văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, April 12, 2012

HOÀNG LONG HẢI * Nếu ngày ấy....



Hôm ông cựu thiếu tá Trang tổ chức lễ sinh nhựt cho ông đại tá Bill, sau khi ăn uống no say, tặng quà cho ông Bill xong thì đến phần phụ diễn văn nghệ. Nói cho xôm trò như thế, nhưng “phụ diễn văn nghệ” có nghĩa là ai biết hát thì lên hát. Phòng SB có cây đờn ghi-ta của ai đó, ai biết thì cầm đờn phụ họa, ai không biết đờn thì cũng có người đánh xịch xèng hòa theo. Ai may mắn thì được ông Hải Quân thiếu tá Nguyễn Thìn, tức nhạc sĩ Trường Sa, phụ đàn cho.

Ông cựu thiếu tá Cao Dai, hát một bài tiếng Tây quen thuộc, hồi xưa rạp Tân Tân ở đường Trần Hưng Đạo Huế hay cho phát trên loa, trước giờ “vô phim”. Có lẽ hồi đó ông cựu thiếu tá Cao Dai còn là học trò, dạo phố hay đi học ngang qua đường Trần Hưng Đạo, nghe riết thành quen hay ông tập tành bài hát nầy vào một dịp nào đó, riết thành quen, ai mà biết.

Không bàn hát hay hay dở, nhưng thường thì không những dở mà lại còn là dở ẹt, khi hát, ông cựu thiếu tá Cao Dai hướng mặt về phía ông đại tá Bill, ngồi bên cạnh ông cựu thiếu tá Trang. Đó là lịch sự. Ông Dai hát chào mừng sinh nhựt ông Bill thì mặt ông ta hướng về ông Bill. Còn ngoài ra, vì vui mà hát, hay hát để bốc thơm ngày sinh ông Bill một chút, như người ta thường hát để “ca ngợi ngài giáo tổ” trong ngày Phật Đản hay ngày Chúa Giáng sinh, ai biết được.

Có điều, tôi ngồi với ông cựu đại úy Cảnh Sát Tống Văn Thừa, ông kỹ sư Bửu Tộ, ông kỹ sư Nguyễn Dương Hảo và ông cựu trung úy Hồ Đắc Liệu, - thường bị tôi đùa, gọi trại là “lẹo” -, phía sau lưng ông Cao Dai, thấy rõ ông Cao Dai vừa hát vừa run. Ông Bửu Tộ chỉ vào cái chân co của ông Cao Dai cho chúng tôi thấy mà cười. Không cười sao được! Cái chân ông Cao Dai lẩy bẩy như cái càng con châu chấu bị ngứt đầu như người ta thường làm để đút cho con sáo con ăn vậy.

Còn nhạc sĩ Trường Sa, vốn là nghệ sĩ đa cảm đa tình, thấy người ta tiễn nhau đi định cư ở cầu tầu jetty, là nơi tầu “Suma Tăng Cát” đến đón người đi, mà viết một bài hát mới, nhan đề là “Tiễn Em Ra Cầu Nhung Nhớ”. Nhạc Trường Sa thì hay, nhưng giọng ông Trường Sa thì ồ ề, nên trước khi hát, nghe ông giới thiệu bài ca mới sáng tác, mọi người ai nấy vỗ tay hoan hô dữ lắm, nhưng khi nghe ông ta hát, ai ai cũng thất vọng. Giọng hát ông ồ ê, tôi gọi đùa là “giọng độ-ma-jờ”, hát hỏng cái gì được!

Mấy bữa trước, sáng tác xong, ông kêu tôi giới thiệu bài hát mới, tôi đã nói với ông ta rồi: “Nhạc anh hay lắm. Cần giới thiệu, anh nhờ cô Lệ Thu hát cho. Anh hát, không những không hay mà người ta còn cười đấy.” Lệ Thu mà hát nhạc Trường Sa thì cũng giống như Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn. Có lẽ nhạc sĩ Trường Sa cũng biết vậy thật đấy, nhưng ở trên đảo Bidong nầy, kiếm đâu ra cô Lệ Thu. Có thể có một Lệ Thu nào đó ở đảo, gốc là thị Mít, thị Xoài nào đấy, biết ca cải lương hơn là biết hát nhạc cải cách. Khi đến đảo, cô Mít, cô Xoài bỗng thấy mình lột xác, bèn đặt cho mình một cái tên mới, Lệ Thu hay Lệ Xuân, cũng có thể là Thanh Lan, Thanh Điệp. Tên thì giống nhưng mà hát thì làm sao giống danh ca được. Tiếng con chim quạ, đâu phải đầu hôm sớm mai mà thành con chim hoàng oanh.

Bây giờ tới phiên ông cựu thiếu tá Trang đứng lên trổ tài mừng sinh nhựt ông đại tá Bill. Ông làm ra dáng vẻ một nghệ sĩ, tay ôm đàn, gục đầu xuống, cất giọng: “Ngày xưa có kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng...”

Vốn tính hay đùa, mới nghe chừng đó, ông Bửu Tộ lên tiếng: “Ở đây không có động như ở Ngã Ba Chú Ía. Ông Trang lên núi Bidong.”

Ông Liệu lại chen một câu khác:

- “Rán mà hát cho hay, bắt giò cho chặt, hát dở, ông Bill hỏi tại sao thiếu tá mà cải tạo mới có 4 năm rưởi mà đã được tha về, bỏ mẹ luôn! Mục đảo như không!”

Liệu nói thế vì theo “tiết lộ bí mật” của ông Hảo, - bí mật nhưng mà ai cũng biết -, rằng ông Trang khóa 18 Đà Lạt, phó phòng 3 Sư Đoàn Dù, tù cải tạo chỉ có 4 năm rưởi thì được tha.

Hảo khoe với tôi: “Em là vua thuốc Tây chợ trời Saigon. Mỗi sáng em ngồi ở quán càphê mà định giá thuốc cho ngày đó. Thằng nầy (tức là ông cựu thiếu tá Trang), mỗi sáng chạy cái xe Yamaha Dame ra ngồi xớ rớ gần chỗ em họp. Chờ em ra giá xong, báo cho y biết. Y chạy đi thông báo kiếm chút tiền còm về nuôi vợ con. Nó vượt biên với thằng Khoai, đại úy Dù, thằng nầy lại không đi cải tạo, về xứ sở tổ chức vượt biên ở “quê hương Đồng Khởi” đấy. Mẹ vợ bé của ông cựu thiếu tá Trang là thiếu tá Công An Dziệt Cộng nằm vùng. Tôi nói: “Hèn chi thấy ông qua đây, nó gọi ông lên làm phòng SB để trám miệng ông.” Hảo kéo thêm hai người bạn cùng vào làm SB, một là Bửu Tộ, ông kia là ông Liệu. Hai ông Tộ và Hảo đều là kỹ sư Canh Nông làm cho bộ Canh Nông trước 1975. Cựu trung úy Hồ Đắc Liệu là bạn học cũ của ông Hảo hồi ở trường Quốc Học Huế.

Nghe ông Trang hát xong, tôi nói: “Ông ta hát có cảm xúc đấy!”

Tộ lại cười: “Lý thuyết và thực tế không đi với nhau. Nhiều ông thầy chùa giảng “đời là hư vô”, nhưng ông nào ông đó vàng tính bằng cây. Tài sản đất ruộng ông Ngô Đình Thục ở Saigon, ở Vĩnh Long nhiều lắm. Hát “Lên non tìm động hoa vàng” nhưng tranh nhau cái chức trưởng phòng SB.”

Tôi cũng tin ông Tộ nói đúng. Ông Tộ người Huế. Ở Huế người ta biết tài sản ông Thục gồm những gì. Chỉ một cái lầu Jira (?) mà thôi, người ta cũng đã ngán cho một vị tu hành. Tộ cũng phụ trách việc truất hữu chính sách “Người cày có ruộng” của “tông tông” Thiệu, ông ta phải biết chủ điền là những ai chứ! Ở Vĩnh Long “đức cha” cũng có ruộng vậy!!!

Sở dĩ Tộ nói câu “tranh nhau cái chức trưởng phòng SB” là vì mấy hôm trước, tôi kể cho cả đám ông Hảo nghe rằng hôm ông Trang gọi tôi lên phỏng vấn để nhận vô làm phòng SB, ông Trang tự giới thiệu: “Tôi là trưởng phòng.” Tôi hỏi: “Còn ông Khánh sao?” Ông Trang trả lời: “Ông Khánh cũng trưởng phòng.” Vậy là phòng SB có tới 2 trưởng phòng. Đời thuở nhà ai có chuyện lạ đời không?!


Ông Khánh cũng lên hát một bài. Dĩ nhiên, ông Khánh cũng như mọi người hát không hay, nhưng tôi để ý câu sau đây, khi hát, trông ông có vẻ buồn lắm: “Nếu ngày ấy mình đừng quen nhau thì ngày nay có đâu buồn đau...”

Tiệc tùng xong, tôi tính đi tắm. Ở phòng SB, có nước ngọt, tắm “thả dàn”, nhưng vì hôm đó tập trung ăn tiệc nên khi tiệc xong, nhiều người cùng đi tắm nên phòng tắm kẹt. Tôi ôm khăn áo, ngồi chờ trên cái ghế đặt ngang hai gốc dừa ở phòng chờ. Phòng chờ là một cái sàn hơi cao, có mái che, không có vách, rộng bằng nửa cái sân bóng chuyền.

Giữa hai gốc dừa nầy, hình chữ V., ai đó đóng một tấm ván ngang làm chỗ ngồi. Chỗ ngồi nầy khá thoải mái, vì lưng thì dựa vào thân dừa bên nầy, chân gác vào thân dừa bên kia, ngó mông ra biển. Xa xa, bên kia biển là rặng núi xanh xanh, xương sống của bán đảo Mã Lai, giống như khi tôi còn trẻ, ngồi bên bờ sông Thạch Hãn hay sông Hương mà ngó lên dãy Trường Sơn vậy.

Cái tấm ván làm chỗ ngồi được nhiều người chiếu cố, láng bóng lên. Ông Khánh đang ngồi trên đó, nhìn bâng khuâng ra biển xanh.

Tuy tôi không có chỗ ngồi thoải mái như ông Khánh, nhưng cái ghế tôi ngồi bên cạnh ông cũng có lưng dựa. Tôi cũng dựa lưng vào ghế, ngó mông ra biển.

Bắt chuyện, ông Khánh nói với tôi:
- “Anh Hải thấy biển đẹp không?”
- “Biển khi nào cũng đẹp, nhưng tôi không thích biển buổi chiều, gió lộng, sóng dữ lắm. Biển hay làm cho người ta nhớ. Trịnh Công Sơn viết “Biển Nhớ” là nói nỗi nhớ mênh mông như biển hay biển làm cho người ta nhớ...” Tôi nói
- “Nghĩ sao cũng được, cũng có lý cả. Nhớ là quay về dĩ vãng.” Ông Khánh nói.
Tôi nói:
- “Hồi nãy, anh hát “Nếu ngày ấy...” thì cũng là nhớ, là quay về dĩ vãng vậy.”
- “Anh tinh thật.” Ông Khánh khen tôi. “Cải tạo về, tôi đạp xích lô kiếm ăn, thấy người ta chở vợ mình trên xe “Dream”, qua mặt mình, vợ mình ôm eo người ta, tôi tưởng như tôi có thể gục xuống ngay trên chiếc xe xích lô. Đau lắm anh ơi!...”

Tới phiên, tôi chào ông Khánh mang khăn áo đi tắm...


&


Bị ám ảnh bởi cái câu “Đau lắm anh ơi!...” nên mấy ngày sau, sau khi phỏng vấn xong một “kê” (case), tôi nghỉ mấy phút, ra ngồi ngoài phòng chờ cho thoáng mát, vừa cầm ly càphê vừa hát... cho tôi nghe. Dĩ nhiên, tôi hát dở ẹt, nhưng tôi lại là người hay hát. Sợ người ta chê hát dở, tôi thường tự an ủi “Hát hay không bằng hay hát”. Vậy là tôi cứ cái bài ông Khánh hát hôm mừng sinh nhựt ông Bill mà ngâm nga: “Nếu ngày ấy... mình đừng quen nhau.”
Lại cái ông Tộ “nhiều chuyện”:
- “Anh bị con nhỏ nào đá chưa mà cứ “nếu ngày ấy...” hoài vậy.
Tôi cười:
- “Bồ đá đâu có quan trọng! Ông có nghe bọn con gái Huế nói không? “Chẳng thà bồ đá, không bằng hỏng thi.” Tui cũng vậy. Tui con nhà nghèo, “cơm đùm gạo bới” mà đi học. Thi đậu mới là gay, còn em nào cho đi “tàu bay giấy” thì mặc cha nó.”

Nói xong, bỗng tôi nhớ tới việc Tộ bị vợ bỏ. Anh ta là kỹ sư, làm giấy tờ bồi thường truất hữu cho một ông chủ điền. Ông chủ điền cám ơn, gả con gái cho, lại cho thêm mấy triệu. Vậy mà sau 30 tháng Tư, anh ta bị vợ bỏ, buồn tình, anh vượt biên. Ở đảo, tính tình anh ta đôi khi hơi “điện chạm”. Nghĩ chuyện Tộ, tôi nói với anh ta:
- “Tui nói thiệt ông! hồi trẻ tui cũng có mấy con bồ. Khi bị con nào đá, tui cũng buồn sơ sơ. Bây giờ, nhớ lại, đôi khi lại cho là may. Giả thử như tui lấy con đó, mà không lấy vợ tui, chắc đời tui cũng tơi tả lắm!”
Vậy rồi tôi kể lại cái “Đau lắm anh ơi...” của ông Khánh cho ông Tộ và ông Hảo nghe. Khi đó, ông Hảo cũng vừa tới hóng chuyện. Hảo cười, nói to:
- “Người ta đã nói rồi. “Tái ông thất mã”. Chuyện đời biết sao được mà lo!”

Mấy hôm sau nữa, tôi phỏng vấn mọt “kê” xong hơi trễ, chỉ còn ông Trần Quốc Phụ, trưởng ban, chờ tôi giao hồ sơ lại đem cất, và tôi mà thôi, sau khi tôi cho “đối tượng” ra về rồi.
Khi tôi đi ra sân trước thì ông Khánh đang ngồi ở cái ghế giữa hai gốc dừa. Ông Khánh nói với tôi:
- “Có lẽ tôi đi sớm. Hồ sơ USCC bên Mỹ xong rồi.”
Ông Khánh, tới đảo trước ngày “cut off date”, nôm na thường gọi là ngày “đóng cửa đảo”, khỏi bị “thanh lọc”, được định cư sớm. Phái đoàn Mỹ nhận cho đi Mỹ rồi, chỉ cần cơ quan USCC tìm người bảo trợ mà thôi.

Thấy tôi đứng lại nói chuyện với ông, ông Khánh rời khỏi ghế, nói với tôi: “Anh rảnh không? mình ra ngoài kia ngồi chơi.” Tôi “ừ” rồi đi theo ông Khánh. Ra khỏi hàng rào B-40 của phòng SB là tới cái sân trước nhà máy đèn. Ở đó có cái băng dài. Ông ta ngồi xuống một đầu. Đầu kia, ông đưa tay chỉ, ý muốn bảo tôi ngồi xuống.
Tôi nói, như một lời cuối, trước khi chia tay ông ta, về câu chuyện “Đau lắm anh ạ...” của ông:
- “Anh sắp đi rồi, tôi mừng cho anh, làm lại cuộc đời. Mọi việc rồi cũng sẽ nguôi ngoai, sẽ qua đi.”
Ông Khánh nói:
- “Từ lâu, tôi đã cố quên đấy chứ. “Đành quên đi! Thôi còn thương tiếc làm gì!” Anh biết bài hát đó chứ, nhưng mà đêm đêm, nằm chờ ngủ, nhắm mắt, cố quên mà không quên được anh à.”

&

“Trước khi về Lực Lượng Đặc Biệt, tôi phục vụ trong đại đội Trinh Sát Sư Đoàn.” Khánh kể. “tôi đánh nhiều trận căng lắm, “loon” của tôi, hai lần “đặc cách mặt trận.”
“Giữa năm 1965, một trung đoàn Việt Cộng chiếm một phần chân núi Bà Đen. Phía đó, chúng nó có thể quan sát chợ Long Hoa và đường vào “tòa thánh Tây Ninh” rất rõ. Mấy ông “chức sắc” sợ, kêu cứu sư đoàn. Phe ta điều hai tiểu đoàn tới, đánh ba ngày chưa xong.”
- “Mình ở dưới, chúng nó trên, bất lợi.” Tôi góp ý.
- “Vậy thì mình phải trên đánh xuống. Lúc đó, tôi, “loon” thiếu úy mà làm đại đội phó, vì đánh giặc “chì” lắm. Ông tướng gọi tôi tới, hỏi tôi có đủ gan để chỉ huy một trung dội nhảy trực thăng, từ trên đánh xuống không? Tôi ừ liền. “Dzụ nầy dễ ẹt”. Tôi trình với ông tướng. Vậy là tôi có mấy chiếc H-34. Hồi đó mình chưa có HU-1B.
“Sau một đợt của 2 chiếc Skyraider, trực thăng xuống thấp trên sườn núi đá dốc đứng. Làm chi có bãi đáp!!!

Trong khi 2 chiếc Skyraider đè chúng xuống, không cho ngóc đầu lên, 28 người chúng tôi xuống bằng dây. Tới đất, tìm chỗ ẩn núp xong là quan sát. Bọn chúng tôi chỉ xài lựu đạn. Tên nào ngóc đầu lên, bắn lóc cóc là dộng cho nó một lựu đạn. Bây giờ thì tôi lợi thế hơn. Sườn núi dốc bảy tám chục độ, cứ lựu đạn thảy xuống là ăn, ngọt như đường. Bọn tôi xuống lúc 10 giờ, quá 12 giờ trưa, tui cho lính nghỉ xã hơi. Sau một giờ trưa, chơi tiếp đợt hai. Hai tiểu đoàn của mình ở dưới chân đồi cũng chẳng thèm nổ phát súng nào. Chiều lại, mặt trời hơi nghiêng nghiêng, ông tướng gọi tôi đầu máy: “Lựu đạn xài bao nhiêu? Cần thêm nữa không?” Tôi đáp: “Trình chuẩn tướng, còn đủ. Sáng mai còn chơi một trận nữa, xin thêm. Đêm nay chúng nó rút, chịu không nỗi đâu!”

“Tụi tôi gần ba chục đứa, mỗi đứa dộng cho tụi nó gần chục quả. Nội một ngày hôm đó, tụi nó chịu bao nhiêu lựu đạn của chúng tôi, mà trái nào trái đó quăng xuống, chắc như bắp? Chịu không nỗi, đêm đó chúng nó rút thiệt. Sáng hôm sau tình hình êm ru, ngó xuống dưới chân núi, tưởng như súng đạn chưa từng qua nơi nầy.
- “Anh lên đặc cách?” Tôi hỏi.
- “Không những thêm một mai vàng, ông tướng còn cho tôi mười ngàn, cho 3 ngày phép, du hí Saigon. Thế là tôi đến trường đón cô ta.”

Tôi nói chen vào: “Đón em tận cổng trường.”
“Vâng! Đón em tại cổng. Rồi chúng vào ăn nhà hàng Lệ Hoa ở Tổng đốc Phương, nhảy đầm ở Crystal. Vào tới nhà hàng nầy, một cô “tài pán” đến lễ phép hỏi tôi: “Trung úy chọn em nào không?” Tôi cười: “Tôi có đào của tôi rồi, số một đây.” Và tôi chỉ cô ấy. Cô “tài pán” lại chào cô ây rất lịch sự.”
“Anh biết sao không? Đi chơi với cô ấy, đi ăn, đi dạo phố, đi nhảy đầm, bao giờ tôi cũng phải mặc đồ nhà binh. Ý cô ấy muốn vậy.
- “Thần tượng. Thần tượng xã hội. “Xã hội quan văn” qua rồi với cái chết của cụ Ngô. “Xã hội quan võ” lên hương.”
- “Đúng vậy!” Khánh nói. “Người con gái thấy anh nhà binh hào hùng hơn. Thiên thần mũ đỏ, mũ nâu... Thành ra tôi có một “bộ đồ vía nhà binh”, vừa vặn, ủi thẳng, ủi hồ phẳng, huy chương, huy hiệu, lon lá không phải rực rỡ mà rõ ràng để đi phố với bồ, tôi cũng cứ mang “loon” đen, giày “saut” bóng, gỏ chân cồm cộp.
“Tới khuya, gần giới nghiêm, tôi bảo đưa cô ta về. Cô ta không chịu về. Tôi sững sờ! Con gái nhà lành, nề nếp, giàu có, lại hoa khôi của trường, bà mẹ đang chờ kỹ sư, bác sĩ đến hỏi...Tương lai tươi sáng đang chờ, sao lại đi đêm với trai, một anh sĩ quan quèn, súng đạn không chừng đâu biết được, biết có về được hay “bại tướng cụt chân”.
“Bà mẹ biết tôi và cô ta yêu nhau, bà cấm cửa. Vậy mà đêm nay, cô ta dám đi suốt đêm với tôi. Cô ta nói: “Em phải là vợ anh. Em không thể xa anh được. Em liều với anh. Mẹ không chịu cũng phải chịu...”
“Tôi cười: “Em trao cái cán dao cho anh, mẹ cầm đầu lưỡi. Sao em liều vây?”
“Cô ta đáp, bình tĩnh: “Em không dành cái đẹp nhất của đời em cho một người hùng thì em dành cho ai?”
“Chúng tôi cười rúc rích và ghé qua đêm ở một khách sạn hạng sang trên đường Nguyễn Trung Trực.
“Tôi đánh vài trận nữa, không thiếu nguy hiểm và cũng ngon lành, một năm sau, lại thêm một mai và cưới cô ấy. Bà mẹ không cho cưới cũng không được. Ý chí cương quyết của cô ấy và, và... cái bụng lùm lùm!
“Bấy giờ thì tôi thấy ngại cho đời lính. Vợ đẹp, con ngoan, cầm chân mình lại. Tôi chuyển qua Lực Lượng Đặc Biệt, nhưng bấy giờ, loon lá như tôi, trận mạc nhỏ cũng ít đi. Tôi chỉ tham dự những trận lớn. Trận lớn thì tính mạng mình cũng ít ngại hơn. Thế rồi 30 tháng Tư, tôi đang mang “loon” thiếu tá.
- “Anh không có bỗng lộc gì nhiều?” Tôi hỏi.
- “Không anh à. Moi đâu ra tiền? Chúng tôi sống nhờ đồng lương. Gạo, đường, sữa mả thì nhờ Quân Tiếp Vụ. Mẹ vợ tôi qua đời đột ngột, anh em ai có đời nấy, cho nên đến ngày đi tù, tôi không biết vợ tôi lấy gì nuôi con. Học trò xuất thân, vui chơi rồi chăm sóc chồng con… suốt một đời. Khi còn trẻ cũng như khi lấy chồng, cô ấy không biết xoay xở, không biết buôn bán, sống nhờ vào đồng lương của chồng. Cuối cùng, hai đứa con tôi, cô ấy cũng cho được đứa con trai vượt biên, còn chị nó, về ở với bà nội. Cô ta đi lấy chồng.”

Tôi hỏi:
- “Anh trách ai?”
- “Trách ai? Tôi biết trách ai? Trách ai bây giờ? Trách ông Thiệu? Ổng nói rồi mà: “Mất đất nước, mất tất cả.” “Tất cả” là có vợ con mình trong đó. Tôi trách vợ tôi được không?”
- “30 tháng Tư, miền Nam đã chết. Anh em mình chết trong trại cải tạo. Chết liền hay chết dần mòn, cũng là chết vậy.” Tôi nói.
- “Tôi nghĩ nhiều khi người đàn bà đáng trách. Lấy chồng là lấy ông sĩ quan, có xe Jeep, có tài xế, có tà-lọt. Ai chịu lấy một thằng tù ở tận đáy xã hội. Đối với người đàn bà, bên cạnh bao nhiêu cái cạm bẫy của đời, lại còn sách lược của chúng nó nữa. Không những cướp tài sản của “thằng ngụy” mà còn phải xé nát gia đình của “thằng ngụy” ra. Dù không giết nó, không “tắm máu” thì cái “thằng ngụy gia đình tan nát” ấy, chống phá cách mạng được cái gì, bằng cách nào? Trong cái sách lược ấy thì người đàn bà là mục tiêu của chúng nó, có muốn yên thân thì yên được hay sao? Rồi còn cơm gạo, rau cá… Họ cũng phải sống chứ. Chúng ta ở “tù trong”, có “nhà nước” lo, dù khoai mì, khoai lang, cũng đủ ngày ba bữa, năm một bộ quần áo. Họ là “tù ngoài”, - như bọn Công An thú nhận như vậy -. Họ là “tù ngoài”. Họ được cấp khoai lang, khoai mì hay tự kiếm lấy. Vậy là quỵ, ngã quỵ. Hộ khẩu là xiết bao tử lại, là người dân không có con đường nào khác. Đàn bà con gái không làm vợ bé cán bộ thì cũng làm đĩ. Cái kinh khiếp của chế độ Cộng Sản chính là ở chỗ đó. Cả cái miền Nam nầy ngã quỵ xuống, tan nát, có riêng gì một mình vợ anh hay vợ một ai khác!!!???” Tôi nói tiếp.
- “Tôi biết anh à, tôi biết anh à! Nhưng làm sao quên được người vợ cũ để khỏi đau lòng?” Khánh than thở.
- “Yêu nhau là tình, vợ chồng là nghĩa. Càng mất cái nghĩa, anh càng chua xót cho cái tình. Đời vậy thôi! Lý thuyết thì vậy, thì hay, nói thì dễ, quên đi một chuyện tình, một quãng đời lứa đôi hạnh phúc, đâu có dễ gì!!!

Một lúc sau, tôi hỏi:
“Có gặp nhau lần nào nữa trước khi đi?”“Đau lắm. Nhà tôi ở trong hẽm. Tôi ở nhà mẹ tôi. Nhà tôi trong cư xá quânđội bị lấy mất rồi. Nhà cô ấy, do anh chồng lấyđược một cái villa của một ông dân biểu chế độ cũ đầu hẽm. Mỗi ngày mấy lần tôi đạp xích lô ngang nhà cô ấy, ban đầu còn thoáng thấy. Về sau cô ấy tránh mặt. Chỉ một hai lần thấy ông cán bộ chở bà trên xe Dream, tôi đã đau lắm rồi! Sau nầy không thấy nữa. Côấy muốn tránh cái đau cho tôi hay sao? Tôi không biết.”
“Vậy thôi.” Tôi hỏi.
“Gay cấn là hôm đám cưới con gái tôi. Nó buộc tôi và cô ấy phải có mặt, bên cạnh vợ chồng nó. Nó không mời ông cán bộ, nhưng ông ta vẫn đến dự. Khi chụp hình, con rể và con gái tôi đứng giữa. Tôi bên nầy, cô ta bên kia. Và… cô ấy khóc, lấy tay áo lau giọt nước mắt, hình như cố nín. Lòng tôi như xé ra!!! Vậy rồi thôi. Tôi cũng cố tránh người cũ! Gặp nhau nữa mà làm gì?

Tôi hỏi:
“Anh có khóc không?”
“Khóc à?” Khánh nói. “Không biết hồi nhỏ tôi có
hay khóc không nhưng từ khi khôn lớn thì không. Tôi cứ nghĩmình làm mình chịu, tại sao lại khóc? Hồi Mậu Thân,đụng một trận ở ngã ba Cây Thị, tôi nghĩ là tôi có thể khóc mà không khóc được. Một trái B-40 nổ ngang tầm chân phải tôi, tôi tưởng như chân tôi đã cháy thành than, nóng kinh khủng. Tôi nằm lại, không di chuyểnđược. Trước mặt là xác hai thằng lính của tôi, sốcòn lại rút đâu mất tiêu. Dziệt Cộng đang tấn công, chạy qua chạy lại trước mặt. Chúng nó tưởng tôi chết rồi, không bắn. Tôi muốn khóc, không phải khóc vì sợmà vì cái chân đau quá. Vậy mà tôi không khóc. Sau đó, tôi được cứu thoát. Khi đó, thì mặc dù chân còn đau, nhưng tôi lại cười.
“Thế khi ở trong trại tù?” Tôi lại hỏi.
“Trong tù, một thời gian dài, khoảng hơn hai năm,
tôi nằm gần một ông “Thông Thiên Học”. Ông nầy giảng cho tôi nhiều cái hay lắm anh à. Tôi học ở nhà trường,ở đời, ít thông suốt nhiều vấn đề như khi ở với ông. Vì dụ như ông ta nói về đời, cái nhìn rất khoa học.”

Tôi đề nghị:
“Anh giải thích đi.”“Ông ta nói con người có số phận, nhưng cái số phậnấy do tự mình định đoạt ra, không phải do một đấng thiêng liêng nào định ra cho ta cả. Đó là cái mâu thuẫn trong truyện Kiều. Nguyễn Du nói: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhưvậy thì phong trần hay thanh cao đều do ông trời địnhđoạt ra cả. Nhưng Nguyễn Du lại viết về cô Kiều “Cứtìm những chốn đoạn trường mà đi.” Vậy thì cáiđoạn trường là do cô Kiều tự tìm đến. Cô ta có thể đến, cô ta có thể tránh đi được. Như thế thì phong trần là do ông Trời định đoạt thế nào được chứ?”

Tôi nói:
“Tui học Kiều, dạy Kiều, đọc nhiều sách về Kiều, nhưng nhận xét về truyện Kiều như anh là mới lạ đấy. Nó gần với nhân quả như trong lời tựa của cụ Trần Trọng Kim.”
“Vâng. Khổng tử bảo là “Khôn chết, dại chết, biết sống.
”Vậy thì con đường đời chúng ta đi là do chúng ta tự vạch ra, trên cái nghĩa “khôn”, “dại”, “biết”như Khổng tử nói, chứ có ai vạch ra cho mình đâu? Ông bà ta cũng nói vậy: “Khôn sống, bống chết”. Thành ra, tạo hóa chỉ cho chúng ta có một điều: Sự sống. Còn ngoài ra, sống như thế nào, là do cho chúng ta tựvạch lấy. Cái số phận, theo nghĩa đó, là chúng ta tựvạch lấy, do cái “khôn”, cái “bống” hay cái “biết”của chúng ta. Thượng đế có đày đọa hay cứu giúp gì chúng ta đâu?! Cái việc tin vào Thượng đế cho ta sốphận là do chúng ta tự vẽ vời ra.”
“Anh có ứng dụng lời nói của ông thầy “Thông thiên học” vào đời sống của anh không?” Tôi hỏi.
“Có chứ sao không? Tôi lấy vợ, chúng tôi yêu
nhau, sống với nhau, tôi đi ở tù, vợ tôi bỏ tôi là do tựchúng tôi cả.”
“Vậy anh chỉ trách vợ mà thôi?” tôi hỏi.
“Cũng không nốt. Cái mình tự vạch ra cho mình, hay một dân tộc vạch ra cho dân tộc đó, trở thành cái nạn chung. Nhân loại nầy rồi cũng vậy anh à. Nhân loại sẽsống chung với nhau trrong hòa bình, hay giết nhau để sinh tồn, là do tự cái nhân loại nầy định đoạt lấy. Chẳng có ông Thượng đế nào nhúng tay vô đây cả.”

Ngoài kia, trời đã tối. Chúng tôi vừa thoát qua khỏi một đoạn đời đầy gian nan, nhìn lại, mặc dù nhân loại ngày nay có hô hào nhiều nhân đạo hơn nhân loại ngày trước, xem ra cũng chưa thấy có một tương lai sáng lạn gì!

Chưa đầy một tháng sau, Khánh đi định cư. Tôi và vài anh em nữa làm việc ở phòng SB, tiễn ông Khánh ra cầu jetty. Đứng bên cạnh cựu Hải Quân thiếu tá Nguyễn Thìn, tức nhạc sĩ Trường Sa, hôm ấy cũng tiễn ông Khánh, tôi hỏi đùa:
“Cây cầu nầy là cầu của anh đây phải không?”
Nhạc sĩ Trường Sa ngạc nhiên:
“Sao cầu nầy là cầu của tôi?
Tôi cười: “Đưa Em Ra Cầu Nhung Nhớ”, không phải cầu nầy của anh thì còn của ai?”

Nghe nói đùa, nhạc sĩ Trường Sa cười hề hề, như cái cười
muôn thuở của ông ta, trong khi ông Khánh đưa tay ra bắt. Có lẽ ông Khánh cũng không hiểu tại sao ông Thìn lại cười hề hề khi hai người bắt tay nhau như vậy!


hoànglonghải

Wednesday, April 11, 2012

Võ Thị Điềm Đạm * ĐONG ĐANH CHIẾC BÓNG





- Cô phải có giấy tờ chứng minh cô là người được ủy quyền nhận gói hàng này.

Tiếng nhân viên bưu điện không gay gắt nhưng khá lớn trong phòng đợi thưa người, làm chị đang đứng bên kệ cao ngang ngực dành cho khách hàng viết khi cần và lơ đễnh ngó quanh không định hướng vì đoán là phải chờ sáu số nữa mới tới phiên mình, phải quay lai. Ánh mắt chị ngừng lâu hơn vì mái tóc đen thả ngang bờ vai. Tò mò, chờ.

Im lặng.

- Cô có giấy tờ gì không? Như passport hay thẻ nhà băng nhưng thẻ nhà băng phải là loại có hình.
Im lặng.

Chị đứng phía sau lưng, cách chừng hai mét, kín đáo quan sát hoạt cảnh. Những ngón tay vén nhẹ mái tóc qua men tai, cử chỉ thật Việt Nam khiến tầm mắt chị ngừng lâu hơn và không còn làm bộ kín đáo nữa, tai chị lắng đón nghe lời đối thoại để đi đến quyết định là có nên bước tới không. Trong chiếc áo đầm bầu màu nhạt, dáng người vẫn còn nét thanh thản mặc dù cái bụng nhú khá cao, em đứng dựa người bên chân phải. Chị chia sẻ trong đầu, chắc vừa được bảo lãnh qua là có bầu ngay nên không theo kịp khóa học tiếng Na Uy. Cảm giác có hơn mười người đang đứng rải rác đâu đó hay ngồi trên những chiếc ghế nệm xanh dọc hai bức tường có khung cửa kính cao từ nửa thân người lên trần căn phòng đang kín đáo theo dõi và chờ nghe, có người giả bộ ngó lơ, có người im lặng nhưng vễnh tai nhìn, làm chị ái ngại dùm em. Hiểu sự đánh giá của mọi người qua đôi lời giải thích của nhân viên bưu điện về một điều thật đơn giản và đương nhiên, một điều không cần phải biết tiếng Na Uy mới ứng xử hợp lý, làm chị có ý tưởng phải can thiệp cho người đồng hương của mình. Bước chân chị dợm tới nhưng dính chặt lại nền gạch đá bóng. Người ta muốn có sự can thiệp của mình không? Nếu cô này không phải là người Việt Nam thì quê chết.

Im lặng.

- Giấy này không đủ, phải là căn cước hay passport hay thẻ nhà băng có hình.

Im lặng.

Bàn tay hất nhẹ mái tóc đã nằm gọn sau vai. Cử chỉ dư thừa nhưng như để lấy vẻ tự tin làm bước chân nhón đi tới của chị lại ngập ngừng, dừng. Cô nhân viên bưu điện tuổi vừa qua hai mươi nên chắc chưa trải nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, đưa mắt cầu cứu đồng nghiệp ở quầy kế bên và nhận cái lắc đầu chịu thua và im lặng.

- Cô không có giấy tờ gì khác sao? Sự kiên nhẫn vẫn còn đọng đầy trong giọng hỏi của nhân viên bưu điện. Cô có thể chấm dứt hoạt cảnh vô vọng này bằng cách trả lại giấy ủy quyền và giấy báo nhận hàng, nói hai chữ ”xin lỗi” và nhấn đèn cho số chờ kế tiếp vì phòng đợi khá đầy, nhưng cô không làm, cô muốn giúp nhưng không thể vượt qua những luật lệ căn bản mà nghề nghiệp buộc cô phải tuân theo.

Im lặng.

Chị bước tới, ngần ngừ, ánh mắt lướt nhanh khuôn mặt cô nhân viên bưu điện như để dò chừng phản ứng nhưng lại hướng về phía em, hỏi nhỏ nhẹ, hỏi như sợ mình đang làm một điều xổ xàng:
- Em là người Việt? Em có cần chị giúp không?

- Chị giúp em với.

Giọng em vui mừng nhưngkhông vồn vã lắm. Xoay qua cô nhân viên bưu điện, chỉ hỏi:
- Tôi có thể giúp cô được điều gì không?

Ánh mắt cô nhân viên bưu điện sáng lên, gương mặt trông có vẻ linh động hơn, cô hỏi:
- Hai chị nói cùng ngôn ngữ? May quá! Cô này được ủy quyền để nhận hàng, nhờ chị giải thích là tôi cần giấy chứng minh có hình, đây là luật của bưu điện, mong cô ấy hiểu cho.

- Em không đem theo giấy tờ gì sao?

- Đây chị.

Em đưa cho chị xem một tờ giấy cùng khổ như thẻ nhà băng nhưng mỏng như một tờ giấy thường. Đây là mẫu giấy của postbanken (ngân hàng bưu chính) ghi vài dịch vụ của họ, có vài hàng trống để ghi những dữ kiện cá nhân khi người này muốn là khách hàng của postbanken. Mẫu này để trên các quầy ở giữa phòng đợi, cùng với những mẫu giấy khác để mọi người tự tiện dùng khi cần.

- Em mới qua hả?

Gật đầu.

- Em không đem theo passport sao? Có thẻ nhà băng chưa?

Lắc đầu, chỉ cái thẻ vừa đưa. Nhìn hàng chữ nắn nót đầy nữ tính ghi tên họ và ngày tháng sanh, chị thấy thương cho sư ngây thơ của em nhưng lại thắc mắc về sự kém hiểu biết của người bảo lãnh em qua đây.

- Giấy này không dùng để làm giấy chứng minh được đâu em. Em qua đây theo diện đoàn tụ gia đình? Chồng em bảo lãnh?

- Dạ.

- Sao chồng em không tự đi nhận hàng?

- Anh đi làm chị ạ.

- Vậy ngày mai em đem theo passport của em, passport Việt Nam cũng được.

Ngập ngừng, em nói nhỏ, như sợ người khác nghe dầu em biết là không ai hiểu tiếng Việt.

- Em không có pass, chị.

- Ô? Vậy làm sao em qua đây?

Lắc đầu.

Lạ quá! Vào phi trường ở Việt nam để xuất ngoại là phải có passport. Có vấn đề chi đây? Chị đề nghị:
- Vậy thì chồng em phải tự đi nhận hàng.

- Dạ… anh đi làm về trễ lắm.

- Bưu điện mở cửa đến 8 giờ, thứ bảy cũng mở cửa đến 6 giờ, chồng em phải tự đi nhận thôi.

- Chị nói dùm với cô này cho em nhận… đó… đó… chị nói với bà kia kìa chị… kỳ trước bà đó cho em nhận… bà đó tử tế lắm chị.

Em chỉ một nhân viên tuổi khoảng sáu mươi vừa đi thoáng qua ở phía trong. Em nhìn theo bà ấy như nhìn một người thân quen, nhón chân như muốn bà ấy nhận ra mình rõ hơn, cho bà bước ra can thiệp dùm mình.

- Không được đâu em. Hoặc là em phải có giấy tờ chứng minh hoặc là chồng em phải tự đi nhận.

- Kỳ trước bà đó cho em nhận.

- Vậy là kỳ trước em hên đó, chứ khi dùng giấy ủy quyền là phải có passport hay thẻ nhà băng có hình.
Cô nhân viên bưu điện nhìn chị, chờ một lời giải thích. Chị lắc đầu, nói:
- Mai mốt, cô này sẽ đem theo giấy tờ cần thiết để nhận hay chồng cô ra nhận.

Em đi ra khỏi bưu điện trong khi chị làm thủ tục gởi thư bảo đảm cho cô gái út đang học ở Perth. Nhưng em không về, em ngồi ở băng ghế trước tiệm rượu ngay lối đi ra của bưu điện. Thấy chị vừa ra khỏi khung cửa kính tự động, em quắt tay kêu, giọng mừng rỡ:
- Chị… chị…

- Ủa còn ở đây hả? Nhà gần đây không?

- Dạ, em ở gần đây. Chị giúp em nhận dùm nha chị.

- Không được đâu em, nếu giúp được là chị đã làm rồi.

- Chị có giấy tờ, chị vô nhận hàng dùm em.

- Không được đâu em, người được ủy quyền không phải là chị.

- Kệ, chị giúp em được mà, chị cầm cái giấy nhận hàng này là chắc được mà.

- Không được, chị xin lỗi là không giúp được em. Mai mốt chồng em đi lãnh cũng được mà. Em qua đây diện gì mà không có passport?

Nét mặt thất vọng, ánh mắt nhìn quanh như muốn lẫn tránh câu hỏi của chị. Chiều bốn giờ nên khu thương xá trở nên tấp nập hơn. Coi đồng hồ thấy còn hai mươi phút nữa mới đến giờ hẹn đón anh nên chị hỏi:
- Em có cần chị giúp chuyện gì không? Nếu trong khả năng của chị thì chị sẵn sàng, em mới qua chắc còn nhiều bỡ ngỡ.

- Dạ… chị ở gần đây?

- Ờ, em cũng ở gần đây.

- Đi bằng gì ra đây?

- Em đi bộ cho khỏe người, ngày nào em cũng đi.

- Em không có giấy tờ gì hộ thân sao?

- Dạ không.

- Không giấy tờ gì hết?

- Dạ không.

- Vậy em qua Na Uy bằng cách nào?

- Dạ… Dạ… Hai người đàn ông da đen hỏi sao em muốn qua Na Uy, em nói vì em nghe Na Uy hiền và tử tế, thế là họ cho em đi theo. Họ tử tế lắm chị, họ cho em đi xe chung, họ cho em ở trong một cái nhà, ở một nơi nào đó xa lắm. Được sáu ngày thì họ chở em đến Oslo, bỏ em ở đó, họ biểu là em không được đi gặp cảnh sát rồi họ đi mất.

Em nói gì? Sao có hai người đàn ông da đen? Em gặp họ ở đâu?Trước đó em ở đâu? Sao họ lại bỏ em ở Oslo? Lạ quá! Như phim! Không thể tưởng nổi! Dấu hỏi, dấu chấm than đánh qua đánh lại trong đầu chị nhưng chị không dám hỏi nhiều, không biết tại sao. Nghĩ đến cảnh em đứng bơ vơ giữa rừng người, lòng chị chùng xuống, hỏi:
- Rồi em ngủ đâu, lấy gì ăn? Em có người thân ở Oslo không?

- Em làm mướn cho nhà này vài tháng, giữ con cho người kia vài tháng, người ta cho ăn, cho chỗ ngủ, được hai năm thì gặp anh này. Anh thương em, đem em về ở tới bây giờ. Em có con thì Na Uy cho em ở, phải không chị?

Nhìn cái bụng cũng được năm-sáu tháng không chừng và cảm nhận được niềm hy vọng trong giọng hỏi, tim mềm biểu chị gật đầu cho em vui, nhưng cái đầu nhìn chị với ánh mắt nghiêm khắc, chị nhìn em, nói:
- Không dễ như em nghĩ đâu em ạ. Chồng em có quốc tịch Na Uy?

- Dạ… đây chị coi.

Cái passport vẫn còn giữ được màu đỏ, nhưng có vẻ được dùng rất nhiều nên trông lếch thếch như một lữ hành với bộ áo quần duy nhất, nay ngủ góc phố này, mai ngủ thềm nhà kia. Lật ra, sanh 1972 vậy lớn hơn em ít ra cũng một con giáp, Lê Văn Tân mình không quen ai tên này, passport cấp năm 2005 vậy sống ở Na Uy ít nhất là mười hai năm sao không hiểu những luật lệ cơ bản là người được ủy quyền phải có giấy tờ chứng minh, nếu qua Na Uy khoảng năm 1998 thì trong diện nào? Không phải là tị nạn từ Hongkong, càng không phải theo diện đoàn tụ gia đình. Từ Đông Âu chăng?

Nhìn em, gương mặt dễ nhìn, trắng trẻo và không chút son phấn, chị hỏi:
- Em không thể sống lâu dài ở Na Uy mà không có giấy tờ gì cả, tụi em tính sao?

- Dạ… cùng quá thì họ đưổi em về… nhưng con của ảnh, vậy con được ở lại Na Uy thì em cũng được ở lại Na Uy, phải không chị? Ảnh nói vậy. Tới đâu hay tới đó chị ạ. Nếu họ đuổi em về Việt Nam, ảnh sẽ bảo lãnh cho mẹ con em sau. Em lo chị ơi, thời gian bảo lãnh nghe nói mất bốn-năm năm, lòng người đổi thay, biết ảnh có còn muốn bảo lãnh mẹ con em qua không?

Giọng em bỗng nhiên gằn mạnh, như tự gằn:
- Tốn kém biết bao nhiêu mà phải về lại Việt Nam thì tức chết được.

Giọng mềm lại:
- Có con thì hy vọng được ở lại Na Uy, phải không chị? Người ta nói vậy.

- Ai nói với em như vậy?

- Ở nhà thờ. Gia đình em theo đạo thờ ông bà nhưng em đổi theo đạo Tin Lành để được giúp đỡ ở Na Uy.
Các cô ở nhà thờ giúp em nhiều thứ.

- Quê em ở đâu?

- Dạ… dạ… Nghệ An, nhưng em đổi giọng.

- Ô!? Sao lại phải đổi giọng?

- Cho dễ giao thiệp với người Việt Nam ở đây, chị.

Có chuyện này ở Na Uy này nữa sao? Nhớ mấy người bạn than thở trong lần về Sài Gòn cách đây vài năm: ”Dần dần, dân Sài Gòn cạnh mặt kiểu mà ăn điểu cáng của mấy người ngoài bắc, dính vô họ thì không vỡ đầu cũng chảy máu tay. Chỉ cần nghe giọng ngoài ấy là lánh xa. Bây giờ họ đổi giọng nam khi giao thiệp làm ăn nên mình cũng không biết đâu là phòng ngừa. Mệt lắm!”

- Em có bà con ở đây không?

- Không ai cả, chị.

- Chị phải đi, em ghi số điện thoại của chị, cho chị số điện thoại của em, chị sẽ liên lạc với em sau, nha. Nếu muốn, cứ gọi cho chị. Đây là số nhà, số di động.

Bao nhiêu câu hỏi làm chị bần thần. Bao nhiêu cảnh tượng diễn ra trong đầu, những bài tường thuật về số phận ”nhóm người rơm” trong rừng ở Pháp canh chờ cơ hội đeo theo xe hàng qua Anh làm công cho tổ chức trồng á phiện lậu, những đường dây buôn người ở tầm mức buôn thú từ Việt Nam qua Tàu Cộng hay Đông Âu, những phương cách bóc lột tận xương tủy của môi giới qua tên gọi mỹ miều ”xuất khẩu lao động”… làm chị thở dài. Suốt chiều hôm đó. Anh thở dài đồng cảm nhưng căn dặn là không được nhận dùm hàng ở bưu điện, coi chừng mang họa vô thân khi thấy chị gọi điện thoại cho em.

Gọi tới gọi lui, lời giải thích lập đi lập lại: ”Số này không còn dùng nữa.”
***

Cũng băng ghế bên ngoài bưu điện, em ngồi đó, gương mặt tươi lên khi nhận ra chị đang đi vô. Niềm vui tương đồng. Sau hai tuần đi nghỉ mát về, mỗi lần có dịp vô khu thương mại, chị chọn hướng vô này với hy vọng gặp lại em. Chỉ sau một tháng mà cái bụng tròn lẳng chiếm đầy bề rộng cái áo đầm bầu màu xanh lá cây lợt và làm cái áo khoát không cài được.

- Mấy tháng rồi?

- Dạ chắc bảy hay tám tháng chi đó.

- Em khỏe không? Con đạp mạnh không? Soi vi âm thấy trai hay gái không?

- Em… em không đi soi vi âm nhưng thấy nó đạp mạnh là nó khỏe hả chị.

- Ủa… từ bốn tháng là được kêu đi soi vi âm mà, sao lạ vậy?

Hiểu rồi… nhớ rồi… tội chưa… không giấy tờ thì làm sao được hưởng những chăm sóc hoàn toàn miễn phí khi mang thai của một xã hội có hệ an sinh cao nhất thế giới, ở một xã hội tự do nhưng được kiểm soát rất chặt chẽ. Tim chị nhói đau, nắm tay em, hỏi:
- Nhưng… nhưng… như vậy là em không được đi bác sĩ, không được khám thai rồi… rồi đến chừng sanh… em làm sao?

- Em liều chị ạ. Tụi em tính rồi, chừng em chuyển bụng thì ảnh gọi taxi chở em lại bệnh viện. Ảnh có quốc tịch Na Uy thì con ảnh cũng là người Na Uy, phải không chị?

- Người đàn ông không thể nào tự họ có con. Như vậy khi em sanh là bệnh viện khám phá ra hoàn cảnh của em. Chị biết chắc là lương tâm nhân viên bệnh viện không cho phép họ từ chối em, họ sẽ chăm sóc em và con chu đáo như bất kỳ người nào. Ở đây, khi vào bệnh viện, con bộ trưởng hay con thường dân đều sẽ được chăm sóc đầy đủ như nhau và hoàn toàn miễn phí, em đừng lo chuyện này.

- Dạ… Nó là con của ảnh, ảnh có pass Na Uy thì người ta cho Nó ở Na Uy, vậy em cũng được ở lại Na Uy chớ hả chị?

- Phần con của em thì chị nghĩ đúng nhưng phần em thì chị phải thú thiệt là vấn đề không như các em nghĩ. Em có nghĩ là có thể em bị đuổi về Việt Nam không?

- Dạ, em liều chị ơi.

- Tụi em tính vậy thì chị cũng không biết giúp gì hơn. Như vầy, coi bộ cũng gần sanh, chừng nào chuyển bụng gọi điện thoại cho chị nha. Mà sao số em cho, chị không gọi được? Đúng số này không?

- Chắc bữa đó em không mở máy. Em ngại gọi chị, lỡ chồng chị bắt điện thoại thì em biết nói sao đây.

- Gọi di động, em có số di động của chị mà, cứ gọi, đừng ngại gì cả.

- Dạ.

***

Một tháng, hai tháng, không một tin nhắn, câu trả lời tự động ”Số này không còn dùng nữa.” được nhắc đi nhắc lại.

Em!

Không lường trước được những gì sẽ xẩy ra khi em được đưa vào bệnh viện, chị định bụng sẽ thu xếp để theo em đến bệnh viện khi em chuyển bụng, thử xem chị có giúp được gì không, tệ lắm thì thông dịch dùm. Biết là mình chỉ là người xa lạ nên chị dự định sẽ cẩn thận, chỉ ”ra tay” khi thấy cần và sẽ lặng lẽ rút lui khi cảm thấy thừa thãi. Biết rằng hành động này có thể bị xem là xổ xàng nhưng chị lại không muốn để lòng mình cắn rắn. Và nếu là thừa thãi thì lòng mình sẽ nhẹ đi. Cho mình! Vậy thôi!

Nhưng…

Em!

Không có số căn cước, cuộc sống hàng ngày của em sẽ như thế nào đây. Xã hội này, mọi dịch vụ đều đòi hỏi số căn cước, số căn cước là một chứng minh cho sự hiện diện trong xã hội. Không được học khóa tiếng Nauy, không được đi khám ở bất cứ một phòng bác sĩ hay nha sĩ nào, không được xin việc làm, không được có trương mục… không được hưởng một qui chế an sinh nào cả.

Em như chiếc bóng, hiện hữu mà vô hình. Bước chân em không để lại một dấu tích nên bước chân em có mất đi thì cũng không ai bận tâm đến. Dầu cho em có làm chuyện gì để bị gọi là phạm pháp hay không thì hoàn cảnh sống ngoài vòng pháp luật của em là hoàn cảnh một đứa trẻ mồ côi không ông bà cũng không cha mẹ từ thủa chào đời và bị đem bỏ nơi xa lạ.

Em như chiếc bóng được tạo bởi ánh sáng phát xuất từ lòng tử tế của người đàn ông em gọi là chồng. Mức mờ đậm, độ dài ngắn của cái bóng đong đanh theo buồn vui nguồn sáng.

Em như dây tầm gởi sống nhờ ơn mưa móc của một người đàn ông. Em không có một vũ khí tự vệ và không có quyền tự vệ. Trong bốn bức tường, sáng trưa chiều tối, đâu là chỗ đứng của em, kích thước em chiếm bao nhiêu phần, âm thanh lời em nói vọng tới đâu… Thân đàn bà!

Bây giờ em có con. Mọi ưu đãi dành cho con trẻ ở một xã hội đặt nhu cầu trẻ em lên hàng đầu đều dựa vào sư hiện diện của người mẹ. Người mẹ là sợi dây nối giữa đứa bé với mọi dịch vụ về tài chánh cũng như sức khỏe mà xã hội dành cho đứa bé ấy. Sợi dây này vô hình, sợi dây này không có số căn cước nên sợi dây này hoàn toàn dựa vào lòng nhân đạo và lòng thương hại. Ở một đầu, sợi dây mong manh này quấn chặt vào đứa bé nhưng lại lỏng thỏng bên mép của xã hội ở đầu dây kia. Có đêm nào em được ngủ bình an? Có sáng nào em hân hoan đón ngày mới mở?

Con em, như tấm ván mà em đã ngoi lên ngớp xuống, vươn tới, và cuối cùng bám được trên dòng nước lũ đêm mưa bão. Con em. Với em như một chìa khóa bằng sắt cứng trước ngưỡng cửa Na Uy. Nhưng với luật pháp thì con em là một chìa khóa làm bằng nhôm nên khi đưa vào ống khóa dễ bị gẫy cong. Con em, là tất cả em có trên đời này, không chỉ là tình mẫu tử mà là một cứu cánh.

Chị cầu xin lòng thương yêu của người đàn ông em đang sống chung mang đến cho em một cuộc sống có giá trị của một con người, ít ra thì cũng trong bốn bức tường nhà em. Chị cầu xin mảnh gỗ em bám được sẽ giúp em vượt qua con sông trong mùa bão lụt này. Chị cầu xin chiếc chìa khóa bằng nhôm mong manh ấy tìm được đúng ống khóa, mở cánh cửa cho em tìm được một cuộc sống là một công dân của nước Na Uy.

Lạy Trời!

Võ Thị Điềm Đạm

Tuesday, April 10, 2012

NGUYỄN VĂN LỤC * Nhật ký của im lặng

Đinh Cường

1. Nỗi vui một nửa

Bọn trí thức bốn tên:
Có những nỗi vui, cái thích chả cắt nghĩa được. Nhớ lại có một lúc nào đó xuất hiện các tên Trung TR rồi Chung CH đồng loạt. Nhất là sau 1963. Thật khó cùng một lúc có những tên tuổi như thế nổi lên cùng thời. Đến nỗi, ông Thiên Hổ, chủ bút báo Xây Dựng đã viết chửi gom cùng một lúc bốn tên Trung, Chung như sau: "Tất nhiên rồi. Những Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các anh em có tên Chung hay Trung cũng như các đứa con chỉ được quen mồm gọi thằng Cu như Thiên Hổ, nghĩa là đại đa số con dân Việt Nam ở ba miền Trung Nam Bắc, vẫn muốn là (những người ở giữa) thì câu đó nông a lê ù, mà còn tổ làm cớ cho Cộng sản nó khai thác. Nhà dân biểu hăng say Lý Quí Chung vì dân tộc, với dân tộc hẳn đã nghĩ đến điều đó. Dù sao Thiên Hổ cũng xin phép nói trước, sợ đàn anh quá sốt sắng đến thành ngây thơ. Chết cho dân tộc chúng em đấy. Thiên Hổ.

Có điều cả bốn người họ đều nổi cộm lên, đều viết được. Phải nói họ đều viết hay mới đúng. Trong hồi ký của Lý Quí Chung cũng đã có lần nhắc đến cái cụm bốn Trung, Chung rất là lạ, rất là kỳ cục như thế. Trong cả bốn, Nguyễn Hữu Chung sau này ở cùng chỗ với tôi, lại có viết chung trên Tạp chí Đi Tới. Anh viết ít. Nhưng nhiều lúc anh hạ một con chữ, tôi đọc thấy cũng đã lắm.

Đến lúc Lý Quí Chung cho ra cuốn: "HỒI KÝ KHÔNG TÊN", rồi Talawas cho đăng lại. Tôi theo dõi mỗi ngày với sự thích thú. Nay đã đọc xong, xin ghi lại một số cảm nghĩ của mình.
Thể văn hồi ký tự nó có sắc thái đặc biệt. Đó là thể văn cho người đã xế chiều. Viết để nhớ lại và gửi gắm. Đọc nó, giúp ta hiểu đời sống một người đồng thời hiểu một giai đoạn mà tác giả sống, nhất là về phương diện chính trị, xã hội hay văn học. Nhưng theo tôi, đó là một thể văn gay go nhất, vì nó đòi hỏi người viết một nguyên tắc khá quyết liệt: Viết thật thà, viết với lòng trung thực, viết không phải để tô son đánh bóng mình. Hầu hết các cuốn hồi ký từ trong nước đến hải ngoại đều vấp phạm phải lỗi lầm này. Đến không thể kể ra cho hết được. Thế là cuốn hồi ký trở thành vô giá trị, cùng lắm đọc chơi, đọc để giải trí.

Riêng cuốn hồi ký của Lý Quí Chung tôi nghĩ nó đạt được nửa điều trung thực, nửa điều thật thà. Nửa kia phải nín thở qua sông. Lỗi không phải ở tác giả. Bởi vì nó che dấu nhiều thứ. Có những điều cần nói đã không nói ra. Bắt đầu từ chương: Sau ngày 30.4.1975. Đến ngót nghét 30 năm mà như thể không có điều gì để nói.

Tôi tự hỏi mình, ông viết vào cái lúc sắp sửa bước chân vào cõi bên kia. Còn gì để ông vướng bận? còn gì để ông e ngại mà không trải lòng mình ra? Cái chúc thư mà ông gửi đến người đọc là chúc thư gì? Nội dung nhắn gửi có đủ chưa, có còn gì để nói nữa? Điều gì đã làm ông phải lựa chữ, lựa lời, lách chữ để có mặt? Để ít ra còn được lên tiếng?

Nhưng dù gì đi nữa, tôi cũng vẫn đọc ông với niềm trân trọng nhất là khi ông viết những dòng trăn trối như thế này:
"Tôi có ý định viết lại phần đời sau 30 tháng Tư 1975 này, thành một tập hồi ký riêng. Nhưng tôi hoài nghi mình sẽ không còn thời gian đủ để làm việc đó. Tôi vừa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo, không biết thời gian tạm ứng tiếp cho tôi sẽ được bao lâu. Phần một của tập Hồi Ký tôi mất một năm rưỡi để viết. Tôi đã bắt đầu ngay khi vừa phục hồi sức khỏe từ cuối tháng 12.2002. Khi viết những dòng này, ngày 01.3.2004, tôi được tin người bạn thân và đồng hành với tôi trước 1975 trong thời gian chống Mỹ-Thiệu, cựu dân biểu Nguyễn Hữu Chung, đã mất ngày 26-2004."

Có thể thời gian còn lại quá ít để ông không có thì giờ viết nữa?
Nhân tiện đây xin trích dẫn một người bạn thân Nguyễn Hữu Chung của ông. Lối viết rất Nam Kỳ, rất Nguyễn Hữu Chung, rất trung thực trong một lá thư trước khi ông mất. Lá thư này coi như chúc thư gửi cho ông chủ bút , nhưng cũng là gửi cho mọi người để cùng nhau suy nghĩ.

Anh Hóa.
Bác sĩ cho "moi" 12 tháng, "moi" xài hết 6 tháng rồi. Anh kêu tôi viết, tôi cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ mình viết cái gì bây giờ?
Mình viết về một dân tộc mà mình biết có một phân nửa. Mình viết về một đất nước mà mình biết có phân nửa. Mình viết về thế hệ tương lai, tính từ 75, đã một thế hệ sanh ra và lớn lên mà cả hai thế hệ này... nó không biết mình là ai, mà mình cũng không biết nó là ai.
Anh thấy không, anh kêu tôi viết về tuổi trẻ, về tương lai, về một thế hệ mà đã hơn một phần tư thế kỷ mình không ở đó, cái điều đó có thể cũng không sao, nhưng quan trọng hơn, là mình không dự phần, mình không chia xẻ, thì bây giờ viết cái gì bây giờ. Tôi đi năm 75, ở cái tuổi sung mãn nhứt của đời người thì… chỉ để kiếm cơm. Bây giờ về hưu rồi, hết rồi "toa" (…) Nhưng anh cứ nói cho tôi biết, tôi phải viết cái gì bây giờ?
Nguyễn Hữu Chung,
Montréal, một ngày tháng Tư 2003
(Trích một lá thư gửi Đoàn Minh Hóa, chủ nhiệm, chủ bút Tạp chí Đi Tới, Montréal, Québec, Canada)


Trích dẫn cả hai đọan văn trên để nhớ cả hai người đã một thời tuổi trẻ, đã có mặt, đã tham dự một phần vào lịch sử miền nam vào những ngày trước 30.4.75.

Những trí thức trẻ tạo nên thời cuộc

Dựa theo Hồi Ký Không Tên của Lý Quí Chung, tôi nhớ lại sau 1963 xuất hiện một loạt những khuôn mặt chính trị non trẻ, không có một tý bề dày kinh nghiệm chính trị gì cả. Vốn liếng chính trị rất mỏng. Kinh nghiệm sinh hoạt nghị trường v.v... cũng không có. Kể như là những tay mơ. Họ là giới thanh niên trí thức trẻ của cả một thời, đánh dấu một thời kỳ của ho. Họ là những Ngô Công Đức, Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Phạm Thế Trúc (sau trốn sang Nhật không dám về) Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Cứ, Hoàng Ngọc Biên, Dương Văn Ba, Dương Minh Kính, Nguyễn Văn Châu, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Tấân Mẫm, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Binh (đại tá). Dĩ nhiên, phải nhìn nhận rằng, họ có mặt là do sự hỗ trợ đằng sau của Công giáo hay Phật giáo hoặc do nhãn hiệu Nam, Bắc hay Trung. Thời cuộc thay đổi, tình hình chính trị thay đổi. Họ thay thế các khuôn mặt chính trị lớp cũ, nhiều khuôn mặt quá quen thuộc tỏ ra lỗi thời. Họ thiếu kinh nghiệm, nhưng xông xáo, học bài rất nhanh. Cộng thêm họ lý tưởng, có một tấm lòng. Nhiều người trong họ, với kinh nghiệm thu tập trong nghị trường, trong mặt trận báo chí, trong các phong trào phản chiến, đứng giữa hay thành phần thứ ba. Chẳng mấy chốc, họ trưởng thành qua kinh nghiệm, trở thành những khuôn mặt chính trị đại diện giới trí thức trẻ khuynh tả của miền Nam lúc bấy giờ.

Đại diện trong đám họ, tiêu biểu có thể là mẫu người như Lý Quí Chung, vừa là nhà báo như các người trẻ khác như Trương Lộc, Trần Trọng Thức, Nguyễn Vạn Hồng, Nguyễn Bá Thành. Vừa là nhà chính trị như một số dân biểu vừa nêu trên. Ông là mẫu người lý tưởng, hăng say, dấn thân nhập cuộc.

Những điều mà ông Lý Quí Chung viết về giai đoạn ấy khá trung thực. Trung thực khi viết về chính bản thân mình như học dở dang, chưa ra ông ra thằng. Vào đời vỏn vẹn có mảnh bằng Tú tài 1, chương trình Pháp. Tay nghề làm báo kể là số không. Lăn vào chính trị như một tình cờ, một dun dủi. Đi từ trí thức khuynh tả nhảy sang đứng giữa rồi thành phần thứ ba.
Nhưng qua những điều ông kể, đánh giá người này, người kia, đánh giá sự việc, đánh giá một tình huống. Phải nhận ông là người có tài, người có một tấm lòng, người thẳng thắn, tạo cho mình một bản lãnh, một thế đứng chính trị, phản ứng ăn nhịp với xu hướng chính trị, thời cuộc. Đó là trí thức khuynh tả, thành phần thứ ba.

Chập chững vào nghề: Hứa hẹn vóc dáng một tên tuổi đầy hứa hẹn
Tôi còn nhớ vào những ngày trước biến cố Phật giáo 1963, một số tờ báo vẫn có thói quen ca tụng chế độ Ngô Đình Diệm. Tờ Sàigòn Mới là một trong số những tờ đó. Nhưng khi ông Diệm, ông Nhu bị thảm sát xong. Diện mạo, cung cách, giọng điệu một số tờ báo đã khác. Họ đổi chiều, trở giọng nhanh như chớp đến đáng khinh. Vô số những bài phóng sự mới ra lò bôi nhọ chế độ ông Diệm. Không ai cấm họ làm như thế với điều kiện trước đây họ đừng có khen hay nịnh bợ. Khinh họ là ở chỗ đó. Chỉ trong một đêm. Giọng điệu đang rỉ rả ca tụng thành chửi bới, bôi nhọ. Tôi cảm thấy ngầy ngật về nhân cách của một số tờ báo thời đó.

Vì thế, tôi đọc hồi ký của Lý Quí Chung trong chương: Chập chững vào nghề báo. Tôi nghĩ rằng, ông là nhà báo trẻ và duy nhất không nói và về hùa theo đám đông. Bài báo viết về vụ ông Cẩn của ông có cách nhìn riêng, khá nhân bản và can đảm. Có lẽ cả cuốn hồi ký, phần này nói lên cái nhân cách của Lý Quý Chung sau này. Lý Quí Chung vượt trên cái nhãn thức bình thường của các ký giả viết chạy theo thời cuộc, viết a dua, viết chạy theo đám đông, viết bôi bác lem nhem, nhãn thức thiển cận hẹp hòi không có trình độ, thiếu một cái nhìn sắc bén về cá tính ông Ngô Đình Cẩn. Lý Quí Chung biết nhận ra ở ông Ngô Đình Cẩn lúc ra tòa, lúc ở cái thế kẻ thua cuộc. Ông Ngô Đình Cẩn vẫn tỏ ra cho thấy một con người có bản lãnh, có cá tính, có uy lực, coi thường những kẻ đang xử án mình và coi khinh những nhân chứng trước đây ra vào nhà ông qụy lụy. Từ tư thế một tội nhân, bị xử án, ông Cẩn ở tư thế một người biết chấp nhận thua được một cách bình thản. Khó chứ không phải dễ. Người ta có thể oán hận ông, có thể kết án ông điều này điều nọ. Nhưng trước tòa án xử ông, ông chứng tỏ một nhân cách đáng nể. Điều đó không thể phủ nhận được.

Lý Quí Chung viết: "Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh khi các tướng tá đang ngồi xử mình.. Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quí Chung viết: "Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt bằng vải đen thì ông ta phản ứng. Ông nhất định không để bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thích với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1.11.63. Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông tại tòa.
Bài viết này làm nên vóc dáng Lý Quí Chung sau này trong nghề làm báo và chính trị, khởi đầu một cuộc hành trình trí thức trẻ, dấn thân và nhập cuộc. Đó là bài báo như bước chân khổng lồ vào đời, xác định được thế đứng, góc nhìn và vóc dáng của một nhà báo trẻ. Bài báo đó báo hiệu tương lai một người tuổi trẻ lý tưởng và hăng say, can đảm và trung thực.
Vào lúc đó, ngoài Lý Quí Chung, còn có tờ Tiếng Nói Dân Tộc, số kỷ niệm ngày 1.1.63 có ghi lại cảm tưởng như sau: "Vô cùng kinh ngạc vế thái độ dửng dưng và thật trầm tĩnh của con người được mệnh danh là Út Trầu, lúc mà Cẩn biết bị bác đơn ân xá" .

Khoảng gần 30 năm sau. Trong hồi ký Luật Sư: Nghề hay Nghiệp, hồi ký về vụ án ông Cẩn đăng trên tờ Thế Giới Ngày Nay ở Kansas, Hoa Kỳ, năm 1992, Luật sư Võ văn Quan viết: "Ông Cẩn im lặng nghe đọc bản án bác đơn xin ân xá. Quá cảm động, tôi chỉ biết nói câu an ủi tầm thường: "Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này sớm muộn gì rồi cũng phải ra đi." Ông nhìn tôi điềm tĩnh nói: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo mấy ông anh của tôi. Tôi trở về cõi Chúa. Tôi không sợ chết đâu, nhưng tôi lo cho luật sư. Luật sư đụng chạm tới họ không biết luật sư ở lại có bi họ làm khó dễ hay không.." Tôi ứa nước mắt nói không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi. Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa". Người lính đem khăn vải đen bịt mặt ông. Tới lúc đó, ông không còn giữ im lặng lắc đầu nói lớn, tôi không chịu bịt mắt đâu, tôi không sợ chết, nhưng người ta vẫn buộc. Bị bịt mắt, ông Cẩn vẫn lên tiếng phản đối vùng vẫy cái đầu. Một tiếng hô, một loạt súng nổ. Đạn bắn mạnh vào làm cho thân hình người tử tội bật ngược lên, dãy nảy rồi rũ xuống như một người máy bị đứt dây thiều. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết bước tới cọc, lạnh lùng bắn phát đạn ân huệ. Đầu ông Cẩn dãy lên rồi gục xuống. Hoàng hôn chụp xuống ảm đạm tang tóc".

Ông kết luận: "Tối hôm xử bắn, tôi đã uống thuốc để cố gắng tìm giấc ngủ, vẫn trằn trọc thao thức suốt đêm vì bao hình ảnh vụ án cứ dồn dập quay cuồng trong tâm trí và ông nhận ra tình cảm cũa ông đối với bị cáo đã thay đổi: Lúc đầu ác cảm phẫn nộ, đến khâm phục và thương tâm.
Con đường làm chính trị thông qua cửa ngõ nhà thờ, hoặc nhà Chùa.
Qua Hồi Ký Không Tên giúp chúng ta hiểu khá rõ quá khứ của những sinh hoạt chính trị sau năm 1963. Tôi còn nhớ đến ngạc nhiên là tự mọi nơi chốn, những người trẻ quen cũng như không quen, như một lớp sóng trào nhảy vào chính trị rất là ngang xương, rất là " blanc- bec". Nguyễn Hữu Hiệp, dáng thư sinh học trò, con cháu của Molière và học trò của Aristote, Platon đã dùng cú đá song chảo đá văng những nhà chính trị lão thành tăm tiếng như bác sĩ Hoàng Cơ Bình. Châu Nguyễn ở Đà Lạt cũng vậy. Dưới tỉnh, những Bành Ngọc Quý, Dương Văn Ba đã có lá bài "Miền Nam" hay "Liên Trường", hay địa phương. Những Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Binh, Lý Quí Chung, Dương Minh Kính thì đúng ra mỗi người có những lá bài "tẩy", những lá dù che của thời kỳ đó.

Họ muốn lọt vào sinh hoạt chính trị, không có con đường nào khác qua cổng chùa hay cổng nhà thờ. Một điều như thể bắt buộc, không làm khác được. Cha Cố, sư sãi có giá. Điều đó chứng tỏ một chính quyền, một chế độ non nớt. Uy quyền Quốc Gia không có. Tôn giáo, thần quyền dính vào thế quyền, chia xẻ quyền lực rất tay ngang và không bình thường. Cổng chùa, cổng nhà thờ nay ra vào không phải là những Phật tử hay con chiên ngoan đạo nữa. Thêm vào đó là những nhà chính trị, trẻ có, già có đi tìm một tấm giấy thông hành chính trị. Không ai có thể ra vào Hạ Viện, Thượng Viện mà thiếu một tấm giấy thông hành. Hạ Viện thì đám người trẻ như tác giả Lý Quí Chung. Rất năng động, rất xôm tro, rất nổi đình đám. Hoặc như các dân biểu Đinh Văn Đệ, Nguyễn Phúc Liên Bào, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu trong vai trò dân biểu đối lập. Hoặc có những người ít xuất hiện công khai như Dương Văn Tòng, Trương Lộc, Hoàng Ngọc Biên v.v.. Hoặc trong bóng tối với tư cách người Cộng sản như: Trương Bá Cần (hay Trần Bá Cường), Vương Đình Bích, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ. Bốn người này đều có thẻ đảng và nắêm tờ Công giáo và Dân Tộc từ sau 75 cho đến hiện nay.

Thượng Viện thì thầm lặng hơn với đám sồn sồn, trí thức salông. Họ bỏ nhà thương, bỏ tòa án, bỏ quân ngũ, bỏ trường học để ra ứng cử và xếp hàng dưới hai nhãn hiệu: Liên danh của Công giáo hay Phật giáo. Chỉ cần người đứng đầu có tên tuổi như Trần Văn Lắm, Vũ Văn Mẫu, Dương Văn Minh v.v.. gắn thêm cái mác tôn giáo. Thế là xong. Ngay cả những liên danh quân đội của các tướng như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính thì cũng không thoát nổi cái dù che của Cha cố, Sư sãi. 9 người còn lại đều có nghề nghiệp chuyên môn, có tuổi, có tên, nhưng mà chưa có tên tuổi. Họ là những nhà chính trị giả hiệu, thiếu tay nghề, thiếu kinh nghiệm nghị trường. Cùng lắm là những nghị gật.

Và đây là lời xác nhận của ông Lý Quí Chung về điểm này: "Trong khi chuẩn bị cuộc vận động cho liên danh Dương Văn Minh với tư cách đại diện báo chí cho liên danh này, tôi đã tiếp cận với Phật giáo Ấn Quang tìm sự ủng hộ của lực lượng Phật giáo có hậu thuẫn quần chúng lớn nhất. Hình như dân biểu đơn vị Huế là Trần Ngọc Giao cũng có giới thiệu tôi với Thượng tọa Trí Quang lúc này đang ở chùa Ấn Quang"
Dân biểu Lý Quí Chung nhận xét tiếp: "Lần đầu tôi gặp 'Người làm rung chuyển nước Mỹ', Báo Newsweek đã gọi Thượng tọa Trí Quang như thế. Khi đã tiếp xúc thì con người ấy đã toát lên một thứ thần sắc khác thường. Ánh mắt như sao băng, chiếu thẳng vào người đối thoại như nhìn thấu những suy nghĩ của họ. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu tiên ấy khi lần đầu gặp nhà tu hành nổi danh."
Khi ra Huế, dân biểu Lý Quí Chung đưa ra một nhận xét khá đặc biệt khi gặp Đức Tăng Thống: "Trong chùa Bảo Quốc chỉ treo một bức ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung Thượng tọa Trí Quang. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang với người lãnh đạo tinh thần cao nhất Giáo Hội Phật Giáo là như thế nào."

Nay thì quyền lực thế trần nắm trong tay các vị lãnh đạo tôn giáo, thay cho quyền lực siêu nhiên. Hay có thể là cả hai mà tự bản chất của các tôn giáo, hai quyền lực đó không thể dung hợp nhau được. Hoặc có cái này thì không có cái kia, có loại trừ, không làm tôi hai chúa được. Đó cũng là lựa chọn đau xót mà mỗi người tu hành bước qua ngưỡng của tôn giáo phải tuân thủ. Bước đầu của việc tu trì là rũ áo, bỏ đời mà đi trong tấm lòng thanh thản, không còn nuối tiếc trần thế nữa.

Cho nên, đừng ai nói hay. Tôn giáo mà đi đôi với thế quyền, cộng thêm tiền bạc thì khó tránh khỏi nguy cơ của sự sa đọa trần thế. Sa đọa quyền lực, lẫn lộn vai trò lãnh đạo tôn giáo và vai trò lãnh đạo chính trị. Một thứ chính trị như ban phát ơn, thiếu lành mạnh, thiếu dân chủ chỉ xảy ra ở VN trong một tình huống khá đặc biệt. Nhìn lại cho thấy đó là một giai đọan tồi tệ vì một khủng hoảng quyền lực, khủng hoảng uy quyền Quốc Gia. Chúa Phật chỉ có nước bỏ chùa, bỏ nhà thờ mà đi lang thang.

Hồi ký của Lý Quý Chung khá lý thú kể về người, về việc, về từng biến cố với tư cách người trong cuộc. Nhất là nêu bật được cái hay, cái dở, cái yếu của cái cơ chế của sinh hoạt chính trị thời đó.

Tôi cũng nhận ra rằng, trong cuốn Hồi Ký Không Tên, phần viết về những năm hoạt động báo chí và làm dân biểu, Lý Quí Chung viết rất thong dong, thoải mái, rạch ròi từng sự việc, từng người, phê phán thẳng thắn theo cái kiểu "Có sao nói dzâïy". Từng nhà báo, từng tờ báo, từng nhân vật như ông Thiệu, ông Kỳ. Nêu bật được cá tính, cái hay lẫn cái dở của họ. Về những hoạt động chính trị của ông với tư cách một dân biểu đối lập, về các đồng sự, về các cuộc chống đối biểu tình được nhìn từ bên trong với tư cách người trong cuộc.

Ông không ngại nói hết, kể hết cho thấy vai trò của ông trong các biến động ấy. Đấy là những trang hồi ký sống động, một thứ sản phẩm còn nguyên vẹn được bóc trần ra, ít lắm cũng có thêm những chi tiết mà phải là người trong cuộc mới biết được. Chẳng hạn như cái chương 25, Thời khắc Lịch sử: Đầu hàng. ông đã tận dụng ngòi bút để nhấn mạnh vai trò nhân chứng của mình, từng chi tiết nhỏ một. Dù là nhân chứng một vụ việc rất là nhỏ, chẳng đáng nói. Chẳng hạn chi tiết hướng dẫn một ngườøi lên sân thượng để treo lá cờ Giải phóng, thay lá cờ Quốc gia.

Chi tiết lá cờ Giải Phóng, nửa xanh nửa đỏ treo lên ở Dinh Độc Lập khá là quan trọng và mang nhiều ý nghĩa lắm. Ở những ngày sau 30-4. Sàigòn rợp bóng cờ mầu xanh. Phố phường, nhà nhà mầu xanh, mầu đỏ, xe cộ chạy rần rật trên đường phố phất phới mầu xanh. Trẻ con cầm lá cờ đi phất phới khắp nơi. Cũng mầu xanh và đỏ. Cũng lá cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Vậy mà, chẳng bao lâu sau, trong vài tuần lễ, không kèn không trống.. Những lá cờ mầu xanh và đỏ đó biến đâu mất.

Phải nói lại, miền Nam có hai lần giải phóng cờ: 30-4, giải phóng cờ Quốc Gia, cờ mầu vàng ba sọc đỏ. Sau một tháng, giải phóng cờ một lần nữa. Lá cờ mầu xanh đỏ thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng. Cùng với sự biến mất lá cờ mầu xanh cũng dần biến mất những nhân vật đã từng nhân danh chiến đấu dưới nhãn hiệu lá cờ xanh, đỏ đó.

Cũng qua cuốn Hồi Ký, mặc dầu chỉ trong vài dòng, ông cũng lột mặt nạ một số trí thức theo đuôi, không khỏi có những nhố nhăng khó tránh khỏi. Ta hãy nghe ông kể: "Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi: "Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại." Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ. Ai cứ bảo là Lý Quí Chung ra đòn không thâm?

Cũng qua cuốn hồi ký, tôi nhận ra một điều là trí thức miền Nam như những Lý Quí Chung chủ trương chống Mỹ và chống Thiệu. Chống Thiệu thì rõ ràng rồi, không có gì để phải nói. Chống Mỹ thì có hai mặt: Chống đường lối, chính sách của Mỹ chung chung. Nhưng mặt khác lại giao du khá thân mật với các ký giả, nhà chính trị Mỹ. Và coi những người này như những người bạn tâm giao, nếu không nói là hãnh diện về những mối liên lạc này. Trong suốt hồi ký, tác giả đã không quên nhắc đến người này, người kia trong sự trân trọng và quý mến. Họ như thể nằm trong cái vốn chính trị của tác giả như một thành quả trong những năm hoạt động chính trị của mình. Chống Mỹ mà vẫn yêu Mỹ, tin Mỹ, mà vẫn chơi với họ..Chống hời hợt. Không có chỗ nào cho thấy trực diện chống Mỹ, nếu không nói là để cho Mỹ giật giây.

Nó có một cái gì đấy cho thấy việc chống Mỹ chưa đủ căn cơ, mức độ. Nhiều lúc tự hỏi, ông đã viết được một bài báo hay một cái gì đó tương tự trong đường lối chống Mỹ? Chống cái gì? Chống chung chung? Từ đó dẫn đưa đến những ngờ vực.

Ông để ra hai chương nói về: Những ngày cuối cùng của Tổng thống Thiệu và cuộc "trốn chạy" của Nguyễn Văn Thiệu. Có những điều thật sự nó không phải là hồi ký của chính ông kể lại hoặc do nghe được, chứng kiến. Có nhiều đọan, ông trích dẫn lại hồi ký của Nguyễn Cao Kỳ hoặc trích dẫn Christian G. Appy trong The Viet Nam war rememberd from all sides hay của Frank Snepp trong Interval Decent (sách đã được dịch ra tiếng Việt), hay của Henry Kissinger trong Ending The War, hoăïc của Tiziano Terzani trong Three days and Three months. Những trích dẫn nhiều như thế làm mất cái đặc sắc của vai trò nhân chứng của ông.

Nhưng nói chung, nếu nhìn toàn diện những chương viết về giai đoạn trước 30.4. Cuốn hồi ký của tác giả ít lắm nêu bật được những điểm quan trọng sau đây:
- Vai trò của trí thức trẻ miền Nam Việt Nam
- Bộ mặt thật của sinh hoạt chính trị miền Nam dưới thời đệ nhị Cộng Hoà.
- Vai trò chủ động không chối cãi được của người Mỹ trong những yếu tố quyết định số phận miền Nam.
- Tính cách con rối của toàn bộ sinh hoạt chính trị ấy.

2. Một Nửa Buồn

Nửa phần bài viết này sẽ được trình bày về chương: Sau ngày 30.4 và chương phụ lục.

Về chương phụ lục, thật ra phải cám ơn Talawas về cái chương phụ lục này. Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất. Tôi dành phần còn lại của bài để nói về chương này và để thấy rằng có nhiều điều Lý Quí Chung đã không dám nói thật, nói hết, nói đủ.

Cuộc đời làm báo, làm chính trị của tác giả chia ra hai giai đoạn. Dứt khoát và rõ rệt. Giai đoạn 13 năm trước 30 tháng Tư mới đúng là con người Lý Quí Chung. Một thanh niên lý tưởng, hăng say, dám nói, dám làm, dấn thân, nhập cuộc. Không ai chối cải điều đó. Rất trân trọng. Và gần 30 năm sau ngày 30 tháng Tư, tác giả dù cố gắng cũng không viết nổi, vỏn vẹn chưa tới 20 chục trang. Với lời thú nhận: Thận trọng lúc này là cần thiết. Đó không phải là Lý Quí Chung. Đó là ai khác. Đúng như tác giả viết: "Nói cách nào đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975. Chỉ không quyện vào nhau như tác giả nghĩ.

Trước hết, hãy nói về những gì Lý Quí Chung viết về giai đoạn sau ngày 30.4. Nói chung, đó là những lời lẽ khá nhún nhường, quá bài bản đến không thật như: "Thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất.. sự kiện đó có một ý nghĩ lớn.. có mặt trong một hội nghị như thế là một sự thỏa mãn tinh thần cực kỳ lớn.. tôi vô cùng thỏa nguyện được sống trọn vẹn với nghề này.. và tôi không thể tưởng tượng được ở đó tôi còn cơ hội gặp lại lần lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đã thuộc về lịch văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận.. Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Những ngày làm báo từ Tin Sáng 75-80 sang Tuổi Trẻ 80-90, tôi vẫn không một ngày nào thiếu hăng hái hay mất niềm tin.. đồng lương thì chỉ đủ ăn sáng, nhưng cống hiến thì vẫn hết mình. Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi, nhung bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa.. ngay chỉ còn cái đàn piano, niềm vui sau cùng của các con tôi cũng không thể giữ nổi.. để lo cuộc sống hằng ngày, chúng tôi đành phải bán nó đi. Tại tòa báo vào thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp tư sản, tư doanh.. vậy mà chính nhà ba của ông bị đóng chốt để cuối cùng ông cụ bị lên huyết áp và đột qụy, cụ gặp đứa con đã giận dữ nói: "Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này, mà mày còn viết báo cho Cộng sản. Cha mày từ mày". Còn các em trai của tôi thì không tin vào người anh trai của mình nữa. Chỉ làm thinh để chuẩn bị vượt biên. Như vậy, cùng một lúc, tôi" mất" bảy đứa em.

Không phải là một đảng viên Cộng sản nhưng tôi tin vào những lý tưởng xã hội tốt đẹp cho bất cứ xã hội nào muốn tiến lên công bằng xã hội và nhân bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bị xụp đổ… nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nằm mơ.. Hà Nội bây giờ như một thiếu nữ đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài Gòn mạnh mẽ hơn nhiều và tự tin hơn nhiều trong cuộc hành trình mới, bởi sự tồn tại của thành phố này không còn nhờ vào sự "tiếp máu" của người khác.

Đọc những dòng chữ trên của ông, tôi cũng tưởng mình đang nằm mơ tự hỏi có phải đó là Lý Quí Chung hay không? Dù sao, cũng rất may, ở vào thời điểm đó, các trí thức miền Nam gặp được một người như ông Võ Văn Kiệt. Ông là cái dù che chắn cho trí thức miền Nam khỏi phải bị dập vùi thê thảm.. Không có ông, số phận nhiều trí thức trẻ miền Nam đã không được như ngày nay. Họ sẽ phải đi học tập, tệ nữa bị kiểm soát, canh chừng hoặc tù đầy, bắt cóc, hành hạ, tra hỏi, trục xuất khỏi nhà..
Vì thế, không thể không nhắc tới tấm lòng ưu ái của ông Võ Văn Kiệt đối với trí thức miền Nam.

Về tờ Tin Sáng.

Đây là một niềm hãnh diện của ông và một số bạn bè của ông. "Le Tin Sáng est le seul journal non communisme dans une société communiste. (Tờ Tin Sáng là tờ báo duy nhất không Cộng sản trong một xã hôi Cộng sản). Từ đó ông hết lời tán dương: "Comme la plupart de mes amis ici, J'ai vécu l'experience des deux régimes de presse. Tu connais le mot de Đuc, notre directeur: auparavent, nous étions des bucherons, aujourd'hui, des menuisiers. Le comportement est radicalement différenr. C'est dans la construction que nous nous sommes lancés. Aujourd'hui, je me sens beaucoup plus utile pour la société Vietnamienne, pour mon peuple, plus lié à la vie de la nation, plus responsable, oui, c'est le mot. (cùng sách vừa trích dẫn).

Câu nói trên cho thấy ông phủ nhận toàn bộ gia tài làm báo, làm chính trị dưới thời Đệ nhất Cộng hoà của chính ông. Ông còn cho rằng trước đây cùng lắm ông làm thợ bửa củi. Đi biểu tình, tranh đấu trước diễn đàn Quốc hội, họp báo, tiếp xúc, diễn thuyết, phân phát truyền đơn, chống luật báo chí, chống tham nhũng, chống đối bầu cử độc diễn, chống độc tài, chống dân biểu gia nô, nghị gật, chống Nguyễn Văn Thiệu, chống Mỹ, nằm trong lực lượng thứ ba đòi hỏi chấm dứt chiến tranh. Tất cả công việc vừa nêu trên chỉ là đáng được coi là công việc bửa củi thôi sao? Bẽ bàng thế? Có thể phủ nhận chính mình, tự hạ thành con dun, con dế? Ai dãõ đẩy ông vào tư thế phải nói như vậy? Bây giờ làm thợ nề, thợ nề để tán tụng, để cúi đầu, để vâng phục. Thử hỏi ông đã làm được gì trong suốt 30 năm làm thợ nề? Kể là đau xót. Ai đó đã bắt ông phải hạ mình nói như thế ?
Viết như thế, tôi không hề có ý chê trách ông, vì một lẽ dễ hiểu, ông đang sống trong một xã hội toàn trị, với khủng bố và đe dọa tinh thần. Đúng như ông vẫn nói: Cái ung thư bướu là người của chế độ cũ luôn luôn vẫn còn đó, ám ảnh và gây phiền hà cho ông. Chả lúc nào, ông được yên.
Cho đến năm, 1980, lúc mà tờ báo sắp đóng cửa theo 3 cái nguyên tắc đề ra ở thời kỳ đó: để cho làm, phạm sai lầm thì đóng cửa. Dùng cho đến khi nào thấy không cần thiết thì vứt kiểu vắt chanh bỏ vỏ. Ba tạo một tương quan tin tưởng tốt vào nhau.

Rõ ràng việc đóng cửa là dựa vào nguyên tắc thứ hai. Đã không có quý ông nào dám lên tiếng. Trong khi đó, tôi đọc được như sau: "Cinq années se sont passés. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et de ses amis parait toujours. Le test est il positif?" (Trích dẫn như trên) Hỏi là trả lời. Cái test cho thấy một thất bại ê chề của trí thức cũ làm việc dưới chế độ mới. Chả nhẽ nói bị lừa, bị bội phản. Dù sao, 5 năm cũng là thời gian khá dài so với tờ Đứng Dâïy của Nguyễn Ngọc Lan. Số phận nó chỉ thoi thóp chưa tới một năm. Sau 5 năm. Tất cả trí thức cũ chỉ còn là những quả chanh chắt đã vắt vỏ. Quả chanh Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Tấn Mẫm (sau Huỳnh Tấn Mẫm bị quản chế cùng với những người như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, vì cái tội dã tiếp xúc với báo chí ngoại quốc, hay phê bình và đòi hỏi cải tổ nhanh guồng máy kinh tế và chính trị. Những vụ quản chế này không được loan báo công khai và nơi quản chế cũng vậy). Quả cóc Nguyễn Hữu Thái. Quả bưởi Nguyễn Ngọc Loan, Chân Tín. Quả đu đủ Lý Chánh Trung. Quả dừa Huỳnh Công Minh, Trương Đình Hoè, Phan Khắc Từ. Quả ổi Dương Văn Ba.

Các ông chẵng còn gì để vắt nữa. Rồi cuối cùng phải nhìn nhận như Ngô Công Đức thôi: "Nous avons surmontés les difficultés, mais non sang certains dégats. Quelque-uns, parmi nous, sont partis à mi chemin, d'autres ont vacillé". Và đây cũng là yếu tố góp thành sự đóng cửa tờ Tin Sáng, vì có nhiều người trong đám trí thức thành phần thứ ba thất vọng, chao đảo hay bỏ ra đi.

Nhưng vì lý do gì nó phải ngừng bản và chuyển một số bộ phận sang tờ Tuổi Trẻ. Ông đã cố dấu kín. Ông đã viết một cách úp mở như sau: "Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều quan điểm, thái độ khác nhau đối với hướng đi và cách quản lý tờ báo". Oâng buộc lòng không dám nói thẳng ra là có sự bất đồng quan điểm về hướng đi tờ báo kể từ khi có biến cố Đông Aâu cũng nhu sự xụp đổ bức tường Bá Linh.

Về lá thư Lettre aux amis d'occident.

Trong lá thư này, có hai điểm gửi cho giới trí thức Âu châu mà tôi không đồng ý: Đó là việc học tập cải tạo và vấn đề thuyền nhân.

 Về các trại học tập: Trong lá thư mà không biết ai là người thảo lá thư đó, một số trí thức miền Nam đã phủ nhận đó không phải là nhà tù, không phải trại tập trung thì nó là gì? Là trung tâm cải tạo? Người đi tù cải tạo không phải người tù chính trị, cũng không phải kẻ bị khổ sai (Forcats). Đó chỉ là những lý lẽ tiểu xảo chơi chữ, trốn tránh và biện hộ cho chế độ. Các ông đã che đậy cho những chính sách của Hànội. Thực tế họ là những người tù khổ sai, không có ngày về. Nhiều người đã chết vì bệnh tật, đói ăn ở đó? Các ông biết rất rõ. Vậy mà vẫn phải nhắm mắt bênh vực chế độ.

 Về người di tản: Cũng lá thư đó đã đổ lỗi cho chế độ cũ, đổ cho sự tuyên truyền của Mỹ, đổ cho chính sách người Hoa của Trung Quốc. "En fin, comme il a été dit plus haut, ce sont les dirigeants de Pékin qui ont provoqué l'exode massif des résidents Chinois pour pouvoir nous accuser ensuite de 'terroriser et de chasser les Hoa', justifie ainsi leur polique inamicale (cessation de L!aide économique) puis ouvertement agressive à l'égard du Viet Nam". (sách trích dẫn ở trên)
Đây là một biện hộ không chấp nhận được. Tất cả những người Việt Nam vượt biển (chánh thức và bán chánh thức) thì đều biết rõ là phải đóng tiền cho chính quyền địa phương để được phép rời Việt Nam.
Một số tên tuổi trí thức miền Nam đã ký trong danh sách này. Thật khá thất vọng.

Nhưng nói cho cùng thì những trí thức miền Nam ở lại, theo chế độ mới làm gì được? Kết án họ ư? Kết án thì cũng dễ, nhất là ngồi ở ngoại quốc mà chửi vọng về. Phải là người trong cuộc, phải sống dưới chế đó toàn trị đó. Nào ai có thể nói hay được.

Nhà văn Nguyễn Tuân, nổi tiếng ngang bướng cao ngạo, sau mấy chục năm sống nín thở qua sông, vào đến miền Nam đã phát ra một câu nói để đời. Phải nhịn mấy chục năm nay mới dám nói : « Tao còn sống đến ngày nay là nhờ biết SỢ. » Nói xong chiêu một ngụm rượu, ngửa mặt, vuốt râu, nhìn lên trời cười ha hả.
Phải chăng các trí thức miền Nam cũng đã học qua bài học triết lý biết sợ đó?
Nghĩ như thế mà thương cho họ, thương cho mình, thương cho dân tộc mình . Và hiểu cho Nguyễn Tuân, hiểu cho trí thức miền Nam. Phải biết sợ, mới sống được.

Còn lại phần bài viết sau đây sẽ được trình bày về Chương Phụ Lục. Thật ra phải cám ơn Talawas về cái Chương phụ lục này.
Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất.
Tôi dành phần còn lại để chỉ nói về chương này và để thấy rằng có nhiều điều Lý Quí Chung đã không nói thật, nói hết, nói đủ chỉ vì nó.

 Về 13 trang phụ lục:
Đây là 13 trang bị cắt ra khỏi bản thảo. Chẳng khác khối ung thư của Lý Quí Chung được Đảng Cộng sản cắt dùm. Nó nói lên nhiều điều lắm. Ta muốn biết sự thật thì phải tìm đọc từng dòng của những điều bị cắt bỏ, những điều non-dits. Chỉ cần đọc13 trang này, ta mới hiểu thấu được chế độ và thương xót cho những người như Lý Quí Chung.

Trước hết:
- Chương về: phần lời giới thiệu của nhà xuất đã bị sửa, bị cắt kể như toàn bộ. Trong đó có đoạn sau đây khá ý nghĩa đã bị cắt:
"Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: thần tốc-táo bạo-bất ngờ-chắc thắng, qua 55 ngày đêm chiến đấu (từ 9.3 đến 30.4.1975), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ… Là hồi ký cá nhân, không phải một biên niên xử, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nhìn, cách phân tích chủ quan..

Trong phần mở đầu cuốn sách, cho thấy họ vẫn huyênh hoang đến nhàm chán, không biết ngượng. Vẫn giọng điệu mạ lỵ miền Nam Việt Nam. Rồi cũng bài bản chê nhẹ tác giả không khỏi cách nhìn chủ quan. Cũng vì phần giới thiệu quá huyênh hoang trống rỗng, họ đã viết lại cho chừng mực hơn.
Bản lời giới thiệu mới bớt huyênh hoang, nhưng vẫn cái bệnh phải dạy đời một tý: "Hồi ký là một góc nhìn…, đánh giá mang tính chủ quan cũng là điều có thế chấp nhận. Xét cho cùng cũng là việc mà người đọc nên "rộng rãi" khi đọc.

Phần lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng bị cắt bỏ vì nói sai: Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp phần vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng.. Làm gì có đa dạng được, chỉ có một đường lối cách mạng thôi, vì thế, cũng cắt kiểm duyệt phần nói về các hồi ký của Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận.

 Chương 14 đã bị cắt khá nhiều, khá dài về việc trích dẫn hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận và bà Ngô Bá Thành. Vấn đề tìm hiểu xem các nhân vật đó có còn có trong mắt đảng hay không?

 Chương 17. Ông Lý Quí Chung nhắc tới thành phần thứ ba, hay lực lượng thứ ba. Thế là phạm giới, phạm quy rồi.. Đối với nhà nước Cộng sản, chỉ có lực lượng của phong trào đô thị là lực lượng nòng cốt trong sự sụp đổ của nền Đệ nhị Cộng hòa. Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng mắc phải sai lầm này khi đề cao và đánh giá lực lượng thứ ba trong vai trò dứt điểm miền Nam. Ông Nguyễn Khoa Điềm đã kiểm duyệt và cắt bỏ những lời tuyên bố của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đề cao vai trò của thành phần thứ ba là đặt lại vai trò của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong công cuộc chấm dứt chiến tranh ngaỳ 30.4.

 Chương 19. Sang đến chương 19, Ông Lý Quí Chung lại vướng mắc vào cái bướu ung thư thành phần thứ ba, mà đảng muốn cắt bỏ. Khi ông viết: "Từ 1973, đâu đâu cũng thấy những cá nhân tự xưng mình là thành phần thứ ba. Với Hiệïp định Paris, tình hình miền Nam mở ra nhiều khả năng khác nhau. Khi ấy, tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ hòa giải, hoà hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ vận hành thế nào.. còn thành phần thứ ba thì không biết sẽ lựa chọn như thế nào"

Ông vẫn còn ngây thơ quá, chưa nắm được ý đồ của đảng muốn gì. Thành phần thứ ba là một quả chanh đã vắt vỏ, đã vắt kiệt.. Riêng các ông trong tờ Tin Sáng thì được vắt thêm 5 năm nữa. Đã quá đủ, quá nhiều. Đóng cửa tờ Tin Sáng là phải. Đã đến giờ rồi.

 Chương: Phần sau ngày 30.4.1975.
Cái hớ hênh của một Lý Quí Chung sau 30 năm sống dưới chế độ mới vẫn chưa đủ. Thận trong, gạn lọc, ngó trước dòm sau mới viết mà vẫn có kẽ hở. Ông vẫn muốn nhắc đến ngày Đại hội Hiệp thương Thống nhất. Đây cũng là điều đảng không muốn nói tới nữa. Có hội nghị hay không thì Việt Nam cũng đã thống nhất rồi. Muốn thống nhất thì phải xoá tan những chiêu bài trước đó đã đặt ra như Mặt trận Giải Phóng Miền Nam v.v.. Thật là không có gì là khó hiểu.

Đảng cũng kiểm duyệt những tình cảm sau giải phóng trong gia đình ông như: "Những chuyện trong gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón nhận chào cách mạng, biến thành một người ác cảm với Cộng sản."
Một đoạn văn như thế thì cắt là phải rồi. Còn kêu ca nỗi gì nữa.
Phần gia đình thân yêu.

Trong phần này nhẽ ra không cần đọc, vì có gì đụng chạm đến chính trị. Nhưng dù thế, nó cũng bị cắt đi ngót nghét một trang. Trong đó có một câu vài chữ không đáng gì. Nhưng nếu suy ra thì viết một cuốn sách cũng không đủ. "Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ Canada.." Thế là cả đoạn văn sau đành cắt hết, đục bỏ hết chỉ vì cái chữ thành đạt. Nói thành đạt là nói ngược lại Nhà nước Việt Nam thất bại. Cẩn thận lắm mới được. Viết thật cẩn thận.

Ngòi bút của Lý Quý Chung có lệch cũng chỉ vì 13 trang cắt bỏ này. Điều mà Lý Quý Chung không dám nói, điều mà Lý Quý Chung bị cắt trong 13 trang một cách không ngờ trở thành lời tố cáo chế độ ngoài cả ý muốn của người viết cuốn hồi ký. Không ngờ đến cuối đời, cuốn Hồi Ký không tên trở thành một chúc thư gửi lại cho đời mà tôi xin được phép đổi lại tên cuốn Hồi ký không tên: NHẬT KÝ CỦA IM LẶNG, vì im lặng cũng là một cách nói.

NGUYỄN VĂN LỤC

Sunday, April 8, 2012

phan bá thụy dương * trên nỗi tình người 2

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tạ từ em với sương mai
Anh lên tay súng cất lời hô quân
Tàu đi sông nước chập chùng
Nẻo quan san đó gian truân đã chờ

Trước sau cờ rợp bóng cờ
Ngoài kia chiều ráng nắng mờ hắt hiu
Em về mây gió trôi theo
Nhớ nhau ?
thôi cũng chắt chiu kiếp này

Bên anh đạn réo tên bay
Trăm binh đao với tháng ngày bỏ quên
Quê mình còn đó không em
Cho anh ấp ủ trái tim ngọt ngào
 
 




* ngày về giải tỏa Mỹ Tho - Tết 68
[tựa cũ trong tuyển tập Đầu Gió do Hội VNSQĐ/TC.CTCT ấn hành:
Khi Anh Rời Gò Công Về Khu Chiến]

Trần Vấn Lệ * Tháng Tư Mà Có Thêm Ngày Nữa Cũng Lỡ Hết Rồi Chuyện Nước Non



B a mươi sáu năm…nhớ lại:  Một Ngày Buồn Thật Buồn.  Ban Mê Thuột thành Buôn…Sài Gòn mang tên mới,  cái tên ai cũng hỏi “Hồ Chí Minh Là Gì?”.

Cái gì cũng qua đi, Ba Mươi Tháng Tư không vậy!  Nó vẫn:  Dòng Máu Chảy, vẫn Dòng Nước Mắt Sa!  Ôi Việt Nam xót xa, sau một thời chiến trận, đất không nở ra hoa,  người không hòa không hợp,  nhìn nhau hai mắt chớp, trời đất mờ biển dâu!

Ôi Tháng Tư!  Tháng Tư!  Tháng dương lịch nên thiếu, thiếu gì ai cũng hiểu:  Một Sự Đền Bù Vui!  Tổng Thống từ chức rồi.  Thủ Tướng rời bỏ phủ. Dân bỗng thành Lê Thứ.   Niềm vui: miếng-mồi-nhử từ người Phía Bên Kia!

Niềm Vui không ai chia…khi người ta có nó!  Điều đó khi hiểu rõ thì chỉ còn buồn thôi!  Ba Mươi Tháng Tư ơi!  Ba Mươi Tháng Tư khóc!  Cái gì còn cũng mất, cái gì mất không còn!  Chút ước mơ mõi mòn:  Tháng Tư thêm ngày nữa!  Ôi ngày không-thể-có trên tờ Lịch Tháng Tư!

Ba mươi sáu năm…xưa vẫn sờ sờ trước mặt một Việt Nam Nam Bắc, một đoạn trường lê thê!  Bao người đi có về…rũ bà con đi tiếp, biết là đi khốn kiếp mà cứ đi cứ đi!  Khúc hoan ca mê ly đen ngòm kênh Nhiêu Lộc.  Tự Do và Hạnh Phúc cứ mãi là chiêu bài!  Sân khấu đời diễn hài kéo dài đời điên đảo!

Ai thật tình, ai xạo, ba-mươi-tháng-tư-bảy-lăm đã thấy rất rõ ràng!  Phân biệt được Đá / Vàng, đờì chuyện gì cũng muộn!  Ngay cả niềm ước muốn tháng Tư thêm Một Ngày!  Một ngày…thêm Lưu Đày?  Một ngày…cầu Hạnh Phúc?  Bốn ngàn năm vinh - nhục…Bốn ngàn năm khói-sương!

Cảnh người Mẹ ôm con, đứa con không còn thở.  Cảnh người Lính nức nỡ bên đồng đội máu me.  Cảnh mặt lộ ngập xe, những chiếc xe bể bánh…Trời tháng Tư không lạnh mà đất đá cũng run,  mà mở miệng không cùng, lời hỏi thăm tắt nghẹn!  Tháng Tư ngày cuối tháng, như thế đó!  Ba Mươi!

Tháng Tư ơi!  Tháng Tư ơi!
Một ngày mong đợi đâu rồi?  Gió bay?
Phải chi Lịch nối thêm ngày
Thì đâu có cảnh đọa đày Bắc Nam


Trần Vấn Lệ