xuất bản Sở Phối Hợp Nghệ Thuật tổng
cộng 21 tác phẩm :
1/ LOÀI CÂY NHỚ
GIÓ, thi phẩm Lâm Chương, 1971
2/ THƠ KINH TỰ,
biên luận Ngô Nguyên Nghiễm, 1971
3/ NAM HOA, thi phẩm
Nguyễn Thành Xuân,1972
4/ ĐIỆU BUỒN
CỦA CHÚNG TA, thi phẩm Hà Thúc Sinh,1972
5/ THIÊN THU CA,
thi phẩm Ngô Nguyên Nghiễm,1972
6/ VƯỜN DĨ VÃNG
, thi phẩm Trần Văn Sơn
7/ BÀI THƠ CÕI
CHẾT, thi phẩm Thụy Miên, 1972
8/ BIÊN THÙY
TRUYỆN KÝ, truyện ký Liêm Châu, 1973
9/ NGÔI NHÀ CHO
NGƯỜI TRỞ VỀ, thi phẩm NguyễnHuyChương,1973
10/ RƯỢU NGƯỜI
VÀ CẢNH VẬT, thi phẩm PhạmTríchTiên,1973
11/ THƠ TÌNH TRỊNH
BỬU HOÀI, thi phẩm Trịnh Bửu Hoài,1974
12/ LÊN ĐỒI HỨNG
BÁT TRĂNG VÀNG,thi phẩm NguyễnThànhXuân,1974
13/ TẾ BÀO, tập
truyện Lưu Nhữ Thụy,1974
14/ NGƯỜI HÀNH
GIẢ VÀ KHÚC TRƯỜNG CA SINH TỬ,
thi phẩm Ngô
Nguyên Nghiễm,1974
15/ NGƯỜI HÀNH
HƯƠNG TÌNH YÊU, thi phẩm Trịnh Bửu Hoài,1974
16/ THỦ ẤN HỌA
VỚI KỸ THUẬT SÁNG TẠO BẰNG CHẤT LIỆUSÁNG TẠO MỚI,
hội họa Phan Tấn Nam,1975
17/ DÙ NGƯỜI LÀ
AI XIN HÃY ĐẾN, thi phẩm Trần Kiêu Bạt, 1975
18/ NGÀY ĐI THƯƠNG
SỢI KHÓI BÊN NHÀ, thi phẩm LâmHảoDũng1975
19/ NGỌN CỎ KHÔ
TRÊN VUÔNG ĐẤT ĐEN, thi phẩm Thụy Miên,1975
20/ TÌNH YÊU SỢI
KHÓI MONG MANH, truyện Minh Nguyễn, 1975
21/ CÓ PHẢI THUNG
LŨNG BUỔI CHIỂU, thi phẩm NguyễnThịPhiên,1975
Riêng 5 tác phẩm
thơ văn ( 17-21 ) đang in tại 3 nhà in chưa kịp ra mắt
bằng hữu và bạn đọc hóa thân thành giấy vụn sau ngày
30/4/75 !!!
Bìa một số các
tác phẩm do nhà xuất bản Khai Phá ấn hành trước năm
1975.
(Do nhà thơ Ngô
Nguyên Nghiễm cung cấp)
LTT:
Với ba tác phẩm
của anh do nhà xuất bản Khai Phá ấn hành:
- THƠ KINH TỰ,
biên luận, NXB KHAI PHÁ 1971
- THIÊN THI CA, thi
phẩm, NXB KHAI PHÁ 1972
- NGƯỜI HÀNH GIẢ
VÀ KHÚC TRƯỜNG CA SINH TỬ, thi phẩm, NXB KHAI PHÁ 1974
Ngoài ra anh còn có
các tác phẩm in sau này nữa. Nếu phải nhìn lại ba tác
phẩm thời Khai Phá của mình, anh có cảm tưởng gì về
ba đứa con được chào đời những năm 1971-1974 ấy?
NNN:
Các tác phẩm tôi
chào đời trong những giai đoạn không gian thời gian khác
nhau, nhưng bao giờ
cũng nằm trên một quan điểm nghệ thuật riêng biệt.
Tất nhiên, dù cùng sáng hóa trong tư thức chung, nhưng sự
đột biến trong từng tác phẩm đều là nhữn ý niệm
ngộ ( nhìn thấy ) trong thời điểm hoạt hóa nhất thời,
ngay giai đoạn sáng tác.Sựtrung chánh với tác phẩm, mỗi
nghệ sĩ đều thể hiện tùy quan điểm và bản chất
hành hiệp.
Khi đức Cồ Đàm
khẻ giơ cành hoa trước rừng tỳ kheo và thiện chúng,
hằng hà sa số thanhvăn duyên giác … đứng dài tới đỉnh
núi Linh Thứu, kỳ diệu thay chỉ một mình Ca Diếpim lặng
khẻ mĩm cười. Chính vậy, tác phẩm của người sáng
hóa văn hóa văn học nghệ thuật cũng phải hiện thân
của một hóa đạo tuyệt vời. Năm nầy tháng nọ không
thời gian và vật thể có thay đổi, nhưng sự biến
chuyển trong cuộc đời chỉ phù du, chính vậy ngôn ngữ
cũng
không ngoại vòng
thoi. Tôi tâm đắc những gì từ hư không có được,
nhưng không xem đó là là một sự vĩnh cửu…Tác phẩm
chỉ là chứng nhân, như đóa hoa tinh khôi giăng mắc trên
đoạn đường người lữ khách đi ngang qua trong cuộc
hành trình dã ngoại của đời sống. Đánhdấu như sự
thiên di của một ngôi sao lẻ loi đầy ngoạn mục,và bất
chợt thấy mình nhỏ nhoigiữa không gian hằng hà tinh tú.
Cái nhỏ nhoi đó cũng bất chợt được hóa hiện vào
ngôn ngữ rơi rớt lại thành tác phẩm bấy giờ tại một
nơi cố định, trong khi người nghệ sĩ vẫn thản
nhiêncuốn trôi theo ngọn gió luân lưu về hướng không
vô định…
LTT:
Đó là công việc
làm báo của anh với một thời tuổi trẻ cách nay hơn
nửa thế kỷ và ngày nay được biết anh đang dồn hết
thời giờ cho công việc biên soạn bộ sách “TÁC
GIẢ, TÁC PHẨM- NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI”.Trải
dài qua thời gian hơn nửa thế kỷ, những
“người đồng hành quanh tôi” của
anh chắc là nhiều lắm! Vậy có thể xin anh vui lòng chia
sẻ một chút về công trình biên soạn bộ sách này, khởi
công lâu chưa và nay đã hoàn tất được mấy mươi phần
trăm rồi, thưa anh?
NNN:
Trải qua biến cố
định mệnh của lịch sử, người đàng trong và người
đàng ngoàinhư đang đứng hai bên bờ vực, nhìn nhau như
những người ngoại quốc, kẻ thì rục rè ôm hếtmọi
sợ sệt ẩn ức canh cánh trong lòng, người thì ngông
nghênh dốt nát của kẻ chiến thắngđàn anh. Cả xã hội
của con người cùng một dòng máu, cùng một tổ tiên lại
như những kẻ nội thù khác biệt trời vực tư tưởng
và đời sống… Thời gian trôi dài tiệm tiến một cách
khắcnghiệt đối mặt chan chát về văn hóa ,tín ngưỡng,
kiến thức, tập tục…khiến người dứt khoátlàm thuyền
nhân vội vã ra đi về hướng tự do , kết cuộc gần một
triệu người hóa thân trên thủy mộ quan. Người ở lại
đối mặt học tập trong và ngoài trại tập trung khắc
nghiệt, có biết bao nhiêu thân phận bỏ xác rừng sâu,
kinh tế mới…
Âm ba của cuộc
đổi đời bất chợt khiến dân thường cũng ngửa
nghiêng trong cơn xoáy dịkỳ, huống hồ những kẻ làm
văn nghệ mang nặng cả một trời đột biến của nghệ
thuật trong tâm hồn. Hơn 13 năm lặng lẽ ngồi trong thư
trang nhìn ra cuộc đời đang diễn kịch ngoài sân, khi
quyết định ra mắt thi phẩm TỔ ẤM , rảnh rang nhiều
lúc ngồi soạn sách vở tài liệu lưutrữ, ý nghĩ chợt
thoáng về ý niệm tử sinh, với biết bao bằng hữu tài
hoa chợt rơi rụng từ chântrời định kiếp hoang dại
nào! Tài liệu chất chồng theo thời gian gần nửa thế
kỷ, từng hình ảnh, từng chữ ký, từng dòng chữ , từng
tác phẩm tim óc… ám ảnh tôi suốt lộ trình dài hơn10
năm sau đó. Đến đầu thiên niên kỷ XXI, tôi vội vã
hình thành trong quan niệm sơ khai làgom hết những tinh hoa
của anh em văn nghệ, như là nhốt thời gian và không gian
lại để ảnhtượng chân phương văn hữu đã nhiều phen
cộng sinh cộng tử trên bước đường văn chương,hội
tụ lại trong một khu vườn hoa nghệ sĩ đầy sắc màu
và đầy ân tình . Sự ra đời bộ sách nhận định phê
bình “TÁC GIẢ TÁC PHẨM NGƯỜI ĐỒNG HÀNH QUANH TÔI”
từ ý niệm như thế.
Trải dài hơn 50
năm hành hiệp giang hồ trên con đường văn học nghệ
thuật, làm bạn vớikhông biết bao nhiêu bằng hữu kỳ
tài trong thiên hạ. Nhiều lúc, nhìn đi nhìn lại bất
chợt nghe thấy anh em lần lượt rời bỏ cuộc đời,
khiến lòng chao đảo như vấp phải nghịch cành chua xót
quá, trong lúc nhiều bạn bè chưa một lần nhìn được
sự ưu ái quy hồi trong suốt cuộc sống hy sinh tâm huyết
cho nghệ thuật.Cảnh ngộ tang thương của một dân tộc
hiền hòa suốt gần 5000 năm văn hiến , thì hình ảnh
thương hải tang điền với tiếng gọi đò thốngthiết
trong cơn mơ, có làm giật mình với thời gian và sự biến
đổi tàn nhẩn của thiên nhiênvà lòng người ?
Con đường văn
nghệ trước mặt với bao nhiêu bằng hữu tâm giao
trong suốt cuộc đời nầy, hình như vẫn còn thênh thang
xa vắng quá. Vì thế, không thể nằm chờ đợi mùa sung,
lữ khách phải cố vác hành trang nặng trĩu trên vai băng
đồng vượt suối tìm người tri ngộ…
Với tài liệu
ngồn ngộn gìn giữ trân trọng trong thư trang suốt nửa
thế kỷ qua, phải chăng là một phương tiện căn phần
định trước, giúp thu ngắn đoạn đường tìm người
tri ngộ. Đến nay,bộ sách TGTPNĐHQT trước đây dự định
6 tập, chụp bắt với thời gian hình ảnh cuộc hành
hương của chư hiền giả thân quen trong suốt cuộc đời
giang hồ. Nhưng lực bất tòng tâm, hiền hữu thì nhiều,
tôi chỉ chọn theo duyên nghiệp và thiện căn trên bước
đường vội vã bấtchợt đi qua với chọn lựa ngẫu
nhiên 200 bằng hữu tài hoa đạo nghĩa. Thấm thoát con
đườngdiệu vợi năm xưa dần dần được thâu ngắn
lại, bộ sách đã giới thiệu 4 tập, với khoảng 130văn
nghệ sĩ, và sách được tôn quý bay rải rác bốn phương
theo chân những người tâm huyết.
Hiện tại, trên
thư viện và quý văn nghệ thiện tâm, bộ TGTPNĐHQT được
lưu trữ trên dưới7 quốc gia.Trong năm Quý Tỵ 2013, chạy
đua với thời gian và biến cuộc , 2 tập cuối 5-6 củabộ
sách nhận định phê bình TGTPNĐHQT sẽ cật lực hoàn
chỉnh ra mắt thân hữu, cũng trêndưới 1000 trang như các
tập trước, dốc tâm ghi lại trọn vẹn phần nào cuộc
đời phiêu dạt trong phong nhụy nghệ thuật của 200 hiền
hữu đầy phong thái và khí thế sáng tạo, làm rựcrỡ
dòng văn học nghệ thuật quê hương…
LTT:
Trường hợp rất
riêng, anh có kỷ niệm nào với các nhà văn, nhà thơ như
Cao Thoại Châu, Hoài Ziang Dzuy, Lâm Chương, Trần Phù Thế,
Lâm Hảo Dũng…? Nếu có, qua bộ sách anh đang biên soạn,
các tác giả vừa kể có là một trong những người “đồng
hành” với anh không?Anh có nhận xét
gì về văn phong cùng giá trị văn chương qua các tác phẩm
của quý vị ấy?
NNN:
Dù thời gian bước
nhanh như gió thổi, biết bao nhiêu biến đổi phù du trong
cuộcđời nầy, thấy đó rồi mất đó tan biến trong hư
không. Có những con đường tôi đã thênh thangdạo bước,
trăm thương ngàn nhớ với từng chiếc lá rơi lặng lẽ
lượn lờ trên không, Có những ngôi nhà từ thuở thiếu
niên tung tăng chạy lượm từng cánh phong du rực đỏ. Có
những hàng cúc dại e lệ nằm rải rác trên lộ trình
sơn dã quê tôi. Có những giây phút thênh thang chơi
đùacùng bạn bè thơ ấu trên những trò chơi nhân gian
bịt mắt đá lon, tán hưng, đáo lạc. Có nhữnggiây phút
tuổi thanh niên ngồi trầm mặc nhớ nhung của những ngày
mới lớn….Tiềm thức đãchất đầy những kỷ vãng vời
vợi,lưu hành trong suốt đời băng gió băng sương đi vào
cõi sống.
Chính vậy, với
bao nhiêu bằng hữu đồng hành trên suốt hơn nửa thế
kỷ trôi qua, là sự vạn hạnh không bút lực nào ghi lại
hết được. Trong ngõ sống có khổ đau có hạnh phúc ,
đa mangnhiều nỗi thăng trầm thì kỷ niệm cũng tràn đầy,
lúc ẩn hiện như cơn mơ lúc chìm lắng trong ký ức chờ
dịp khơi dậy bùngvỡ mặc nhiên. Hình như suốt không-
thời gian tôi vinh hạnh bước qua, làm bạn không biết
bao nhiêu anh tài kiệt xuất, chính vậy ngoài lưu giữ
trong tâm thức, sự ra đời bộ sách nghiên cứu phê bình
TGTPNĐHQT là kỷ niệm văn chương vô giá với bằnghữu
hiền giả mà trong đời có dịp trao gươm và ấn tín…Họ
không chỉ là Lâm Chương, Lâm Hảo Dũng , Hoài Ziang Duy ,
...v..v..kể cả quý hiền hữu đang và sẽ có mặt trong
bộ sách , đều là những tài hoa có riêng một giá trị
tinh khôi riêng biệt trong thế giới tự lập chính mình..
LTT:
Thưa anh Ngô Nguyên
Nghiễm,
Những ngày đầu
năm mới Quý Tỵ mà được nghe anh chia sẻ về một thời
kỳ văn chương ở Châu Đốc nói riêng và Miền Tây Nam
Phần nói chung cách nay hơn năm mươi năm qua quả là món
quà Tết vô cùng thú vị.Quả thật đây là “một
thời kỳ Khai Phá và những người đồng hành”đối
với riêng anh mang nhiều ý nghĩa .Đối với các nhà biên
khảo về báo chí miền sông nước Hậu Giang trước năm
1975, các chi tiết mà anh vừa cung cấp là những tài liệu
vô cùng quí báu.Xin chân thành cảm ơn anh rất nhiều.
Nhân dịp này xin kính chúc anh cùng gia đình một Năm Mới
dồi dào sức khỏe, an vui, hạnh phúc và nhất là hai tập
5 &6 trong bộ sách “Tác Giả, Tác
Phẩm- Những Người Đồng Hành Quanh Tôi”
của anh sớm hoàn tất.
Trân trọng kính
chào anh .
NNN:
Cuộc nói chuyện
đầy phong thái chân tình với nhà văn Lương Thư Trung
trong giờ khắc thiêng liêng giao hòa của trời đất, thật
tình những cảm xúc tự nhiên mà có, xin xem đây như tâm
tình của lữ khách phương xa gởi đến chư thiện hữu
chút hoài niệm, nhiều khi giữa cuộc đời nầy nhìn đi
nhìn lại chợt thảng thốt với hình ảnh ông đồ
già….“những
người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ ?!!”
Trân trọng cám
ơn nhà văn Lương Thư Trung với tấm lòng vi diệu sông
nước miền Nam.
Cước chú:
(*) Nguyên văn bài
thơ:“Ngày về
Bảy Núi, ngồi trên đỉnh Bạch Vân uống rượu cùng
bằng hữu chợt hiểu rằng”
“U tịch đá
xanh, ngày trở lại
Triền cao thoai
thoải nắng chơi vơi
Ráng bay một góc
trời biên giới
Khách cũng bay về
như lá rơi
Khói nhà ai chảy
hiên hè sau
Góc nhỏ âm buồn
tiếng võng ru
Ngơ ngác hàng tre
mùi vọng cổ
Độc huyền đục
ngọt gốc đêm sâu
Quanh quẩn đường
dài, có dép cỏ
Mười năm mài
thủng gót phong trần
Về đây, gió
ngựa đùa khinh bạc
Bạc áo trung
niên, bạc tóc xanh
Ồ chút rượu
đùa trái đất lăn
Thơ vừa rót
xuống chén tri âm
Bỗng nhiên thấy
rụng vài hơi thở
Đủ cuốn vèo đi
lá nguyệt rằm...
Cố xứ, mùa thu
vàng ngẩn ngơ
Vàng ươm phố
núi, hạt mưa khô
Thương hồ chết
lặng trên sông Hậu
Gác mái, rồng
bay, đá lạnh hờ
Thoảng nghe mấy
khúc hát đồng dao
Ớn lạnh thiên
nhiên gió đổi màu
Thổi áo phong
sương lầm tóc bạc
Đầm đìa khí
hậu cháy đêm thâu
U tịch đá xanh,
mờ thế trận
Bờ cao mây vén
mộ âm âm
Lỡ vương vấn
lá, hoa chèn núi
Bút chỉ người
xưa ngủ ngửa nghiêng
Chớp mắt con
kênh biên giới lạ
Chảy quanh ngọn
thốt nốt sau nhà
( Bỗng nhiên thơ
ấu hồn năm tháng
Cây gáo vàng xưa
mới trổ hoa )
Vàng thẳm con
đường hoa cúc nở
Âm vang tu hú rụng
hoàng hôn
Ráng chiều nhuộm
đỏ trời biên thổ
Và nhuộm tang
bồng khách vi n phương
Đá rịn mồ hôi
ngày trở về
Đàn voi lầm lũi
hồn sơn khê
Lung linh đáy suối
phơi hình tượng
Gói bóng giang hồ,
gói bản quê
Bên kia vách núi
nhà san sát
Sơn lộ quanh co
cát bụi bay
U tịch đá xanh,
âm tiếng hót
Loài chim sơn dã
nhảy đâu đây...
Ồ chút rượu
đùa trái đất lăn
Rồng bay, sang
sảng giọng nam non
Ngày đi núi chất
lên vai rộng
Và nhốt trăng
vào túi rỗng không
Thắm thoát mười
năm đầu bạc phếch
Nuôi thơ chưa lớn
được giang hồ
Ngày về, bạn
hữu ngồi phong ấn
Thẹn với cây đa
gốc miếu xưa
U tịch đá xanh,
ngày trở lại
Triền cao thoai
thoải nắng chơi vơi
Ráng bay một góc
trời biên giới
Khách cũng nặng
lòng đếm lá rơi...”
|