văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, June 2, 2012

TRẦN VĂN SƠN * Mưa Trên Những Chùm Chuỗi Ngọc



Trời đang nắng chợt mưa rơi nặng hạt
Mưa mịt mù mưa dai dẵng ngày đêm
Vườn chuỗi ngọc em mưa bay xơ xác
Bầy lá phong trải thãm úa vàng sân


Em ngữa mặt hứng giọt mưa vần vũ
Giọt lệ sầu hiu hắt giấc mơ tan
Quê ngàn dặm nghẹn ngào sương tuyết phũ
Hồn cỏ cây lạ lẫm dấu chân quen


Em đội mưa nâng niu từng lá cỏ
Lạnh đôi tay ấm áp trái tim đời
Mưa ôm ấp quỳng hoa vừa nở rộ
Chuỗi ngọc xanh lấp lánh cuộc tình người

Mưa tí tách tiếng dương cầm réo rắt
Hòa ngũ âm khúc dạ cổ hoài lang
Người xưa đến mang hồn mưa u uất
Nhịp tử sinh cùng vũ trụ xoay vần

Em xuống phố quẫn quanh con phố nhỏ
Bụi mưa bay mơn trớn tóc em mềm
Mưa tầm tã che vầng trăng cố xứ
Trăng phương tây toả sáng xóa màn đêm


Mưa lang thang trong công viên cuồng loạn
Gió thét gào cây trốc gốc chênh vênh
Hồn tượng đá mang mang thiên cổ hận
Vọng cố nhân hề phương đông buồn tênh


Em đóng cửa xa đường mưa ngõ trúc
Bên án thư nghĩ chuyện một dòng sông
Lũ bàn ghế có em thêm hạnh phúc
Ngôi nhà có em sưỡi ấm tình nồng


TRẦN VĂN SƠN

TRẦN VẤN LỆ * Mưa Nghiêng Mái Quán




Bạn về Cố Quận có vui?  Sao không thấy một đôi lời gửi qua?  Bạn về Cố Quận chơi xa?  Hay quanh quẫn mãi ngôi nhà ngày xưa?

Bạn về Cố Quận nắng mưa?  Ở đây mưa nắng bất ngờ nhớ nhung!  Nhớ là nhớ rất viễn vông, nhung là vạt áo mềm lòng câu thơ…



Bạn đi mình chẳng tiễn đưa, hồ nghi tình bạn hững hờ rồi thôi?  Âm thầm mình chúc bạn vui, chắc chi câu chúc gặp người mình thân!
Ở đây hai đứa chẳng gần, bạn giờ Cố Quận muôn trùng thêm xa.  Trăm năm trong cõi người ta, kẻ đi người ở thường là dĩ nhiên?


Chiều nay trời mưa nghiêng nghiêng, mình nghiêng ly ngó mái hiên quán buồn.  Mưa trời nhẹ quá chưa tuôn mà hai con mắt nhớ thương muốn trào! Bạn về hay giấc chiêm bao?  Nhiều đêm mình thức tay quào gối chăn.  Bạn về…đã một trăm năm?  Mình nằm đây…vẫn là nằm Thiên Thu?

Bạn về một cuộc phiêu du chắc đôi khi thấy trời mù chân mây?  Với ai nói tiếng tao, mày?  Với ai, rót rượu cho đầy, uống đi!


Bạn về không phải chia ly bởi chưng Cố Quận có gì cũng thương!  Mưa trời nhẹ hạt như sương, bạn ơi con mắt tôi buồn tôi lau…

Trần Vấn Lệ

TRẦN VĂN NAM * Ði Trên Bình Nguyên Nước PHÙ NAM

tranh Nguyễn văn Bảy


Vị trí thuận lợi khi ngồi trên một xe đò lớn, dọc dài một tỉnh lộ tái thiết trên bờ đê đắp cao; và thời gian cũng thuận lợi khi cơn mưa vừa tạnh buổi xế chiều làm bầu trời quang đãng.
Chuyến xe đang trên tuyến đường Rạch Giá- Sài Gòn, chạy song hành với con kinh đào Cái Sắn thông nước đến bờ Hậu Giang tại Bắc Vàm Cống.
Xe vừa ra khỏi Rạch Giá mười lăm cây số, khách nhìn về phía trái qua bên kia con kinh đào đầy nước, qua những cánh đồng mênh mông tỉnh An Giang, bóng núi Sập của dãy Ba Thê hiện ra dưới tầm mắt, một đỉnh chơ vơ đột khởi chân trời.
Chữ viết của những trang sử đời nhà Lương bên Tàu ghi lại cách nay một ngàn năm trăm năm đã có nói một nước Phù Nam với thủ đô Óc Eo trong địa bàn dãy núi Ba Thê; bình nguyên An Giang- Kiên Giang còn đây mà chủng tộc nào một thời đã ở?
Mấy lớp vỏ sò hầu hến thuộc sinh vật biển hiện hữu ở lưng chừng những vách núi đá vôi tại Hà Tiên là ngôn ngữ địa chất; ngôn ngữ đánh dấu lại mực nước biển dâng cao thời đầu Công Nguyên, xác định Óc Eo bây giờ nằm sâu trên đất liền mà ngày xưa đã trời xanh hải cảng.
Tiếng lặn hụp của bầy trâu len vô số kể từ Ba Thê đi về miệt Bảy Núi trong mùa nước lụt vang vọng từ cuốn sách của nhà văn Sơn Nam đã là ngôn ngữ văn học, khẳng định vương quốc Phù Nam thuộc vùng trũng thấp có thể tiềm tàng cả một đô thị bị bùn đất chôn vùi.
Những đồng tiền La Mã, tượng thần Vishnu và Shiva của Ấn Ðộ, các dòng chữ Phạn trên bia đá, vài đồ gốm từ các xứ Á Ðông, đôi mảnh nữ trang bằng vàng của Ba Tư; đó là ngôn ngữ khảo cổ khai quật tại Óc Eo, làm rập rình trước mắt ta những đội thương thuyền ghé bến, lưu tồn những nét nhân văn.
Ngôn ngữ sử học, ngôn ngữ địa chất, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ khảo cổ; những dấu hiệu có hệ thống đó có phải đã giúp ta hiện thực hóa một phiếm định, hay chỉ trưng ra bằng chứng một thực thể tồn tại từ hai ngàn năm trước.
Ngồi xe qua bình nguyên Phù Nam cổ, chỉ biết Óc Eo tồn tại vì chất thơ âm vang sóng nước thời nào bến cảng, và bằng phẳng chân mây đột khởi một đỉnh núi đền đài.                                                                    
TRẦN VĂN NAM

phan bá thụy dương * Nếu Mai Em Về















tranh Thanh Trí

1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may

nước mắt mẹ -
có rơi dài đêm tối ?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm ?
em - em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm



2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai

có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa



3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương

thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền



4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao

đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng ?



Nguyễn Mạnh Trinh * Khi Thi Ca Thành Tôn Giáo: Phạm Công Thiện



Phạm Công Thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?

Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng. Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ... triết học”. Họ tán thưởng “Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu. Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lãng mạn.

Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê bình như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.

Ðọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông, tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả tâm hồn mình và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẽ không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.

Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ tình yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”.

“...Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn River Gaucheà Kia là đường phố Aumont- Thieville và L' Avenue des Ternesà Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ... Kia là cầu Mirabeauà Kia là Mùa Thu mưa rơi kia là Pont Neuf. Oi Oparis. Souvenir. Souvenir. Remember to remember.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến tình yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Appollinaire.

“Mùa Thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín giỏ trái sầu”.

Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
“'J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'Automne est morte souviens t'en
Nous ne nons verrons plus sur terre
Ordeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toique fe attends...”

Cũng vào Mùa Thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ

Ordeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je attends

Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên...

Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê bình xếp loại mà phải là ca tung khen ngợi thơ. Ông khẳng định “Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Ðế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh là blasphème.”

Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh.

Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Buồn lắm... Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Ðúng quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.

Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận Cam.

Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đã viết:

“Ừ, ta bây giờ như sông cạn
Nước vũng làm sao thành biển khơi
Chí lớn dưng không thành chuyện vãn
Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời”

Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà trung vô thủy? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel Văn Chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern, chỉ có hai câu:

“The riverbed, dried up, half full of leaves
Us, listening to a river in the trees
(Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá
Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)

Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua trong nhịp đời hối hả mỗi ngày:

“...Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy bất tận, dù lòng sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên cao Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đã nhập lưu (sơ ư văn trung/nhập lưu vong sở), không phải chúng ta lắng nghe dòng sông mà chính dòng sông đã chảy vào trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới đã nhập vào con sông chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: “có một nghìn cây rũ rượi buồn/Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn.” Vũ Hoàng Chương: “Ðáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Ðiệp chẳng mơ cũng thành”...) Tại sao phải làm thơ? Tại sao phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay.

Phạm Công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:

“Mưa chiều Thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông”

Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn “Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.

Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:

“...Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.

Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.

Anh có nghe tim con người đập trong những trang ‘Xuất hành năm mới’, trong ‘Trận đòn hòa giải?’ ‘Xuất hành năm mới’ còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong ‘Xuất hành năm mới’ và ‘Trận đòn hòa giải’ là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này”.

Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.

Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng”, “Ngày Sanh của Rắn”, là những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết, ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới, về những ngả đường có thể khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi, nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt Nam. Ngay cả khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập “Ngày Sanh của Rắn”.

“Tôi chấp chới
Ðắng giọng
Giữa tháng ngày mơ mộng
Nốt ruồi của hương
Hay nốt ruồi của rigvéda
Tôi mửa máu đen
Trên nửa đêm paris
Tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
Tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
Cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
Mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt”.

Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng không liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý nghĩa nào len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai... tạo ra cảm giác tức thì với hình tượng có hơi dung tục ấy. Ðó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc sống mà có lúc lại xa nghìn trùng.

Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp, thơ Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại. Ðọc xong rồi bình, hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn mộng.

Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy. Sự kiện ấy James Joyce đã gọi là “a sudden spiritual manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “epiphany” (sự linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu: “phất phơ hồn của bông hường/trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng/nghe chừng gió thoáng qua song...” đó, chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.

Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lãng tử trong văn chương là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết:

“...Tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội, những mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy của dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới dòng nước rong rêu của khe biển nho. Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong manh”.

Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ có cảm khái riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những trân trọng nâng niu nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn còn sót nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rũ bỏ tất cả để đi lại những bước khởi đầu.

Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện”:

“Người vào tịnh thất sống ba năm
Cất tiếng không lời để nói năng
Buổi sáng thinh không chiều tới chậm
Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
Ta muốn cùng người một tối nay
Ðầu sông uống rượu cuối sông say
Người từ trên núi ta từ biển
Từ giấc mơ nào đã tới đây
Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
Ðời như phía trước bỗng mông lung
Thơ như hữu thể mà vô thể
Có cũng xong mà không cũng xong
Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta
Những đi không tới đến không ngờ
Xóa luôn thì dứt những tâm thức
Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?
Trong chín ngàn âm có hải triều
Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh
Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu”

Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ý tưởng. Mà, còn chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII, có những hình ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành trình đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ:

“Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông”

Với suy nghĩ của tôi, Phạm Công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ. Không phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm chân lý. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành trình của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử, làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu...

Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm”, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:

Sinh ngày 1 Tháng Sáu 1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình, Thiện là người anh cả. “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình nhìn thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà mình thì lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”

Ðó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vy bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lãnh ra, thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày lại, các bọn bán báo nghèo đói phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường.

Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ Tinh Âm” lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng thông hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lãng tử, là một người thích gì làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm những điều bất khả trong cuộc sống

Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để tìm “ý thức mới trong văn nghệ và triết học” qua “hố thẳm của tư tưởng” để “im lặng hố thẳm” và, cứ thế hành trình.

NMT

Friday, June 1, 2012

Tiểu Tử * Nói Ngược Nói Xuôi



Nói

‘‘Nói’’, không  phải dễ. Thật vậy ! Những gì mình nói, gặp ông Mít nghe xuôi tai , ổng gật gù : ‘‘ Thằng !…Nói nghe được à ! ’’. Còn gặp ông Xoài , những gì mình nói đó , ổng lại nghe không…lọt lỗ tai , nên thấy ổng nhăn mặt lắc đầu : ‘‘ Mẹ !…Thằng ăn nói ngược ngạo , nghe vô duyên thấy mụ nội !’’. Rồi, theo…thói quen xưa nay, người ‘‘chịu’’ mình nói chỉ biết làm thinh , còn người không chịu thì tiếp tục chỉ trích phê bình dài dài…Đó ! Để thấy ‘‘ Nói’’, không phải dễ ! Phải tùy đối tượng mà nói , nghĩa là phải…‘‘ bắt gân mặt’’ người nghe , để nói làm sao cho nó xuôi…
Các nhà lãnh đạo chắc đã rành cái ‘‘mánh’’ nầy cho nên họ nói trước công chúng nghe xuôi rót ! Có người xấu miệng nói họ mị dân. Suy cho cùng , họ nói mà dân nghe bùi tai dân khoái cũng là điều tốt thôi !
Nhưng , cũng có những nhà lãnh đạo bước lên diễn đàn cứ tưởng mình là một…‘‘siêu sao’’ trước vô số máy quay của các đài truyền hình thế giới , nên phát  ngôn bừa bãi , nói xuôi nói ngược mà không hay. Tỉ dụ như chủ tịch nước VNXHCN đã nói : ‘‘ Cu-ba thức thì VN nghĩ , Cu-ba ngủ thì VN thức. Chúng ta cùng giữ gìn hoà bình cho thế giới…’’. Nghe…nghịch nhĩ ở chỗ là không thấy lúc nào ‘‘ hai đứa ’’ cùng thức thì lấy gì ‘‘ cùng giữ hoà bình cho thế giới ’’ ? Một tỉ dụ nữa là thủ tướng VNXHCN tuyên bố một cách sung sướng : ‘‘ Toàn dân bước ra biển lớn’’. Chết cha ! Hồi năm 1975 , cả triệu người VN đã ‘‘ bước ra biển lớn’’, bộ ổng thấy chưa đủ sao mà bây giờ ồng biểu toàn dân ra đi nữa ? Rồi đất liền để lại cho ai ? Cho Tàu chắc !
Có lẽ ‘‘ thấu triệt ’’những sơ hở nầy nên các nhà lãnh đạo…‘‘ siêu cấp’’ ở các xứ cộng sản dùng một ‘‘ mánh ’’ khác : đó là nói…tràng giang đại hải để những người nghe không tài nào ‘‘ nắm bắt ’’ những gì họ muốn nói – dĩ nhiên , họ không quên lâu lâu ngừng nói để vỗ tay cho hội trường…giật mình vỗ tay theo kẻo mọi người…ngủ hết còn gì ! – Còn những người nghe cứ ngồi đừ ra đó, lâu lâu được tự do…ngáp !
Đã nói : ‘‘ NÓI ’’, không phải dễ mà !

Nói về “NÓI”

Nói về “NÓI”, ông bà mình ngày xưa dạy con cháu: ” Biết thì thưa thốt , không biết thì dựa cột mà nghe “. Hay quá ! Cái gì mình biết thì mình hãy nói – dĩ nhiên là mình nói những gì mình biết tường tận , có gốc có ngọn , loại hiểu biết có…đóng dấu kiểm chứng đàng hoàng, có… phắc-tuya o-ri-gin chớ không phải đồ dỏm . Còn cái gì mình không biết thì…thọc miệng xía vô làm chi cho nó lòi cái quê cái dốt của mình ra ! Thà là mình làm thinh , lựa…cây cột nào gần chỗ người ta đang nói để “ăn chắc” là nghe cho rõ, rồi chú tâm lắng nghe mà học hỏi thêm , hầu mở mang hiểu biết. Dĩ nhiên , mình không nên “nhắm mắt nghe”, bởi vì mấy…”nói sĩ ” hay có tật “nổ ” để chứng tỏ sự hiểu biết “minh mông thiên địa” của họ , cho nên lắm khi mấy chả cũng nói…”trật bàn đạp” mà không hay ( Mắc lo “nổ” thì làm sao… “nghe” rõ những gì họ nói ?) Nếu mình “nhắm mắt nghe”, nghĩa là mình hoàn toàn tin tưởng vào những gì “nói sĩ” nói, là mình tiếp thâu…”hàm-bà-lằng” cái đúng cái sai , cái hay cái dở , mà trong đầu cứ đinh ninh tất cả là…số dách hết ! Có lẽ tại vì ngày nay có quá nhiều người “dựa cột mà nghe ” theo kiểu đó nên thấy  có “nói sĩ ” đầu hôm sớm mai “biến” thành “Thầy” ngon lành !
Ở các xứ cộng sản , “nói sĩ ” không biến thành “Thầy”, mà biến thành “Lãnh Tụ”. Họ không cần “Biết thì thưa thốt”, bởi vì “Nói” là đặc quyền của họ , cho nên “Biết”, họ nói đã đành , mà “Không biết”, họ cũng…nói tuốt ! ” Tiên sư thằng nào dám nói lãnh tụ nói sai !”. Còn về sự “Dựa cột mà nghe” để mở mang kiến thức thì…”đếch có cần”, bởi vì “Ta đã là đỉnh cao trí tuệ thì còn thứ gì mà ta phải học hỏi thêm? Rõ khỉ ! “.
Nói về “Nói”, đến đây bỗng đụng “lý luận Mác Lê” thành ra…”hết nước nói”. Thôi! Ngừng vậy!

Nói có sách

Mấy cha có tật hay nói thường gặp người khác…nói :” Coi chừng ! Cái gì nó nói , mình phải…xin keo rồi hãy tin ! “. Vì vậy mà những vị nào đã…lỡ mang nghề nói đều huênh hoang rằng mình ” nói có sách ” và trong người lúc nào cũng lận lưng quyển sách…” nghề ” của mình để khi cần thì rút xoạch ra chứng minh ! Hà…Đến đây mới thấy cái quyển sách nó…làm nên con người , chớ không phải giỡn ! Nó…bịt miệng ngay thằng cha bạo phổi đã dám hỏi : ” Thầy nói có sách không mà nói nghe ngon vậy ? “. Cũng giống như tên công an , chỉ cần rút cây súng lục ra đặt lên bàn nghe cái cốp là đối tượng của hắn đang bô bô ” cãi cối cãi chày ” bỗng tịt ngòi ngang xương , chỉ còn nghe tiếng…nuốt nước miếng cái ực thôi !
Để mình ” nói cũng có sách “, hãy nhìn xem : hễ là thầy giáo thì phải ôm sách giáo khoa vào lớp , ông cha nhà thờ giảng đạo luôn luôn cầm quyển thánh kinh , hòa thượng thuyết pháp làm gì mà không mở quyển kinh Phật , ông đạo trưởng hồi giáo nào mà không lận lưng…hai ba quyển Coran ( Kinh hồi giáo ) , ông quan toà ngồi trong phòng xử án tay luôn đặt lên cuốn luật pháp to cỡ bốn viên gạch , mấy lãnh tụ cộng sản cha nào cũng…đội trên đầu quyển ” Tư tưởng Mác Lê  “…
Nhân nói đến cộng sản ” nói có sách “, để kể cho nghe chuyện ” Cán bộ VC lên lớp trong một trại tù cải tạo “. Như thông lệ , cán bộ vào trại để lên lớp lúc nào trong tay cũng cầm một quyển sách . Hắn trịnh trọng đặt sách lên bàn rồi nói , nói thao thao bất tuyệt , rằng là ” Đồng chí Sáu Lê Ninh nói thế nầy…”, rằng là ” Đồng chí Sáu Lê Ninh nói thế kia…”, rằng là “Đồng chí Sáu Lê Ninh…”…vân vân … rằng là…vân vân…Bỗng , một anh tù chắc có…học gồng nên dám đưa tay chận ngang để phát biểu :” Làm sao cán bộ biết Lê Ninh thứ sáu mà gọi ngon lành là đồng chí Sáu Lê Ninh ? “. Tên cán bộ trợn mắt ngạc nhiên nhưng rồi mỉm cười khinh khỉnh :” Các anh dốt , không đọc sách nên không biết đấy thôi ! “. Rồi hắn cầm quyển sách đưa lên , tay chỉ chỉ tên tác giả , nói :” Đây này , in rõ ràng đây này ! “. Đó là quyển “Quốc Gia và Cuộc Cách Mạng ” của Vladimir Ilitch Lénine , tên tác giả được rút ngắn lại như sau :” VI Lénine “, cán bộ đọc ra là số 6 La mã  ! Đúng là ” Nói Có Sách ” !

Học ăn học nói

Ông bà mình ngày xưa dạy con dạy cháu rằng: lúc nào cũng phải học, từ “học ăn học nói” đến ” học gói học mở ” ( Xin lỗi ! Tôi hay đem ” ông bà ngày xưa ” ra … dẫn chứng mà không một lời nhắc nhở đến ” ông bà ngày nay “, bởi vì ở cái thời ” ngày xưa ” đó , con cháu còn biết ngồi nghe ông bà kể chuyện … đời xưa hay dạy dỗ điều hay lẽ phải … v v . Còn ở cái thời bây giờ, ông bà có … ráng gân cổ lên để nói – gọi là để ” giảng mo-ran ” – đã chắc gì con cháu nó nghe ! Nhiều lắm là tụi nó … ” ậm à ậm ừ ” cho lấy có vì đang bận coi télé, gõ PC, gọi điện thoại cầm tay cho bạn bè hay đấu đá nhau trong mấy trò chơi điện tử rộn rã ! Thành ra, ông bà ngày nay chẳng thấy có ” những lời vàng ngọc ” để mình … dựa vào đó mà viết … biếm văn nói ngược nói xuôi ! Xin ông bà ngày nay thông cảm ! )
” Học Ăn ” ! Chắc có người sẽ nói : ” Ăn thì có … khỉ gì mà học ? Cứ ton vô miệng rồi nhai rồi nuốt, ai mà không biết ! “. Ậy ! ” Ăn ” , không phải chỉ vỏn vẹn có nhai rồi nuốt, bởi vì còn phải biết chọn thứ gì để ăn, thứ gì ăn với thứ gì,  rồi ăn làm sao, ăn sống hay ăn chín, ăn nướng hay ăn luộc, rồi ăn lúc nào, sáng trưa chiều tối, đợi đói mới ăn hay cứ … lu bù xín-xái, rồi ăn … ngồi hay ăn đứng hay … ăn nằm ( Đừng cười ! Ngày xưa, dân La-mã vẫn nằm mà ăn. Và ngày nay, ở Việt Nam đã có nhà hàng … nằm rất ăn khách ! ) rồi ăn bóc hay ăn bằng đũa bằng nĩa bằng dao ? … Mới kể sơ sơ thôi mà đã thấy …chóng mặt vì rõ ràng là ” Ăn, phải học ” !
Đúng vậy ! Mới vào bàn ăn đã phải học ” ăn coi nồi ngồi coi hướng “. Nhằm chỗ dành cho ông cả mà ” thằng nhỏ ” tót vô ngồi là bậy, là thiếu giáo dục, nghĩa là phường ” thất học ” ! Rồi, chưa ai cầm đũa hết mà mình đã ” đớp ” lia như ” quân chết đói ” … là không được ! Phải đợi người lớn gắp trước rồi mình mới … thọc đũa vô và phải từ tốn chớ không được gắp ào ào như … múa đũa ! Đó ! Ông bà dạy kỹ như vậy ! Vậy mà bây giờ không biết người ta – những người đã tự hào … được ” học ăn ” ở các xứ cộng sản vĩ đại anh em – đã học ăn làm sao mà sau năm 1975 họ vào miền nam Việt Nam áp dụng cái học …” siêu đẳng ” đến nỗi cái ” Ăn ” – gọn lõn dễ … thương ! – đã biến thể, kéo theo một lô ” phụ chú ” đầy … gút mắt : ăn quịt, ăn gian, ăn cướp, ăn trộm, ăn hối lộ, ăn …! Sau nầy, hỏi ra mới biết họ đã học ăn ở những xứ … không có gì để ăn nên cái ” Ăn ” mà  họ học hoàn toàn là cái ” Ăn ” … ảo, cái ” Ăn ” không có thật ! Cho nên khi vào nam, họ thấy cái gì cũng ăn được hết – kể cả nhà cửa đất đai ruộng vườn – vậy là họ cứ … nhắm mắt đớp như điên ! Cái ăn ” không bài bản ” đó, người ta gọi theo … chữ nghĩa là ” cái ăn của bọn vô học “. Điều lạ là chẳng thấy cha nào ngã ra chết vì … bội thực hết ! Dầu sao, thiên hạ vẫn luôn đề cao cái ” Học Ăn ” mà ông bà mình ngày xưa đã dạy. Để thấy : nó vẫn chưa phải là … quá đát !
Bây giờ, nói đến ” Học Nói “. Xưa nay, người ta hay coi thường sự ” Học nói “, cứ nghĩ là ọ ẹ từ nhỏ riết rồi lớn lên tự nhiên biết nói. Vì không học nói cho nên hễ mở miệng là nói bậy nói bạ, nói trên trời dưới đất, nói … trật đường rầy, nói trây nói tục, nói như ” dùi đục chấm mắm nêm “, nói ” phang ngang bửa củi “, … nói …v v . Vậy, để tránh tình trạng nói như … chó bươi thùng rác, ta phải ” Học Nói ” !
Thông thường, người ta dạy nói cho có lễ độ, biết nói ” dạ thưa “, biết nói ” cám ơn “, biết ” khoanh tay cúi đầu ” ( đây cũng là một cách nói, tuy nó không có lời nhưng nó nói lên sự kính trọng người trưởng thượng ) Rồi còn học nói cho văn vẻ thanh tao, không dùng những từ ngữ … đầu đường xó chợ ( có bực lắm thì cũng biết … xổ nho cho đúng điệu con người có … văn hóa, ví dụ : thay vì ” Đ.Mẹ ! Đ. Bà ! ” thì chỉ nên … khạc ra vài tiếng ” Thằng khốn nạn ! Mầy không biết tao là ai à ? ” rồi đưa tay vào lưng quần làm như sắp rút cái gì ra, vậy là đối tượng … xếp ve ngay ! ) Tiếp theo là học nói  làm sao để nói đúng nơi đúng lúc, đúng chủ đề … v v . Và còn nữa ! ” Học Nói “, không phải chỉ vài câu là … hết bài ! Cho nên đừng ngạc nhiên sao có những người tuổi đời đã … nặng ký mà vẫn lui cui đi học nói !
Ở những nước cộng sản, các lãnh tụ đều thấu triệt cái triết lý vĩ đại của ” Học Nói “, cho nên họ học rất kỹ, thuộc nằm lòng bài bản đến độ khi họ nói – họ gọi là ” phát biểu ” – họ nói … y chang như nhau, cung cách y chang như nhau, từ ngữ y chang như nhau ! Có điều là những gì họ học để nói hoàn toàn không … ” dây mơ rễ má ” gì với những gì ông bà mình day ! Thành ra, sau năm 1975, ở miền nam VN có hai … trường phái ” Học Nói ” : trường phái ” cổ điển ” của ông bà để lại và trường phái ” cách mạng ” du nhập từ các nước ” đồng chí anh em ” ! Dĩ nhiên, hai trường phái không … ăn rơ với nhau cho nên phe nào nói phe nấy nghe ! Mấy cha cán bộ nói – luôn luôn nói tràng giang đại hải – để họ nghe, còn mình nói là để cho mình nghe. Chỉ có … vỗ tay là vỗ tay chung, bởi vì bây giờ cái vỗ tay không còn ý nghĩa gì ráo thì khi nào thấy cán bộ đang nói bỗng ngừng ngang rồi vỗ tay, ta cứ … nhắm mắt vỗ tay ! Cho …nó rồi !
Sau 1975, dân miền nam già trẻ bé lớn gì cũng phải đi ” Học Nói ” hết, bởi vì chánh quyền không muốn thấy dân miền nam … câm !

Học hỏi và học hành

Nói đến,” Học “, người ta nghĩ đến ” Vô nhà trường “. Thật ra, cái ” Học ” không phải chỉ có ở nhà trường, bởi vì một khi mình muốn biết thêm một vấn đề gì đó, một cái nghề gì đó, một lãnh vực nào đó … để đừng bị người khác nhìn mình có ” nửa con mắt ” rồi trề môi chê mình không biết gì hết, mình có thể học bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Cái ” Học ” nó … tràn đồng chớ không phải chỉ ” đóng khung ” trong nhà trường và con người lúc nào cũng dính với cái ” Học ” mà không để ý bởi vì xưa nay vẫn quen nói ” Dốt là không biết chữ ” !
Vậy, ngoài sự không biết chữ, ” Dốt ” là gì ? Một anh nhà quê lên thành phố hiện đại không biết sử dụng bàn ngồi trong cầu tiêu … người ta nói thằng chả dốt. Còn ông tiến sĩ từ thành phố xuống dưới quê chơi, đi tát nước ruộng với người chú, chỉ dụng cụ hỏi là cái gì ? Người chú cười khinh : ” Mầy dốt quá đi ! Cái đó gọi là cái gàu ! Không có gàu thì lấy khỉ gì mà tát ? “. Hai nhân vật vừa kể đều được coi là dốt bởi vì họ kém hiểu biết trong một lãnh vực nào đó. Nếu họ được chỉ dạy, họ học thêm cách sử dụng bàn ngồi trong wc và cái gàu tát nước ngoài đồng, họ sẽ không còn dốt ở hai nơi nầy nữa. Vậy, để khỏi dốt, mình phải chịu khó học, trong cái nghĩa ” học ” là đem thêm những hiểu biết mới vào … kho hiểu biết ở trong đầu mình ( Dĩ nhiên là trong kho chứa loại hiểu biết thật chớ không phải loại dỏm, loại … giả mạo trốn thuế … hay loại mà ở Việt Nam bây giờ người ta gọi là ” ma túy xì ke ” ! )
” Học ” không, chưa đủ ! Trong khi học, phải biết hỏi. ” Hỏi ” để hiểu cho rõ cái mình học. Nếu không biết hỏi hay không chịu hỏi, thì cái học của mình bị gọi là ” học như con két ” nghĩa là nghe sao nói vậy chớ không cần hiểu. Hà ! … Đến đây mới thấy các lãnh tụ công sản rất … ” đỉnh cao trí tụê ” trong đường lối dạy đàn em và quần chúng học : họ bắt học nhưng không cho hỏi, bởi vì hỏi là … ” đặt vấn đề “, mà ” đặt vấn đề ” là ” chưa hoàn toàn tin tưởng và triệt để nhất trí ” với lập trường của đảng ! Học viên phải im lặng nghe, không cần hiểu, chỉ cần biết nói lại đúng những gì cán bộ nói. Vậy là … ” ăn tiền ” ! Nếu có tay nào ” xâm mình, bạo phổi ” nhứt định hỏi thì … ” ta ” chụp cho nó cái mũ ” phản động ” là  … xong ngay thôi !
Để tránh … lòi cái manh tâm dạy ” học không được hỏi “, nghĩa là muốn xóa cụm từ ” Học Hỏi ” trong tiếng nói của miền nam, các lãnh tụ còn ” siêu ” hơn nữa :họ đặt ra một cụm từ mới có tên ” Học Tập “, được dùng … xả láng nên rất phổ thông, ở đâu cũng thấy học tập, làm thứ gì cũng phải học tập, đến nỗi ở tù cũng gọi là học tập nữa ! … Người ta nghĩ đơn giản : học làm sao thì cứ tập làm y chang như vậy. Vậy là … yên thân !
Bây giờ, nói tới ” Học Hành “. Nếu học rồi … lặn luôn thì cái học đó uổng quá ! Phải đem cái học ra ” hành “, nghĩa là thực hiện cái gì mình đã học. Và nhờ ở ” hành ” mà mình biết mình làm đúng hay sai. Càng ” hành “, mình càng có nhiều kinh nghiệm để cái gì mình thực hiện càng ngày càng hay hơn, có giá trị hơn. Và như vậy, con người mới tiến bộ, xứ sở mới phát triển. Ở các xứ tự do, cái ” học ” nó … thiên hình vạn trạng nên cái ” hành ” cũng vô số kể … chớ không bị đóng khung trong ” đường lối chỉ đạo đầy sáng tạo ” của đảng X hay đảng Y gì gì …” Đóng khung ” có nghĩa là đảng dạy ” Hình vuông ” nhưng lại đưa lên ” Hình tròn ” mình vẫn … nhắm mắt hô to ” Vuông “, tiếp theo là mình chỉ biết … cắm đầu tạo hình vuông rồi hình vuông rồi hình vuông … suốt đời !
Ở Việt Nam , cái ” Học Hành ” cũng bị đóng khung như kể ở trên, nhưng là một loại khung chưa từng được kiểm nghiệm, cho nên mặc dầu đã qua mấy chục năm độc lập tự do mà dân chưa giàu nước chưa mạnh như thấy ghi đầy trên đường phố, và khi muốn thực hiện một công trình to to cỡ … mười tấm chiếu, vẩn phải nhờ công ty ngoại quốc …
Ông bà mình dạy con dạy cháu luôn luôn nhắc nhở phải ” Học Hỏi và Học Hành “. Không biết, ở Việt Nam bây giờ, có ai ” biết cất giấu ” hai cụm từ đó trong một … kẹt tủ nào không ? Cất giấu với hy vọng một ngày nào đó sẽ có quyền đem ra áp dụng để thấy quê hương mình vẫn còn có ” một ngày mai tươi sang ” … Hỏi, mà sao tôi nghe ứa nước mắt !

Nói về “Hành”

Nhân nói về ” Học Hành “, tôi nhớ cách đây mấy năm, nước Pháp gởi một phái đoàn chuyên viên qua Nhựt để nghiên cứu cách làm xe hơi, mặc dầu xe hơi Pháp đã đạt vị trí khá tốt trên thị trường quốc tế. Tôi đã … lột nón chào phục mấy nhà sản xuất xe hơi Pháp bởi vì họ đã biết … nhét cái ” tự tôn mặc cảm ” vô túi quần để sáng suốt nhận thấy xe hơi Pháp vẫn chưa đứng ngang hàng với xe Nhựt, và họ chịu khó đi Nhựt ” Học Hỏi ” thêm để về ” Hành ” với những kinh nghiệm mới.
Chuyến qua Nhựt của các kỹ sư Pháp được trực tiếp truyền hình nên tôi đã theo dõi dây chuyền lắp ráp xe hơi, từng khâu từng khâu, một cách thích thú. Nhưng, chuyện đã làm tôi thật ngạc nhiên là ở cuối dây chuyền sản xuất có một người Nhựt kiểm soát từ trong ra ngoài của chiếc xe, mở cửa đóng cửa nghiêng tai nghe tiếng cửa đóng, rồi ông ta đi tới đi lui rờ chiếc xe, không phải chỉ rờ ở một vài chỗ mà là rờ toàn thể chiếc xe ! Một kỹ sư Pháp, chắc cũng ngạc nhiên như tôi, nên nghe hỏi : ” Ông làm gì vậy ? “. Người Nhựt trả lời : ” Tôi rờ ! Ông không thấy sao ? “. Hỏi : ” Rờ chi vậy ? “. Trả lời : ” Rờ để coi còn chỗ nào chưa vừa ý, ví dụ như chỗ có hơi trầy sơn mắt không nhìn thấy nhưng rờ thì thấy, phải cho làm lại “. Trong khi nói, người Nhựt đó không ngừng rờ, mắt vẫn theo sát hai bàn tay, chứng tỏ sự chú tâm đặc biệt. Một lúc sau, ông ta vừa gật gù vừa nói : ” Tốt ! “. Rồi lấy trong túi trước ngực một cuốn sổ rút ra một miếng nhựa nhỏ bằng ba ngón tay mang chữ ” OK ” và hàng mã số, đem dán phía trong kiếng sau của chiếc xe. Ông vừa bấm nút cho dây chuyền đưa xe ra khu ” OK ” vừa nói : ” Tôi làm nghề rờ nầy đã gần mười năm. Tôi rất hãnh diện vì chưa thấy một chiếc xe nào bị trả về, chứng tỏ rằng sản phẩm của nước Nhựt chúng tôi vẫn giữ đúng tiêu chuẩn quốc tế “. Ông mỉm cười, đầu gật gật ra vẻ hài lòng. Đến đây, tôi nhận thấy rằng ngoài cái đầu óc và tay nghề người Nhựt để hết vào công trình chế tạo chiếc xe hơi, họ còn đặt vào đó lòng yêu nước vô biên của họ nữa. Đó là yếu tố chánh đã đưa nước Nhựt lên vị trí ngày hôm nay.
Xin nhắc lại, vào những năm 50, mặc dầu Nhựt đã đóng máy bay tàu chiến rất có giá trị kỹ thuật, nhưng sản phẩm thực dụng khác đều bị coi là đồ dỏm không cạnh tranh nổi trên thị trường quốc tế. Vì vậy, người Nhựt đã phải đi học hỏi mọi ngành nghề ở các xứ tiên tiến, để sau đó về nước thực hành với ý chí ” Mỗi ngày phải hay hơn, hoàn hảo hơn “, làm cho món hàng mang dấu ấn ” Made In Japan ” phải được thế giới mến chuộng. Và, như mình thấy, hôm nay họ đã thành công ! Cái ” Hành ” thực tiễn  nghĩa là không tiểu xảo ngụy tạo và lòng yêu nước của người Nhựt là một bài học lớn …
Bây giờ, thử nhìn lại Việt Nam coi … ra sao ? Xin phép chỉ nhìn ở ” chóp bu ” thôi, bởi vì mọi quyền hành đều tập trung … mút chỉ ở trên đó hết, còn cái khối bần dân thiên hạ thấp lè tè dưới đất tuy mang mỹ từ ” Nhân dân làm chủ ” nhưng lại là hạng … tay trắng thân trần thì có khỉ gì để nhìn !
Nói về ” Học ” – đừng có giỡn – mấy cha lãnh đạo Việt Nam ngày nay đều là dân có học hết ! Không biết họ học ở đâu mà ai cũng có học vị và văn phòng của họ toàn sách là sách. Nhìn số sách trám đầy bốn vách tường là phải biết ngay họ ” học cao hiểu rộng “, dầu không tốt nghiệp cao học thì vẫn là … học cao, bởi vì họ đã … giựt được cái bằng mà họ cho là cao quí nhứt, bằng ” Đỉnh Cao Trí Tuệ Của Loài Người ” ! Bởi cái ” Học ” của họ … ngất ngưởng như vậy nên cái ” Hành ” của họ cũng ” phiêu hốt ở bốn từng mây “, nghĩa là … hai chân không chấm đất ! Nhìn coi : họ đem công ty ngoại quốc vô xây cất cả đống công trình vĩ đại như nhà cao tầng ( 68 tầng ! Hôm nào thang máy ăn-banh, trèo lên là … ná thở ! ) đường cao tốc ( cho xe chạy 50 km/giờ ! ) cầu vượt đồ sộ có đường dành riêng cho người đi bộ (  dân đi bộ vượt được qua cầu cũng … hộc gạch ! ) …v v , trong lúc hệ thống cống rãnh bị nghẹt ứ từ mấy chục năm nên thành phố cứ bị ngập lụt tới rún sau mỗi cơn mưa lớn ! Người dân lội trong nước để đi lại … sinh hoạt hay … chăng lưới bắt cá ngay trên lòng đường như đang ” tham gia lưu thông “, phía trên đầu là biểu ngữ ” Có nước sạch là có sức khỏe ” và ” Quyết tâm thực hiện tốt khu phố văn hóa mới ” ! Người dân chỉ biết than là bị Ông Trời hành chớ không nghe ai dám lớn tiếng : ” Tại mấy cha nội đó không biết … hành ! “
Với cái kiểu ” Hành ” nầy, với cái đà ” Tiến nhanh tiến mạnh ” nầy, và với cái lòng ái quốc … đóng khung ” Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa ” nầy … còn lâu ” ta ” mới  chế tạo nổi chiếc … ” Xe Trâu Made In Việt Nam ” để … xuất cảng … góp mặt với thế giới, chớ đừng nói sản xuất ra xe hơi như nước Nhựt !

Tiểu Tử

Wednesday, May 23, 2012

LUÂN HOÁN * Bướm Bay Thơm Thuở Sách Đèn




chẳng rõ lòng thương chính xác ai
sân trường trắng nõn những áo dài
tà bay tà rũ tà tay nắm
tà ửng vàng hườm hương nắng mai

tình vốn lao chao nhiều bóng hồng
tóc thề tóc kẹp tóc garçon
mắt nâu lấp lánh tròn mắt biếc
môi tẩm hương lài môi mật ong

một dạo si mê Nhỏ xóm Chùa
tan trường lững thững bám nắng trưa
bụi bay cay mắt lo quên dụi
đi lén sau lưng ngỡ được đưa...

theo Bé quận ba liền nửa năm
bàn tay vịn nón, làm sao cầm ?
chưa tìm phương kế làm quen được
qua ngõ mỗi ngày, khó ghé thăm!

vọng mỹ nhân hoài chẳng hụt hơi
thay nhiều thần tượng, nhớ khơi khơi
em quay đầu ngó, lòng hoảng hốt
giả bộ nghiêm trang ngóng đất trời

nhát gái hình như được trời thương
lai rai vai vắt ít hoa hường
suốt thời đèn sách may không tệ
dại gái đương nhiên chuyện bình thường

Luân Hoán
10-5-2012

Friday, May 18, 2012

TRẦN VĂN NAM * BAY CAO TRÊN ÐƯỜNG HÀNG HẢI GỐM SỨ


tranh Lương Trường Thọ

Nếu đã từng đi bằng chuyến bay hãng hàng không Eva hay China Airlines, sau hai giờ rời khỏi không phận Ðài Loan thì chúng ta sẽ bay dọc dài duyên hải quê hương, chỉ hơn một giờ nữa là đến không phận Sài Gòn.
Dù buổi trưa trời trong sáng, nhưng lục địa đất nước ta lúc nào cũng mây đùn che khuất tầm mắt, chỉ những hải đảo hiện ra rõ nét đang nằm im lìm dưới biển xanh; hải đảo màu mạ non viền bằng những vành sóng trắng.
Ðảo Cù Lao Chàm ngoài khơi Ðà Nẳng, hình củ khoai thắt eo ở giữa, nơi đáy sâu có thuyền chìm chưa trục vớt, sẽ là kho tàng nhiều cổ vật cho biết chủng tộc nào hằng bao thế kỷ trước đã mượn đường ven bờ tránh bão.
Hòn Cù Lao Ré ngoài khơi Quảng Ngãi hình dạng con diều giấy đang bay trên bằng phẳng mặt biển thay vì trên trời; cũng có thuyền xưa chìm vì không may khi vừa rời bến, chưa xuất cảng mà đã vùi chôn bao cổ vật thủy tinh của văn hóa Sa Huỳnh thuộc chủng tộc Chàm vốn giỏi nghề hàng hải.
Kế đến, đảo Phú Quý ngoài khơi mũi Kê Gà Phan Thiết; mũi đất nhọn sắc nét khi nhìn xuống từ máy bay; đảo hình tam giác hiện ra rất lâu vì máy bay đang theo một vòng cung lớn hướng vào châu thổ sông Ðồng Nai.
Rất tiếc, máy bay đã vào không phận Sài Gòn, bỏ xa ngoài khơi Côn Ðảo; cũng không bay sâu về mũi Cà Mau là nơi cũng có thuyền chìm thời đầu Công Nguyên mang theo nhiều cổ vật văn hóa La Mã- Ấn Ðộ- Ba Tư, những con thuyền trên đường định mệnh đến Óc Eo hải cảng.
Dấu vết của đường hàng hải gốm sứ còn ghi dấu bằng di vật tiền nhân rải rác từ vương quốc Phù Nam băng ngang qua vịnh biển Rạch Giá, đổ bộ lên eo đất hẹp Kra của Thái Lan để lấy đường tắt đi vào Ấn Ðộ Dương.
Có phải đường hàng hải gốm sứ đã đưa trống đồng Ðông Sơn chu du cùng khắp, cập bến từ mấy ngàn năm trước vào Indonesia, Mã Lai, Thái Lan; hay là vì đồ vật văn hóa đó dễ phổ biến nhờ ngày xưa thềm lục địa Ðông Nam Á còn là vùng đất liền Sundaland trải dài đến quần đảo Sulu Phi Luật Tân; rồi sau đó bỗng cấp kỳ lục địa Sundaland chìm bởi cơn Ðại Hồng Thủy.
Bằng chứng là những đền đài dưới đáy biển ven đảo Yonaguni phía cực Nam nước Nhật; bằng chứng chung lục địa là tiếng nói cùng nguồn cội Austronesian phân bố rộng từ thổ dân Ðài Loan đến chủng tộc Chàm cùng những cư dân các hải đảo Polynesia; bằng chứng là tê giác Java tại sao còn xuất hiện trong rừng Ðồng Nai; bằng chứng là tục ăn trầu cùng chuyện kể Sơn Tinh-Thủy Tinh na ná giống nhau từ Âu Lạc đến các hải đảo Thái Bình Dương.
Phải cần Ðức Tin mới thấy trận Ðại Hồng Thủy là một Khải Huyền Phán Xét; nhưng đường hàng hải gốm sứ thì rõ ràng là hiện thực vì ven bờ nước ta những xác thuyền chìm vẫn đang dật dờ đã mấy trăm năm nơi nhiều vực biển.        
TRẦN VĂN NAM

TRẦN KIÊN ĐOÀN * Trí Quang Tự Truyện: Không vẫn hoàn không

Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn – thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký. Người đem tiểu sử đời mình ra đánh bóng, trang hoàng, rao bán thì thành nhà… chính trị kinh doanh! Nhưng dẫu ở mức độ nào thì cũng khó lòng đem ra so sánh, cân đo khi không có cùng mẫu số. Cũng đều xuất phát từ con người làm điểm tựa, nhưng sẽ thiếu công bằng nếu đem những tứ đại kỳ thư, những áng kim cổ hùng văn hay thiên hạ danh văn để so với những bài thơ Thằng Bờm có cái quạt mo, những bài ca dao truyền miệng… vì mẫu số chung của cảm tính văn nghệ chẳng tương đồng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa tinh túy nhất mà cũng rất thường tình của nhân sinh, “cái thích” hay sự cảm thụ và sáng tạo văn chương nghệ thuật thì không ai giống ai vì cái ngã sở chắn đường bít ngõ theo lối mòn một chiều“có thì có tự mảy may, khi không cả thế gian này cũng không!”. Từ đó dẫn tới cái thương, cái ghét càng lúc càng xa với những gì hiện thực “thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng!”
Tác phẩm nghệ thuật thường được ví von như những cơn mưa. Có những trận mưa – mưa rào, mưa tình, mưa pháp – mà con người và muôn vật được hưởng lợi lạc hay phải chịu đựng cơn mưa phù hợp với căn tính của từng đối tượng: Con dế mèn ca hát rát cổ hưởng được một giọt mưa ngọt lịm; con chim non bị ướt tổ lạnh run; con kiến cỏ bị chết trôi chới với; người nông dân có được nước đầy đồng… Chẳng ai giống ai. Bởi vậy, mọi giá trị của vạn vật đều tương đối. Nhưng trong tương đối đã có sẵn một điều tuyệt đối, đó là sự khác biệt và đồng nhất đều cùng một thể: “Không lại hoàn không!”

Và, đó cũng là kết luận của “Trí Quang Tự Truyện”. Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90.
Có thể nói mà không phải dè dặt rằng, trong số các hồi ký của những nhân vật lịch sử, trong cũng như ngoài nước, có liên quan đến dòng lịch sử Chiến tranh Việt Nam thì hồi ký của thầy Trí Quang là một trong những tác phẩm được chờ đợi nhiều nhất.
Văn chương tự cổ không bằng cớ, nên khen hay chê tự nó không quan trọng mà quan trọng là mức độ khách quan, công bằng và tính trong sáng của sự khen chê. Và, quần chúng nói về một đối tượng sao bằng chính đối tượng được nhắc nhở đó tự nói về mình. Trí Quang Tự Truyện là những điều thầy Thích Trí Quang tự nói về mình.
Từ đầu năm 2011, tuy đã được đọc các bài giới thiệu và trích đoạn của tập sách nầy trên mạng lưới truyền thông nhưng mãi đến khi về thăm quê vào tháng 3-2012 tôi mới đọc được bản chính toàn tập. Sách dày 216 trang, nhà xuất bản Tổng Hợp tại Sài Gòn. In 3000 cuốn, xong ngày 22-7-2011. Tác giả viết xong ngày 24-4-2011. Sách không chia thành chương, mục mà được phân thành 47 đoạn viết theo lối hồi ức, tự truyện. Không có một hình ảnh nào minh họa từ bìa đến nội dung.

Trí Quang Tự Truyện đã gây ra những luồng phản ứng tuy không sôi nổi theo kiểu… “siêu sao”; nhưng tương đối rộng rãi đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước; đặc biệt là đối với giới trí thức và Phật tử lớn tuổi đã từng sống trong chiến tranh và trải nghiệm thực tế qua những biến cố lịch sử đầy thăng trầm của đất nước. Đa số bày tỏ sự thất vọng vì hồi ký không “ngang tầm” với tác giả. Người ta chờ đợi một thiên hồi ký có “tầm vóc thời đại”. Nghĩa là những pho sách dày với những công bố phơi bày nhiều bí ẩn lịch sử, những “giải mã” sự kiện còn nằm trong góc khuất, những lý giải hùng hồn về các hiện tượng đầy thâm cung bí sử, những biện minh đầy thuyết phục nỗi oan khuất của đạo pháp và dân tộc, những chứng lý rạch ròi thân phận nhược tiểu trên bàn cờ quốc tế… Nghĩa là với tầm vóc của một nhân vật tu sĩ Phật giáo đã từng là khuôn mặt trung tâm cho cuộc tranh đấu đòi tự do, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo năm 1963 và những cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị thời 1966 đã làm chấn động Việt Nam và dư luận thế giới như thầy Thích Trí Quang thì sẽ có cả một kho tàng dữ liệu và vô số lý giải cho cả một thời kỳ đầy biến động chiến tranh, chính trị và xã hội để viết ra trong hồi ký. Thêm vào đó, thầy Trí Quang còn là tác giả, dịch giả, luận giả uyên bác và đáng tin cậy của nhiều tác phẩm Phật học nội điển và luận thư trong khoảng 70 năm qua. Bề dày của những công trình biên dịch và tham luận có giá trị là những điều kiện “ắt có và đủ” cho một tác phẩm hồi ký lớn của Thầy ra đời. Hoặc ít lắm thì cũng là những hồi ức đầy “thương hiệu thành danh” của ta và của người vào hàng Retrospect của Robert McNamara hay Political Memoirs của Malcom Fraser… và của nhiều nhân vật danh tiếng Việt Nam đã xuất bản chẳng hạn.
Nhưng Trí Quang Tự Truyện đã thanh thản ra đời như một cô gái Việt chân quê trên diễn trường hoa hậu quốc tế làm cho người ta ngạc nhiên.

Những ngày mưa tháng Hai của Huế, lên chùa Châu Lâm không cách xa chùa Từ Đàm là mấy, được ăn cơm chay với thầy Thiện Phước trong vườn lan đủ màu tự trồng, tự tưới của Thầy, trưa vào nghỉ ở nhà tịnh của chùa và đọc Trí Quang Tự Truyện nguyên bản in của anh Trần Tuấn Mẫn báo Văn Hóa Phật Giáo gởi cho, tôi cảm thấy an tịnh và gần gũi với tập sách hơn.
Trong khu vườn thiền lâm, thầy Trí Quang là một hành giả với bút lực dồi dào từ khi còn trẻ tới hồi đại lão như hôm nay. Nói về công phu biên dịch kinh sách, chỉ riêng năm 2011 thôi, thầy Trí Quang đã hoàn thành nhiều công trình trước tác thâm uyên với 3 bộ sách đã in ấn và phát hành là: Tổng Tập Giới Pháp Xuất Gia gồm 2 tập, mỗi tập hơn nghìn trang và Nhiếp Luận, 334 trang. Bởi vậy, khi cầm Trí Quang Tự Truyện trên tay, có lẽ tôi không nên trịnh trọng gọi đây là một tác phẩm hồi ký đầy chữ nghĩa to tát mà nên gọi đây là những dòng tâm bút của một sơn tăng giữa thị thành đang sống với tánh thường rỗng lặng “không vẫn hoàn không”.
So với những tác phẩm mang tính nội điển mà thầy Trí Quang đã cẩn trọng biên dịch – nghiêm cẩn trong từng cụm từ và chỉnh chu trong từng luận giải – thì Trí Quang Tự Truyện nhẹ như tơ hào. Tác giả viết ra những sự kiện, kể lại chuyện đời mình bằng một lối văn chân phương – lại có khi rề rà không trau chuốt – dễ dãi như người bình dân ngồi kể chuyện Tấm Cám.
Trong suốt 50 năm qua, nhân vật Thích Trí Quang thường được (hay bị) môi trường truyền thông đại chúng trong cũng như ngoài nước nhắc nhở khá sôi nổi và không ít thường xuyên trong hàng tu sĩ Phật giáo Việt Nam đương thời. Sự nhắc nhở xuất hiện dưới nhiều dạng thức và từ nhiều góc độ: Giữa đường, lề phải, lề trái, trên mây, dưới hố… Nhưng không phải vì lời khen hay chê mà một dòng sông trở thành trong hay đục. Chẳng phải vì được ca tụng hay bị đả kích qua ngõ thị phi mà một nhân vật trở thành thánh hay phàm. Đâu phải vì yêu hay ghét mà một tác phẩm trở thành hay hoặc dở. Thầy Trí Quang – cũng như mọi nhân vật cộng đồng tên tuổi đã thành danh – có một vị trí và thế đứng riêng trong lòng người và trong lịch sử. Nhưng trong tự truyện, sau khi kể chuyện đời mình từ nhỏ đến lớn; từ thân chú tiểu mới xuất gia cho đến vai trò lãnh đạo Phật giáo thành tựu, tác giả tự kết luận về đời mình: “…cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có, nên phải viết và phải in, mà thôi. ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
Chính vì “chân không” mà cuộc đời thành “diệu hữu”. Nhà tu thật ngôn là người hành động trong vô vi; nghĩa là thỏng tay vào chợ mà không dính mắc, đối mặt với sấm sét giữa đời mà coi như hoa đóm giữa hư không.
Khuynh hướng nhất quán về “không” có mặt trên từng trang sách của Trí Quang Tự Truyện. Nội dung tự truyện kể lại nhiều biến cố và hành động trong chặng đời 90 năm của một hành giả đứng giữa gọng kềm lịch sử như thầy Trí Quang mà vẫn mang một phong vị tĩnh lặng an nhiên. Sự an nhiên có được khi yếu tố tác nghiệp không hoành hành. Đó là khi nhu cầu biện minh, giải thích, thuyết phục, khen chê, vinh danh, bài xích… không thể hiện qua ngòi bút và chữ nghĩa, ngôn từ của người viết. Nhờ vậy, người đọc tự truyện cảm thấy thanh thản theo dõi những gì xảy ra và được tác giả ghi lại mà tâm không bị động bởi những cảm xúc dấy bụi nhất thời.
Đạo Phật là con đường đưa đến giải thoát. Đó là một trạng thái tự do đứng ngay chính giữa hai bờ đối đãi của yêu-ghét, vui-buồn, khen-chê, sống-chết… Tuyệt nhiên không còn bị dính mắc vào hệ lụy của phóng tâm biên kiến đời thường đầy phiền não. Tâm Phật là tâm không không rỗng lặng. Chỉ trong không không rỗng lặng nầy – tinh thần “không trung vô hữu tuyệt đối” của Bát Nhã – thì Phật và chúng sanh mới thành nhất thể. Vì như thiền sư Thường Định Kaido Ashahi Nhật Bản nói trong Thiền Tập Quán Niệm Trên Núi Tuyết rằng: “Một đời đi qua, nếu còn một hạt bụi ngã nhân nào vướng lại ở trần gian nầy thì kẻ tác tạo hạt bụi đó vẫn còn bị cột buộc. Người đó còn phải quay lại trả nghiệp cho đến khi hạt bụi kia chẳng còn vướng vất giữa trần thế, trong tâm thức và giữa hư không…thì mới mong thấy được khung cửa nghìn xưa quay về nẻo Đạo.” Phải chăng vì muốn phủi sạch đôi “hạt bụi ngã nhân” còn vương trên khung cửa nghìn xưa quay về nẻo đạo mà Hòa thượng Trí Quang phải miễn cưỡng bận lòng trong Tiểu Truyện Tự Ghi, rằng: “Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.”
Xác định về một thái độ hành xử như thế, thầy Trí Quang làm cho những người học Phật đời sau nhớ tới tinh thần tùy duyên hành đạo và sống đạo của Phật giáo đời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi đã gác kiếm chống quân Nguyên, thay chiến bào bằng áo cà sa, nghe thị giả hỏi rằng, đâu là chỗ khác nhau giữa việc đời bôn ba và việc đạo an nhiên tự tại, đã đọc bài kệ:
Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Khi đói thì ăn, mệt ngủ yên
Của quý đầy nhà đâu phải kiếm
Thấy cảnh lòng không khỏi hỏi thiền
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)

Như thế phải chăng “vô tâm tức là đạo?” Khi có người hỏi về khái niệm nầy, Tuệ Trung Thượng Sỹ, thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đọc bài kệ:
Vô tâm là vô đạo
Có đạo chẳng vô tâm
Tâm đạo đều trống rỗng
Biết nơi đâu mà tầm?
(Bổn vô tâm vô đạo
Hữu đạo bất vô tâm
Tâm đạo nguyên hư tịch
Hà xứ cánh truy tầm?)


Điều Tuệ Trung muốn nói là cần đập vỡ những khái niệm tương tác không có thật giữa củ khoai và con kiến. Làm gì có con kiến mà kiện củ khoai. Làm gì có tâm và đạo hiện hữu như hai đối thể phân biệt khi tâm và đạo là nhất thể. Tâm và đạo không phải là hai hình tướng để mô tả và phân biệt mà cần thực chứng trong rỗng lặng, an nhiên qua một trong nhiều phương tiện quán chiếu thiện xảo nhất của Phật giáo là thiền định. Đạo Phật là con đường thực chứng cuộc đời chứ không phải phủ nhận hay xa lánh cuộc đời như ngộ nhận. Đạo giữa đời và đời giữa đạo. Bình thường giai thị đạo.
Nhà tu là một người phàm trang bị tính thánh chứ không phải là thánh. Bởi thế, tu hành cũng là một quá trình vật lộn với chính mình vì nghiệp và luân hồi là một chân lý vận hành khách quan. Bất luận Phật tử xuất gia hay tại gia, đã tu mấy đời hay nhiều đại kiếp, khi chưa đắc đạo thành Như lai, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác… thì vẫn còn trực tiếp chịu sự chi phối của Nghiệp. Mục Kiền Liên là đại đệ tử đệ nhất thần thông của đức Phật đã tu qua nhiều đại kiếp, đã từng xuống tận địa ngục A Tỳ cứu Mẹ mà trong kiếp cuối cùng, trước khi đắc đạo, vẫn phải trả Nghiệp tiền kiếp. Ngài đã bao lâu ẩn tàng, mặc cho bọn cướp vây quanh tha hồ biếm nhẻ. Nhưng chỉ một phút tác động của Nghiệp đã để lộ nguyên hình cho bọn cướp ùa tới phanh thây. Tên cướp và thiền sư khác nhau ở chỗ là ai đang tạo nghiệp và ai đang giải nghiệp mà thôi.
Bởi thế, “tùy duyên…” là phong thái hành hoạt của người theo đạo Phật. Tất cả đều có sẵn tự thân tâm. Làm vua gặp quân xâm lăng: Đánh! Làm thầy gặp chuyện bất bằng: Chống! Gặp đời phiền não: Tu! Hết một đời: Thản nhiên ra đi như thay áo. Gặp chuyện thị phi đời thường: Im lặng như chánh pháp. Khi cần lập ngôn: Nói năng như chánh pháp. Có gì quan trọng – khi một tơ hào cũng không còn hiện hữu trong tánh không rỗng lặng – đâu mà phải cần hư vọng, hư danh như bia đá đề tên, lưu danh sử sánh, bỉ thử khen chê.
Trong khung cảnh Phật giáo, Trí Quang Tự Truyện viết ra để ghi lại những chuyện đời thường của chính tác giả. Nhưng tất cả đều không vượt ra ngoài tự tánh của chư pháp “không lại hoàn không” và tác giả đã hành xử; đã sống và viết trong cái không mênh mông rỗng lặng đó. Tiếng chuông công phu khuya từ chùa Hàn Sơn ngày xưa dóng lên từ một sơn tăng đã trở về với tự tánh rỗng lặng. Nhưng Trương Kế và muôn vạn đời sau đã “bắt gặp” và cảm nhận như thế nào là cả một hợp duyên “thân báo” muôn màu muôn vẻ khó thể nghĩ bàn. Khi tiếng chuông tự nó là tiếng chuông thì sẽ không khứ, không lai, không thừa, không thiếu. Tiếng chuông cũng chỉ là một pháp… không lại hoàn không.

Trần Kiêm Đoàn
Huế – Cali., mùa Phật Đản 2556 (2012)

Monday, May 7, 2012

TRẦN VẤN LỆ * Đất Khách Lang Thang Một Tiếng Cười



Lâu lắm,  sáng nay tôi gặp lại / một người bạn cũ thuở nhà binh.  Bạn già…trông giống như ông Tướng – ông Tướng buồn hiu – Tướng thất tình!

Bạn nắm tay tôi rồi chậc lưỡi:  Ồ mày!  Thằng Lệ Địa Phương Quân / vẫn “ngon” như thuở Ma Lâm nhỉ / thơ thẩn vẫn đầy ắp mỹ nhân!

Bạn với tôi vào quán mái hiên / mái hiên Tây Nguyệt gác chênh chênh / thằng ly trà đá / thằng chanh muối / khuấy đục ly tìm chút nhớ / quên…

Bạn làm thợ tiện / tôi làm thơ.  Cải Tạo nhiều năm, chuyện chẳng chờ / cả cái chết Trời chưa biểu chết / ờ thì cứ sống / sống lơ ngơ!

Hai đứa quanh co ngày tháng cũ / quanh co rừng núi thuở hành quân / rồi thì đi thẳng vào năm tháng / đi thẳng vào thời Mất Núi Sông!

Hai đứa hình như…rất giống nhau:  “Mày ơi tao tưởng giấc chiêm bao!”.  Bạn tôi não nuột nheo nheo mắt, tôi nói: “Thôi đành vậy, kiếp sau…”.

Có được hay không đời-kiếp-khác?  Thở dài.  Ly nước đá bay hơi…Quê Hương ngó lại, mình tan biến, còn lại, như nhau:  Tiếng Thở Dài!

Bạn với tôi về, kẻ ngược, xuôi.  Bạn còn nghề ngỗng, cũng vui thôi, tôi quờ tôi quạng thơ lăn lóc.  Đất khách lang thang một Tiếng Cười!

Trần Vấn Lệ