văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Friday, March 1, 2013

Trương Đạm Thủy * NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỌC THƠ

Tr Dam Thuy 5
Trương Đạm Thủy


Người đàn ông gầy còm, mái tóc cắt trùi trủi nên khuôn mặt ông ta trông hóp héo như ruột người bệnh mới từ nhà thương về.
Bốn giờ sáng mà điện đã cúp. Chung quanh trời tối mênh mông. Ông mò cái bật lửa bật lên tìm cây nến. Cây nến nằm trong một góc tủ. Chiều qua hình như ông ta nhậu hơi nhiều nên đến giờ nầy đầu óc vẫn chưa tỉnh táo ra. Vẫn lơ mơ trong đầu ông ta câu chuyện nơi quán rượu. Cái quán nầy như có ma lực khiến ông không thể xa nó, đi đâu ông cũng nhớ nó, nhớ những câu chuyện quanh nó.
Quán nầy lạ lắm, nó được che phủ bởi hai cây si già rể thả xuống đong đưa như một bầy rắn. Thêm một cây cao su ở đâu lạc loài về đây hàng trăm năm, da lên xanh rêu mốc. Về mùa đông xuân lá cây su trở nên vàng ánh bỏ rơi từng bầy lá sau mỗi cơn gió nhẹ. Lá vàng phủ trên mảnh sân rộng, phủ lên bốn năm tảng đá sắp không đều hàng.
Theo một khách nhậu, mấy tảng đá nầy được dựng ở đây một cách có ý thức chớ không phải vô tình: nó được xếp đặt theo phong thủy. Bên cạnh mấy tảng đá buồn thiu ủ dột đó là một cây đàn đá kiểu Nhật Bản có hai chân được chôn sâu dưới đất.
Người đàn ông hay ngồi nơi cái bàn đặt sát cạnh mấy tảng đá bí ẩn bên thềm quán. Một cảm giác lạ lùng đã ám ảnh ông ta không sao rứt ra nổi. Đó là … Ừ, cứ mỗi buổi chiều mưa khi ngồi ở đây rượu đã ngà ngà say, khi một ánh chớp lóe lên ông lại thấy những hòn đá cử động, chúng lắc lư như đang say rượu. Và những lúc đó hình như ông nghe chúng trò chuyện. Chúng cứ thì thầm to nhỏ điều gì đó bí mật trong mưa.
Có một tảng đá thấp gầy nói giọng nữ, một tảng đá cái ư ? Một tảng đá cái duy nhất giữa những tảng đá đực có vẻ gì đó khá bí hiểm hiện ra mỗi lần có một tia chớp lóe lên nhoáng qua mặt sân.
Ông Tư già một khách rượu thường xuyên ở đây trầm trồ về mấy tảng đá : “Ở đây người ta bố trí mấy hòn đá nầy theo phép ngũ hành. Không phải là ngẫu nhiên đâu. ‘I’hế đất ở đây hơi bị hãm nên mới dựng ra mấy viên loạn thạch nầy để trấn yểm lấy lại thế cân bằng. Chủ nhân của ngôi nhà cổ trên mảnh đất nầy hẳn xưa phải là một tay giàu có và rất sành khoa phong thủy. Những viên đá nầy tương sinh tương khắc, vừa nương tựa lại vừa chế ngự lẫn nhau. Và như thế thì ngôi nhà và những người sống nơi đó sẽ được bình an làm ăn phát đạt”.
Người đàn ông cứ bị mấy hòn đá ám ảnh. Cũng theo ông bạn Tư già, trong rừng có thần rừng, trong núi có thần núi. Những viên đá là một phần của núi. Đá lâu năm nó có thần ở trong đó. Vậy nhóm loạn thạch lâu năm nầy nằm đây hẳn phải có một duyên sự gì đó bí mật.
Ở đây khách nhậu đông lắm, quen mặt nhưng khó nhớ tên. Quán chỉ bắt đầu hoạt động lúc 11 giờ sáng đến 10 giờ đêm thì đóng cửa, bất kể xuân hạ thu đông. Không có ngày nghỉ, rượu chảy suốt bốn mùa.
Cô phục vụ tên Phấn kể rằng hồi cô mới vào làm việc bưng bê cô chỉ mới tròn 18 tuổi. Vậy mà nay đã sắp sửa ba mươi, tính ra hai chân cô di chuyển mỗi ngày suốt hơn mười năm bằng con đường vòng quanh trái đất. Đã có bao nhiêu người chọc ghẹo cô, bao nhiêu gả say và giả say tỏ tình với cô, cô quên mất.
Phấn cười nói khi quán rượu đã đầy lúc ấy mắt cô chỉ nhìn thấy mơ hồ những khuôn mặt giống nhau, đỏ khé mờ mịt hơi men. Phấn sợ những đôi mắt soi mói nhưng chủ quán quy định các cô phải mặc áo rộng cổ với lý luận : khách nhậu không chỉ nhậu bằng môi miệng mà còn nhậu với con mắt. Với một phần ngực đẹp của các cô gái sẽ góp phần cho bữa nhậu hào hứng thêm, khí thế thêm.
Vậy đó hơn mười năm áo hở rộng cổ, một phần ngực nửa kín ngửa hở dành cho những cái nhìn chăm bẳ, miễn phí. Phấn đi qua tuổi xuân hồi nào chẳng hay. Bây giờ quen mặt áo rộng cổ rồi; quen những đôi mắt háo hức, Phấn hết còn quan tâm đến bọn đàn ông nhấp nhô trong cái không gian mênh mông của quán rượu.
Người đàn ông mỗi khi đến quán hay ngồi ở cái bàn gần mấy hòn đá nơi những rể si lòng thòng phất phơ trong gió. Người đàn ông gọi Phấn bằng em và xưng mình là bố : “Phấn ơi, em choo bố mấy chali bia”. Phấn đặt hai chai bia với cái ly đá trước mặt ông, nheo mắt cười : “Bia đây mời bố”. Cái nheo mắt, nụ cười và chất giọng thanh tao của Phấn đã thường xuyên đến với ông ta trong những giấc mơ. Có lần trong một cơn say la đà, ông ta đã nói với Phấn như lời thú tội… trước hoàng hôn : “Giá mà bây giờ bố được trẻ lại hai mươi năm tuổi chắc bố sẽ cưới em làm vợ”. Chẳng hiểu Phấn nghĩ gì khi nói nhỏ vào tai ông : “Nếu như bố trẻ lại thì em đâu có cho bố đi nhậu và em cũng sẽ chẳng làm cô gái phục vụ quán bia…”, nói xong em cười và biến đi.
Người đàn ông mơ màng : Ừ, mà trẻ lại để làm gì, để hai đứa được sóng đôi nhau chăng ? Biết đâu sau hạnh phúc lại đến lúc bất hòa rồi ly thân, ly dị… chi bằng mỗi ngày cứ đến ngồi đây nhăm nhi bia bọt, cứ bố bố em em há chẳng hạnh phúc hơn sao ? Người con gái đẹp hay một tình yêu đẹp có lẽ nên có một quãng cách ở ngoài tầm tay với để ta luôn mơ tưởng, chiêm ngưởng nó như chiêm ngưởng một bức tranh một pho tượng quý nơi viện bảo tàng. Cấm sờ nó, cấm sở hữu những báu vật của thế gian, tình yêu thật sự là cái ta yêu và luôn tưởng mơ về nó.
oOo

Ngọn nến chập chờn rồi phụt tắt. Bên ngoài cửa sổ gió nổi to. Trời đang chuyển cơn mưa sớm. Bầu trời chưa kịp sáng đã trở nên tối lại.
Người đàn ông thấy con mắt mình ríu lại. Chợt thấy mình ngồi nơi cái bàn cũ gần bên mấy tảng đá sù sì. Nghe tiếng hòn đá cao to cất tiếng trầm trầm : “Bố yêu em, chúng ta phải đi suối đường trần”. Không thấy miệng đá nhót phép vậy mà lời của nó nghe rõ mồn một. Hình như hòn đá cái ngọ nguậy trong cái khoảng mờ mờ tối đồng thời một giọng nói có vẽ giận dữ : “Xin chớ đụng tôi, hãy lui ra vì tôi sắp vỡ và sắp nổ đây”, “Hãy vỡ và nổ đi, chúng mình sẽ về cõi vĩnh hằng”, tiếng hòn đá đực nói như van lơn. Im lặng một lát giọng nữ lại cất lên : “Hãy lánh xa em bố ạ, em cần có khoảng trống bao la để biến tan trong ánh nắng, hòa chảy trong ánh trăng. Đừng nhìn em như thế”. Hình như trong giọng nói ấm ức có cả tiếng sụt sịt khóc. Ủa lạ, sao giọng người con gái nào lại giống giọng nói của Phấn ?
Bất chợt trời đổ ào mưa. Xuyên qua màn mưa những làn chớp loé sáng. Mưa nhả xuống hiên quán dội trên mấy tảng đá. Gió gầm rú trên cây si làm những chiếc rể si quẩy lộn dữ dội.
Bây giờ là mấy giờ ? Là sáng, trưa hay chiều tối ? Người đàn ông hoàn toàn chẳng còn ý thức được thời gian. Cái quán sao mênh mông và lặng yên một cách kỳ lạ. Khách ngồi giương những đôi mắt sâu hoắm tăm tối hướng ra bầu trời ủ dột mưa như đang chìm đắm vào một mối trầm tư gì đó khó hiểu.
Không nghe tiếng ly cốc khua động, nhưng chai lọ đứng yên trên mặt bàn hứng những làn gió và tia chớp tạt vào. Lẫn trong tiếng mưa lời của một giọng nam cất lên run rẩy : “Em cho bố một cơ hội nếu như bố trẻ lại hai mươi năm tuổi. Bố yêu em, ta đi với nhau đến cuối đường trần nầy”. Tiếng người nữ thút thít : “Xin bố chớ đến gần em, coi chừng hạt linh hồn em bám phải sẽ vươn rất nhanh cành lá, rể quấn nhằng nhịt hút lấy máu bố… “.
Người đàn ông rùng mình. Gió hất đám rể cây si quất vào thềm quán uốn éo như bầy rắn lục đang động tình. Chúng sẽ vươn tới và quấn chặt ông ta. Bầy rắn sẽ hút sạch máu ông ta bởi những cái miệng đỏ như ngậm hòn than nóng. Bất giác ông ta nhích vào phía trong một chút. Gió đột nhiên gồng mình lên gầm rú qua hàng cây xô đẩy, vặn bứt chủng. Có tiếng gãy đứt răng rắc, rồi một súc gỗ thật to bị ném ầm xuống chỗ mấy tảng đá. Súc gỗ nhảy tưng mấy cái rồi nằm im. “Trời đất, nếu như ta chẳng chịu nhích vào một chút thì có lẽ bây giờ hồn đã lìa khỏi xác”, ông ta ôm ngực thở hổn hển.
Có tiếng cười ngặt nghẽo ở đâu đó trong mấy hòn đá nổi lên. Bọn chúng thích chí đang cười cợt ông vừa trải qua một cơn sợ muốn đứng tim. “Phấn ơi, nếu như ban nảy cành cây đòi nạng nầy rơi vào bố thì giờ đây bố sẽ ra sao ? Bố sẽ hóa thành một ngọn gió, một ngàn mây cuồn cuộn bay đi hay một hồn ma ngơ ngác thấy mình bất ngờ bị vất ra khỏi xác ? Liệu lúc đó bố còn nhớ em, còn yêu em như tấm hình hài nầy ?”, người đàn ông nghe thấy tiếng mình buồn bã cất lên trong lòng ngực. Bên trong lòng ngực ông, dường như đó mới chính là con người thật của ông, nó luôn ở bên ông và nói và nghĩ suy thay ông. Yêu thương, giận hờn, mừng vui hay sợ hãi… tất cả mọi thứ đều xuất phát từ trong cái lồng ngực ấy. Nó vô cùng sống động, vô cùng bao la trong cái cõi gần gũi kề bên mà ông hình như chẳng bao giờ chạm đến được nó.
Người đàn ông bỗng nghe vùng cơ ngực co thắt nhói đau. Tiếng ho của ông làm ông giật mình mở mắt ra ngơ ngác. Ủa, ông đang ở nhà trong buổi sáng trời mưa tơi tả mà.
Đã sáu giờ sống mà trời vẫn tối thầm thầm. Khí lạnh len qua cánh cửa sổ mở hé lọt vào căn phòng yên ắng. Mấy con muỗi vo ve tìm chút máu làm ông tỉnh hẳn. Hóa ra ông vừa rời khỏi một giấc mơ. Mò tìm cái bật lửa thắp lại ngọn nến. Ánh lửa chập chờn soi mặt bàn bừa bộn sách vở. Lâu nay ông thường bị những giấc mơ kéo đến bất chợt. Đang ngồi đọc sách hoặc viết lách đột nhiên ông rơi vào giấc ngủ chẳng biết lúc nào. Và trong mỗi giấc ngủ lại có nhiều mộng mị khác kéo về khiến nhiều khi ông phân vân tự hỏi khi ông đang tỉnh, là lúc ông mơ hay khi đang mơ lại là khi đang tỉnh ?
Ông đứng lên đốt một cây nhang trên bàn thờ vợ ông. Bà mất đã 20 năm rồi, lúc đó ông mới vừa 30 tuổi. Cái chết của bà là nỗi đau thương lớn nhứt đời ông. Nhưng 20 năm qua, vết thương cũ đã lành, ông thôi xót xa. Tuy nhiên nhìn ảnh vợ ông cũng không sao khỏi chạnh lòng. Những ngày yêu nhau, ông cũng si mê bà như bây giờ ông si mê Phấn. Bà cũng hiền từ dễ thương như Phấn, bao giờ cũng chịu thương chịu khó mà nét mặt vẫn tươi cười. Có bà, ông chẳng phải lo nghĩ gì từ miếng ăn giấc ngủ. Bà vừa như một người mẹ lo cho con trai, vừa như người chị chăm nom đứa em nhỏ. Có những lúc vui hay giận ông bà thường trách yêu : “Nếu như không có em chẳng biết anh sẽ sông ra sao ?”. Quả vậy, ông sống một cách phiêu bồng với cây bút ngòi viết, chẳng hề biết sửa cái cầu chì, công tắt điện, chỉnh sửa cái vòi nước hư… áo quần ông mặc vất ra có bà giặt. Thay đồ mới đã có y áo ủi kỹ treo trên móc. Ông đi đâu về gọi “Em ơi đói bụng rồi” là có sẵn mâm cơm. Vậy mà 20 năm nay ông chỉ còn nói chuyện với cái bóng của mình, ông tự kêu đói và tự đi nấu ăn; tự vất quần áo bẩn ra và tự đi giặt lấy…. Thiếu sự hiện diện của bà đời ông bơ vơ, cơ cực. Nhưng nói gì thì nói vết thương của 20 năm cũng dần liền da liền thịt và người đàn ông bắt đầu nghe một mùa xuân mới trở về trên cánh đồng khô hạn của đời mình.
oOo

Ngoài trời vẫn chưa sáng. Người đàn ông dụi mắt thắp lại ngọn nến. Trên bàn trước mặt ông gió lật mấy trang thơ một cuốn thơ cũ ố vàng. Ông ta cúi xuống đọc. Những con chữ như có ma thuật chúng đang nhảy múa. Hình như có tiếng ai đó ca hát ê a trong thơ, giọng lạnh lẽo, gay gay….
Hồi này sao thế, mới tảng sáng mà ông cứ chợt tỉnh chợt mê. Những khoảnh khắc chợt thức chợt ngủ cứ đan nhau làm ông lẫn lộn giữa hư và thực.
Tr Blogger 2Lại nữa rồi, giọng đọc thơ ấy vẳng lên sao giống như giọng nói lạnh lẽo phát ra từ hòn đá cái : “Xin chớ gần tôi, thuyền tôi sắp vỡ”, vừa xua đuổi lại vừa thiết tha van xin ở lại. Những tảng đá ấy không còn yêu nhau nữa chăng ?
Hôm kia Phấn nghiêng người xuống rót rượu cho ông em nói rất nhỏ : “Bố ơi, em sắp sửa xa bố, em đi lấy chồng. Bố sẽ không còn gặp em nữa đâu. Nhưng bố đừng buồn”. “Tại sao không buồn khi chẳng còn em ngày ngày bố gặp ?”, ông nói mà như khóc. Hơi thở Phấn lướt qua trên mái tóc lốm đốm bạc của ông : “Đừng buồn bố ơi, vì sao bố biết không, vì dù em đi lấy chồng nhưng em yêu bố, em yêu bố, em yêu bố…”
Người đàn ong chợt nghe trái tim mình đau thắt, lòng ngực như đang bị ai kéo dãn ra. Trước mắt ông ta có những bóng đen như có bầy ruồi đen bay lơ lững. Ông thấy chếnh choáng như những hôm say rượu, mắt hoa lên. Ông gục xuống cuốn thơ cũ ố vàng dưới ánh nến đang lụng dần, lụng dần….

Trương Đạm Thủy

Phan Đổng-Lý * HÀNH Y



(Viết cho Đỗ Hồng Ngọc)


Là một kẽ phụng thừa y đạo
Mang huyết tâm trả nợ nhân sinh
Nhìn thai nhi tượng hình trong bụng mẹ
Ta thấy được gì trong cõi u minh

Tiếng u oa, em chừng vừa tĩnh giấc
Mang vào đời chút âm vọng bi ai
Mắt ngấn lệ em nhìn quanh ngơ ngác
Nợ tiền thân có trĩu nặng bờ vai

Ta nhìn em lòng bâng khuâng thương cảm
Mai đây rồi xuôi ngược biết về đâu
Đường vạn lý ta chúc em nhẹ bước
Có hoa vàng nắng rải ngp trăng sao

Ta nào phải kẽ bi quan yếm thế
Chỉ xót thương cho tuổi trẻ bạc phần
Vòng tay ta đã bao lần ôm ấp
Những mãnh đời, ôi, ngắn ngủi mệnh căn!

Ta chọn hành y, cứu nhân độ thế
Ta độ được gì, đã cứu được ai
Đêm chập chờn ta nằm đợi ban mai
Ngày thoi thóp ta lại chờ đêm xuống

Ta đã lớn lên giữa thời lửa loạn
Gió bụi mịt mù Nam Bắc phân ranh
Tim quặn thắt trước cảnh đời tang tóc
Hồn đớn đau cho thân phận Lạc Hồng

Ta vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Nhưng đầu xanh nào đã tội tình
Một chữ Nghiệp có vơi niềm oán khí
Một hồi Kinh có dịu nổi sầu bi

Ta đã một lần rong chơi địa phủ
Cầu Nại Hà, nhìn sóng gợn lăn tăn
Tâm tĩnh lặng giữa hai bờ sinh tử
Hồn nổi trôi theo con nước bập bềnh

Một kiếp nhân sinh chưa tròn cuộc nợ
Ngày tiếp ngày cười khóc với thế nhân
Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân
Mang y đạo vào luân hồi chuyển thế .

Phan Đổng-Lý
Melbourne Feb. 2013






Thursday, February 28, 2013

Văn Quang * Ấm ớ chuyện đầu năm


Vừa bước sang đầu năm con Rắn, VN đã có khối chuyện ồn ào, mới có cũ có, đủ mục lẩm cẩm, đủ chuyện “ấm ớ hội tề.” Nhiều bạn thuộc loại “cụ” chắc chưa quên cái “hội tề” xưa kia, nhiều bạn quên hoặc chưa biết. Vậy xin nhắc lại chút xíu về cái “hội tề” này, tại sao người ta lại gọi hội này là “hội ấm ớ”. Chuyện kể rằng vào khoảng những năm 1948-1954, khi quân đội Pháp lập nhiều đồn bót ở những vùng quê mới chiếm đóng, dân trong các làng mạc quanh “bót” tức là đồn Tây đóng, thường chạy “tản cư” hết. Nhưng sau một thời gian, nhà cửa ruộng vườn còn đó nên dân làng lại trở về cày cấy, kiếm sống. Để có một Ủy Ban Hành Chánh trông coi công việc trong làng, người Pháp lập ra mội Hội Đồng, như Ủy Ban Hành Chánh, thay mặt cho dân giao thiệp với các quan trong đồn. Người ta gọi cái Ủy Ban đó là Hội Tề. Hồi đó hầu hết người dân thôn quê chỉ biết có Việt Minh chống xâm lược, chứ chưa biết đảng Cộng Sản là gì.
Vào thời đó, Việt Minh mới thành lập những đội du kích, sống lẫn lộn với người dân trong làng. Đêm đến làng là do Việt Minh kiểm soát, ban ngày quân đội Pháp cai trị. Đêm Việt Minh đào đường, phá đường hoặc có những hoạt động trong làng, ban ngày lính Pháp lại vào làng, truy hỏi cái Hội Tề đó về những hoạt động này như “ai phá đường?”. Các ông trong hội tề cứ ấm a ấm ớ trả lời: “Dường như mấy thằng ở làng bên cạnh hoặc nó ở đâu mang súng về, chúng tôi không biết”. Rồi Tây lại bắt dân ra đắp lại đường. Thật ra thì chính những anh đắp lại đường hôm nay lại là những anh phá đường đêm hôm trước. Tây nói cũng ừ, Việt Minh nói cũng đúng, nửa nọ nửa kia, nửa theo nửa chống, nửa nạc nửa mỡ. Cứ cái kiểu ấy kéo dài, nên Hội Tề được dân gọi là “hội ấm ớ”. Năm 1949-50, tôi cũng đã có thời gian phải sống trong “làng Tề” như thế này.

Sáng xách ô.. tô đi, tối xách ô tô về
Vào thời đại ngày nay, kiểu ấm ớ hội tề này diễn ra dưới những hình thức khác nhau. Thí dụ như đến nay người ta tạm xác nhận có 30% quan chức “sáng xách ô đi tối xách về”. Chính Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói rõ tại cuộc họp thứ nhất Ban Chỉ Đạo Đề Án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức chiều 25-1-2013: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào.” Vậy những cơ quan đó, gọi cho đúng là làm việc theo kiểu “ấm ớ hội tề” thời xa xưa? Thời nay các quan không che nắng che mưa bằng ô nữa mà bằng “ô tô” cho nó hợp thời đại “anh hùng”. Nên có nhiều bạn đọc còn nói là những ông sáng xách “ô tô con” đi tối xách “ô tô con” về còn nhiều hơn con số 30%.

Đa quan tàn dân
Một thí dụ khác còn “tức cười” hơn là một cơ quan có tới 3 ông sếp chỉ huy 1 nhân viên. Đây không phải chuyện “mấy thằng phản động phịa ra để nói xấu chế độ”, mà là chuyện hoàn toàn có thật.
Theo kết quả thống kê từ Sở Nội Vụ Nghệ An, hiện một số sở, ban ngành cấp huyện đang tồn tại một nghịch lý, lãnh đạo nhiều hơn nhân viên. Có trường hợp ở một phòng ban, chỉ có 1 nhân viên, nhưng có tới... 3 cán bộ lãnh đạo.
Đơn cử như ngay chính trường hợp của Sở Nội Vụ tỉnh Nghệ An, với 31 biên chế (công chức chính ngạch, ăn lương nhà nước) nhưng đã có tới 19 lãnh đạo gồm 1 giám đốc, 4 phó giám đốc và các trưởng, phó phòng. Phòng công chức viên chức của Sở hiện có 4 biên chế thì có tới 3 lãnh đạo gồm 1 trưởng phòng, 2 phó phòng, và chỉ có 1 nhân viên để giao phụ trách các công việc cần thiết.
Ở đời, cái gì hiếm mới quí. Đông quan khiến cái danh quan cũng nhảm nhí. Ở cái phòng mà 3 vị chỉ huy, chỉ có một nhân viên như đã nói ở trên thì nhân viên trở thành hàng độc, hàng quý hiếm. Đến khi lấy phiếu tín nhiệm từ “quần chúng” chẳng hạn. Nếu nhân viên này “lắc” ai là người đó coi như 100% không có tín nhiệm, tất nhiên về vườn sớm. Tết vừa qua, có khi các sếp đua nhau mang quà cáp cho ông nhân viên quý hiếm kia đấy.
Dân gian có câu: “Đa quan thì tàn dân”. Nhiều quan dân đã khổ rồi mà quan lại nhiều hơn dân thì dân khổ hơn là cái chắc.

131 gia đình dân mà có tới 120 cán bộ xã, thôn
Còn khôi hài và ấm ớ hội tề hơn nữa là xã Minh Cầm, một trong 2 xã xa nhất của huyện Ba Chẽ. Dân số toàn xã hiện có khoảng 519 người dân sống rải rác ở 5 thôn, tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm tới 94%. Vậy mà vài năm trở lại đây, số lượng cán bộ xã, thôn ở Minh Cầm gần ngang ngửa với số gia đình dân trong xã. Đến nỗi, nhiều người phải thốt lên: Ra đường là gặp cán bộ... Khi được hỏi về số lượng cán bộ đang có trong xã, ông Bàn Văn Ba, Phó Chủ tịch UBND xã Minh Cầm nhẩm tính lên tới 120 người.
Điều quan trọng hơn, chính là số lượng viên chức lại không phản ánh được chất lượng hoạt động của đội ngũ này. Hơn 100,9 ha rừng tự nhiên ở tiểu khu 133, 134 của xã bị tàn phá trong một thời gian dài nhưng chính quyền xã lại không hề biết. Sự việc diễn ra từ tháng 1-2012 và đỉnh điểm của việc tàn phá này là vào tháng 4-2012, khi hàng chục người ùa vào đốt trụi, chặt hạ cây rừng.
Với đầy đủ ban bệ từ thôn đến xã, vậy mà sự việc lớn tày trời như thế xảy ra trong suốt thời gian dài mà chính quyền không hề có sự can thiệp nào.
Còn đối với hơn 100 cán bộ làm công tác tại các thôn, trách nhiệm của họ ở đâu trong khi ngân sách địa phương hàng năm vẫn đang phải chi trả một khoản tiền không nhỏ cho các ông quan xã này. Đúng là chuyện chỉ có ở Việt Nam.

Chuyện cũ như trái đất vẫn tái diễn
Chuyện đầu năm cũ rích vẫn cứ được lập đi lập lại từ năm này qua năm khác. Từ chuyện người dân kéo đến chùa chiền bị chặt chém thoải mái với những cảnh nhếch nhác quen thuộc vẫn cứ diễn ra. Những chuyện cướp bóc trong dịp Tết và sau Tết xảy ra ngày một man rợ hơn như vụ tướng cướp “Thịnh Mắt Ma” và đồng bọn chôn sống một anh tài xế taxi rồi mang lựu đạn xông vào tiệm vàng cướp 200 cây vàng. Chuyện xõa tóc “thôi miên”, cướp hơn 1 tỷ giữa Thủ đô Hà Nội là một kiểu cướp mới rất khó đề phòng. Rồi đến chuyện Chung Hân Đồng, một ca sĩ nổi tiếng trong nhóm nhạc Twins của Hồng Kông, sang VN chơi lễ Valentine hôm 15-2 vừa qua, nhưng lúc dạo phố ở TP Sài Gòn bị giật mất chiếc điện thoại. Chung Hân Đồng kể câu chuyện này trong chương trình phỏng vấn trên đài phát thanh quốc tế CRHK và cho biết “Sự việc làm tôi gặp ác mộng ngay đêm đó”.
Đúng là một nỗi nhục quốc thể. Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong kỳ sau. Ở đây tôi chỉ có thể điểm qua vài nét chính vui vui vào dịp đầu xuân này.

Kỳ cục chuyện Cảnh Sát Giao Thông xử phạt
Về những tai nạn xe cộ làm thiệt mạng hàng trăm người, mặc dù theo báo cáo năm nay tai nạn giao thông (TNGT) đã giảm bớt, nhưng con số gần 300 vụ tai nạn vẫn còn là quá nhiều. Trong hơn 290 vụ TNGT dịp Tết vừa qua, hầu hết xảy ra trên đường bộ và có liên quan đến rượu, bia. Như thế, trách nhiệm trước tiên thuộc về người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trên khắp các quốc lộ, dễ dàng bắt gặp tài xế xe tải, xe khách phóng bạt mạng, liên tục lấn tuyến, vượt mặt nhau; nhiều người chạy xe máy không thèm đội mũ bảo hiểm, cứ thấy vắng bóng CSGT là phóng nhanh vượt ẩu. Những kẻ chạy xe mà không biết quý tính mạng của mình thì làm gì còn nghĩ đến tính mạng của người khác! Vì thế, TNGT không chỉ gây hậu quả đối với kẻ gây ra tai nạn mà còn tước đoạt một cách oan uổng mạng sống của nhiều nạn nhân vô tội.

Lái xe vi phạm “hù” trung tá Cảnh Sát Giao Thông
Nhưng có một chuyện buồn cười và cũng đáng suy nghĩ đó là chuyện tài xế xe khách vờ gọi trợ lý Thứ trưởng Bộ Công an để “dọa” Cảnh sát Giao Thông (CSGT). Sự việc xảy ra vào lúc 9g20 sáng 18-2 tại phường Đại Nài, TP Hà Tĩnh.
Bị tổ tuần tra CSGT Công an TP Hà Tĩnh buộc lỗi đậu xe không đúng nơi quy định, nhóm tài xế, lơ xe BKS 17B-00415 (từ Thái Bình) đã nhảy xuống xe chửi bới, một người còn vờ gọi điện thoại cho trợ lý Thứ trưởng Bộ Công an.
Cho rằng lực lượng CSGT kiểm tra không đúng quy trình, chức năng, toàn bộ lái xe, lơ xe gồm 4 người đã nhảy xuống lớn tiếng đôi co với CSGT. Trong khi số đông người dân đứng xem, tài xế và lơ xe ra sức mạt sát CSGT.
Đáng chú ý, khi tổ tuần tra đang yêu cầu chủ xe xuất trình các giấy tờ liên quan, một tài xế mặc áo đen tên Tám đã rút điện thoại di động gọi cho ai đó, rồi “dọa” tổ CSGT là vừa gọi cho trợ lý một thứ trưởng Bộ Công An. Trung tá Nguyễn Trường Kỷ, một nhân viên trong tổ CSGT Công An TP Hà Tĩnh, vặn hỏi gọi cho ai, tài xế Tám trả lời: “Tôi gọi cho anh Tân, trợ lý anh Trường, thứ trưởng Bộ Công An”. Ngay sau đó, tài xế Tám đưa máy điện thoại để Trung tá Kỷ nói chuyện với trợ lý thứ trưởng Bộ Công An.
Sau đó, tổ tuần tra CSGT Công An TP Hà Tĩnh chỉ xử phạt ở mức độ nhắc nhở rồi cho xe đi. Sau khi chiếc xe và tổ tuần tra CSGT đã đi khỏi, nhiều người dân bực bội trước thái độ hống hách, có tính côn đồ của nhóm tài xế xe khách 17B-00415 cũng như cách xử phạt “kỳ cục” của tổ tuần tra CSGT Công An TP Hà Tĩnh. Tại sao CSGT phải nghe điện thoại của anh lơ xe đưa cho. Ai cũng mặc, cứ theo luật mà làm.
Xác minh của PV báo Dân trí cho thấy, tài xế xe đã tạo dựng một cuộc gọi giả mạo để “dọa” tổ tuần tra CSGT bởi hiện nay, trong các thứ trưởng Bộ Công An không có ai tên là Trường.

Theo phản ảnh của người dân, câu chuyện lại khác:
- Bạn dungnguyen569@gmail.com viết:
Tui la người rất ít bình luận trên các bài báo, nhưng đọc xong bài báo này thấy... mắc cười vì 2 lý do: Thứ nhất về mặt công an, sau khi nghe điện thoại mà chỉ... xử lý nhắc nhở thì chắc chắn có vị quan chức ở đầu dây bên kia, theo tôi là chính xác. Thứ 2, bên báo chí điều tra rồi viết là không phải là số điện thoại của quan chức, tôi lại cảm thấy... buồn... cười. Dân đâu phải là những người chẳng biết gì cả.
- Bạn thaibinhbca@gmail.com chắc là dân Thái Bình nên biết rõ hơn:
Tôi tin người nghe điện là trợ lý thật, vì Thái Bình có người làm như vậy ở Bộ CA mà
- Bạn khoacao123698745@gmail.com gọi có nhận định sâu sắc hơn:
Đa số mấy vụ mạo danh người thân quen các quan chức cao cấp, theo tôi thấy toàn xảy ra ở phía Bắc. Lẽ nào “văn hóa dựa dẫm” theo kiểu “một người làm quan, cả họ được nhờ” đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người?
Nhìn lại thái độ “nhún nhường” của toán CSGT cho người ta thấy rõ là thái đô “nể sợ” thật sự trước những lời của cánh tài xế có quen biết ông thứ trưởng. Nhưng dù có ông thứ trưởng Trường hay không có ông Trường thì vẫn phải xử theo đúng pháp luật chứ sao lại “tha bổng” dễ dàng như thế. Hóa ra CSGT cũng biết “rét cóng” trước uy quyền xa tít mù tắp. Nếu gặp cánh tài xế không quen biết ông lớn nào, chắc chắn 100% là cánh tài xế xe này lãnh đủ. Đã vi phạm pháp luật còn hống hách chửi bới người đang thi hành công vụ thì “chết là cái chắc”. Đúng là một chuyện khôi hài đáng suy nghĩ. Thì ra lâu nay người ta vẫn sống với nhau bằng thân quen, quyền lực chứ không phải bằng pháp luật.

Xe công biển số xanh tấp nập đi lễ chùa
Cũng trong chuyện xe cộ, chuyện quan dùng xe công đi lễ chùa đã từng xảy ra từ nhiều năm trước, năm nay được nghiêm cấm cẩn thận. UBND TP Hà Nội đã yêu cầu xử lý nghiêm cán bộ, nhân viên dùng xe công đi lễ chùa. Nhưng cái sự nghiêm cấm đó không hề biết đến chữ “nghiêm” mà có khi còn “phát huy” mạnh mẽ hơn, tức là nó biến thành chữ “đùa”, tức là coi lệnh lạc như đùa nhau một tí thôi.
Trong tiết trời ấm áp đầu xuân, khi các lễ hội xa gần từ chùa Hương, chợ Viềng, Yên Tử, Phủ Giầy... đều tấp nập du khách trẩy hội, chắc là có nhiều quan ông quan bà đi lễ để cầu xin tài lộc năm nay gấp năm gấp 10 năm trước. Hãy lấy một địa điểm làm “điển hình” thôi. Ngày 19-2 (mùng 10 âm lịch), hàng loạt xe biển xanh (biển số của các cơ quan nhà nước) thuộc các tỉnh thành phía bắc... đã đổ về khu di tích Yên Tử (Quảng Ninh).
Theo quy định của ban tổ chức, những xe phục vụ lễ hội, xe ưu tiên, xe của đại biểu đều có phù hiệu riêng và được đậu xe ở gần khu vực lên nhà chờ cáp treo. Các xe khác của dân phải đậu ở nơi xa hơn.
Đã có rất nhiều xe biển xanh không thuộc diện khách mời từ các tỉnh đổ về Yên Tử. Trong đó có nhiều xe biển kiểm soát Hà Nội, xe công của TP Hải Phòng, của tỉnh Hòa Bình, Bắc Giang tấp nập đậu vào bãi.
Bạn Đặng Văn Cường cho biết trên tờ báo Dân Trí: “Năm nay tôi thấy các quan chức sử dụng xe công đi chúc tết nhiều hơn năm trước. Tôi không hiểu tại sao càng cấm lại càng nhiều ??? Bạn nghĩ xem còn gì tuyệt vời hơn làm công chức ở VN?”.
Đúng là thứ chuyện thật cứ như đùa.

Hai ông tỉnh đá nhau trước mũi thiên hạ
Còn những chuyện vặt như chuyện cấm đốt pháo cũng lại trở thành “vô ích” đối với một số địa phương. Trong đêm giao thừa, tiếng pháo nổ râm ran khắp các xã ở huyện Kim Thành (Hải Dương) khiến người dân đổ ra đường xem. Sáng mùng 1, trước cửa các gia đình trên quốc lộ 5 rải đầy xác pháo đỏ và trắng. Ngoài Hải Dương, một số địa phương khác cũng xảy ra tỉnh trạng đốt pháo và có người bị thương do đốt pháo nổ.
Tuy nhiên có một sự “tréo cẳng ngỗng” là tỉnh nói ít, huyện bảo nhiều! Vui hơn thế,
chánh văn phòng UBND tỉnh Hải Dương, cho biết, tỉnh đã báo cáo lên chính phủ không có hiện tượng đốt pháo. Nhưng sau đó, ông Nguyễn Mạnh Hiển, chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương, trong khi trả lời báo chí đã thừa nhận: “Việc đốt pháo trên địa bàn tỉnh là có thật”. Đồng thời, UBND một số huyện, thị xã ở Hải Dương như Ninh Giang, Gia Lộc, Kim Thành, Chí Linh đều xác nhận có để xảy ra tình trạng đốt pháo
Ông nói có, ông nói nói không, hai ông đầu tỉnh tỉnh đá nhau trước dư luận và chính phủ, giống y chang chuyện “ấm ớ hôi tề” xưa kia, phải không các cụ? Dân vừa buồn cười vừa phát sợ những báo cáo và phát ngôn của các quan to. Chẳng biết bao giờ nói thật, chẳng biết khi nào nói dối.

“Văn hóa ứng xử” chính là bộ mặt của từng người
Mới bước vào đầu năm, dư luận đã um sùm về vụ ông “đại biểu” quốc hội Hoàng Hữu Phước đã có những ngôn từ chỉ trích nặng nề những phát biểu của ông đại biểu Dương Trung Quốc.
Ở quốc hội nước nào cũng vậy, việc các ông dân biểu, nghị sĩ (ở VN gọi là đại biểu) có ý kiến trái ngược nhau là chuyện bình thường nhưng chì chiết, thóa mạ nhau một cách nặng nề như blog của đại biểu Phước thì rất ít khi xảy ra. Bởi đó là vấn đề khá nghiêm trọng trong “văn hóa ứng xử”. Người ta có thể chỉ trích, tranh luận về một vấn đề nào đó một cách thẳng thắn, tìm đến chân lý mang lại lợi ích cho dân cho nước.
Đó là văn hóa cần có của mỗi người, ngay trong đời thường, trong cách viết cũng vậy. Nhiều vị phát biểu những vấn đề rất gai góc trên nghị trường hoặc trên những bài báo, nhưng lời lẽ và ngôn từ rất chừng mực, tế nhị, có văn hóa. Việc có văn hóa trong ứng xử, phát ngôn, trong lời nói hoặc giao tiếp với nhau rất quan trọng dù là với bất cứ ai. Đó chính là bộ mặt thật của mỗi người. Cố tình bôi xấu nhục mạ người khác chính là bôi xấu mình trước. Các vị “đại biểu” cho dân càng cần phải ý thức được điều này trước khi tranh luận một ý kiến khác với “đồng nghiệp” của mình.

Hai ông nghị ngồi chung một hội trường “đá” nhau nặng quá
Trở lại với chuyện bài viết đăng trên blog của đại biểu quốc hội Hoàng Hữu Phước viết về “đại biểu” Dương Trung Quốc đã làm “kinh ngạc” dư luận những ngày đầu năm mới vừa qua, tôi chỉ xin trích lời của ông Lê Như Tiến, Phó Chủ Nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội nói về vấn đề này cũng tạm đầy đủ. Ông Tiến nói:
“Việc người viết dùng từ “đại ngu” để nói về người khác là một từ rất mạnh, ngay với những người bình thường, thậm chí những người có trình độ rất thấp cũng không dùng với nhau, không thiếu những cách nói khác để thể hiện. Vậy mà nói nặng nề kiểu “đại ngu”, “tứ đại ngu”, nói ngụ ý kiến thức của đồng nghiệp thấp, ít học thì hết sức không nên. Trong bài viết cũng rất nhiều từ ngữ khác mang tính chất thóa mạ như“loạn ngôn”, “hiếu chiến”, “háo thắng”, “bất tri vô trí”, loạn ngôn, loạn hành, loạn trí, “Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy”, “tự làm lộ cho toàn dân biết mình không biết ngoại ngữ trong khi bản thân là một nhà sử học”, “danh xưng nhà đĩ học bên cạnh nhà sử học”… là quá nặng nề, đến mức rất phản cảm. Không thể dùng những từ này để nói về một đại biểu quốc hội, một người đồng nghiệp với mình”.
Bạn đọc đã thấy ông đại biểu Hoàng Hữu Phước dùng những từ ngữ như thế nào để “hạ” ông Dương Trung Quốc. Đúng là “kinh khủng”, người dân muốn bịt mũi lại trước những lời lẽ “bẩn” hơn cả “bẩn”. Tôi chưa nói ông Dương Trung Quốc giỏi hay không giỏi và phản ứng của ông Quốc ra sao, nhưng ít ra ông ta cũng ngồi chung ghế một hội trường với ông Phước từ vài năm nay. Người dân nghĩ thế nào đây về cái “mái nhà chung” ấy đây? Câu hỏi thật khó trả lời. Nhờ bạn đọc mách giùm.
Còn vô số chuyện vui kiểu “ấm ớ hội tề” như thế này về những ngày đầu xuân ở VN. Nhưng bài đã khá dài, xin để kỳ sau bàn tiếp.


Văn Quang 22-2-2013

Lương Thư Trung * Nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm: một thời khai phá và những người đồng hành

-Tên thật : Ngô Tấn Thiền
-Sinh ngày 12/08/1944 tại Châu Đốc (Thất Sơn- Nam Việt)
-Tốt nghiệp Đại Học Dược Khoa Sài Gòn.
-Thơ văn được giới thiệu trên nhiều tạp chí văn chương trong và ngoài nước.
-Đã xuất bản riêng 14 tác phẩm, không kể có mặt trong hơn 40 tác phẩm chung với bạn hữu.
-Chủ trương tạp chí và nhà xuất bản Khai Phá trước 1975.
-Hiện đang sống và viết tại Thư trang Quang Hạnh, Sài Gòn.

Monday, February 25, 2013

phan bá thụy dương * thõng tay theo gió



nước sông trôi mãi bao giờ mỏi
ta có còn gì để luyến mong?
sắc diện bơ phờ râu tóc bạc
lửng thửng rong chơi cõi tang bồng

đôi khi chạnh thấy lòng xa vắng
một vạt nắng hồng - một áng mây
cũng đủ cho hồn êm ấm lại
giữa phút mê cuồng, giữa cuộc say

           núi cao lũng thấp rừng hoang phế
           quanh quẩn xuống lên –
           quanh quẩn ra vào
           hỡi ai ngơ ngác bên bờ suối
           sao nhặt trăng tàn ướp cỏ đau?

           trong chốn mơ hồ u tịch đó
           thoảng nghe dìu dặt tiếng tiêu buông
           thõng tay theo gió theo mưa lũ
           tâm trụ an nhiên, mộng bình thường.



Ngô Nguyên Nghiễm * Vũ Hữu Định, Đường Gian Nan Chạy Suốt Kiếp Người


Bóng dáng của Vũ Hữu Định như một con ngựa hoang, ngày tháng chất chồng trên vó ngược mà chính bản thân chủ nhân cũng không lường trước được phương hướng để định vị cuộc đời trước mặt.

Saturday, February 23, 2013

Đinh Hùng * Khuôn Ngọc Pha Sương



Đã lắng vào đêm hơi thở say,
Trời xanh hạ thấp xuống vai này.
Ôi bờ vai nhỏ xuân vừa dậy!
Ngọc ẩm hoa quỳnh ý ngón tay.
Anh hỏi ngàn sao trong mắt em,
Hàng mi trinh nữ vội buông rèm.
Hồn đau lưu lạc đêm rừng tóc
Sương khói biên thùy hay trái tim.

 
Nguyệt thẹn hàm răng nét ngọc kiều,
Kề môi nghe biển rộng cô liêu
Mây vương mười ngón tay mê ngủ
Cung bậc làn da, lụa thủy triều.

 
Động giấc hoa đêm, lẩn dáng người
Nghìn xưa vầng trán ấy sao rơi
Mưa sương ánh mắt khung trời lạ
Nửa mặt huyền vi sáng nụ cười.

 
Chớp mắt xuân thu động gót giày,
Vành mây còn rộng lối hương bay,
Bàn chân thôi cũng tan thành bướm
Xô lệch không gian một nét mày.

 
Tay nhỏ thu hình cả giấc mê
Anh xoay chiều núi đón em về
Rừng trầm biển động hơi em thở
Huyền hoặc thời gian một nét mi. 

 
Tiếng hát pha sương chìm mặt ngọc
Điệu buồn áo tím, mưa đêm xanh.
Nhớ nhau mây trắng bay đầy gối
Em có là mây? Em của anh. 

 

Friday, February 22, 2013

Trần Kiêm Đoàn * Năm mới thiền với cái loa

Đây thôn Liễu Hạ. Quê tôi bên cạnh sông Bồ.

Có những cặp loa truyền thanh công cộng làm việc bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông… Xuân. Sáng sớm từ 5 giờ sáng đến 6 giờ 30. Tối từ 5 gờ 30 đến 7 giờ tối. Hệ thống loa mới hiện đại không dây, âm thanh tuyệt hảo nghe rõ mồn một như xé tai nhét vào. Hai cái loa bắt ngay trên nóc cột điện phía trước nhà tôi ở xóm Kên. Mỗi lần phát thanh thì cả xóm không còn nghe tiếng gà kêu, chó sủa… Người trong nhà nói với nhau phải ra dấu bằng tay vì tiếng loa chan chát ở bên tai.
Có một thuở trên quê tôi cần đến cái loa vì trong làng chỉ có dăm ba nhà kha khá mới sắm nổi cái “đài” nghe riêng. Nhưng hôm nay đang có máy truyền hình, máy truyền thanh băng dĩa, mạng truyền thông internet… thế mà những cái loa công cộng vẫn sống mạnh, sống hùng như xe thời gian và trục địa cầu chưa hề chuyển bánh.
Cách 30 năm tôi mới về quê ăn Tết. Đang hưởng hạnh phúc nghe cháu nhỏ ríu rít chuyện quê mình thì thình lình tiếng loa ré lên như muốn bứt phá không gian tĩnh lặng của một làng quê bao quanh với những đồng lúa. Người làng tôi như chú Điền* thì gọi là “đài dói” – kêu không nghe thì phải dói – để làm mốc thời gian cho giờ hẹn: “Cháu sẽ gặp chú ở cổng làng để đi bộ thể dục khi ‘đài dói’ nghe.” Nghĩa là chúng tôi sẽ gặp nhau lúc 5 giờ sáng! Có một thuở, khi nghề nông đi vào hợp tác xã, người xã viên thức dậy cùng với tiếng loa đầu tiên để ra đồng làm việc. Người nông dân vất vả làm việc nhưng số lúa gạo được chia từng mùa vẫn không đủ ăn. Trên quê tôi, tình trạng thiếu ăn, đói miếng đã vượt qua nhờ giống lúa mới từ miền Nam ra, có sản lượng gấp ba bốn lần giống lúa cũ và phương thức canh tác nông trường tập thể kiểu Tàu đã được chuyển qua lối canh tác tư nhân. Nhưng cái biểu tượng “đài dói – đói dài” vẫn còn tại thế! Nhân loại xưa nay vẫn lao đao vì hai đối cực khủng hoảng: Khủng hoảng thừa và khủng hoảng thiếu. Khủng hoảng thiếu của âm thanh làm cho con người đối diện với hư vô; khủng hoảng thừa âm thanh cũng làm cho lòng người điên đảo.
Căn gác ngôi nhà thừa tự của chúng tôi đối diện với miệng loa mở rộng. Chiếc loa tròn vành vạnh với cục cồi ở giữa, trong bóng tối nửa vời trông như miệng thầy pháp đọc bùa chú trừ ma ếm quỷ. Những ngày đầu, tôi muốn điên lên vì sự khuấy động dai dẳng thành bức xúc. Tôi cố gắng bưng tai, rồi nhét bông vào tai. Nhưng được năm ba bữa thì tiếng loa như chui vào mũi, vào miệng mà phát ra. Sớm sớm, thú tiêu khiển của tôi là uống nước trà và ngồi định tâm từ khi trời chưa sáng. Và buổi chiều, thật là êm đềm và hạnh phúc khi được quây quần ăn cơm chiều cùng gia đình với những câu chuyện vui buồn trong ngày được tuổi trẻ và tuổi già kể cho nhau nghe trong tiếng cười dòn tan. Bây giờ tiếng loa giúp cho bữa ăn nhanh hơn vì mọi người chỉ có việc ăn với tiếng loa đầy mâm cơm, chẳng ai nói với nhau lời nào vì tiếng loa to hơn tiếng nói. Suốt bữa cơm gia đình, chỉ còn biết nói với nhau bằng mắt, bằng tay cho đến cuối bữa rồi buông đũa và ai lo việc nấy. Tôi được cái lợi là dù mưa hay nắng cũng bắt đầu vội vàng đi bộ trên những con đường làng và những cánh đồng vắng thoát ra ngoài âm hưởng của tiếng loa. Nhưng sớm và tối đi bộ đến 3 giờ đồng hồ ở tuổi về hưu thì chân khổ hơn tai. Đi được vài ba ngày thì chân sưng lên vì vận động quá mức bình thường. Thà để tai chịu trận vẫn dễ chịu hơn là khớp xương chân đau nhức.
Suốt hai tuần đi bộ siêng năng như chiếc loa phát hoài không mõi nản. Tôi quyết định ngồi lỳ ở nhà. Trước thì chỉ ngồi định tâm nhưng bây giờ thì phải ngồi “thiền” thật sự. Ba ngày đầu, tôi muốn bỏ cuộc. Âm thanh có khi cũng nhồi lên, lượn xuống đánh vào bờ tai như đi thuyền nan gặp sóng lớn. Trong tôi, bắt đầu xuất hiện hai nhân vật: Động và Tĩnh từ một góc khuất nào đó lên tiếng.
Động nói:
- Thế nầy là quá lắm! Mỗi ngày chỉ có hai buổi sinh hoạt chính cho gia đình trong ngày mà đã mất 3 giờ nghe “đài dói” rồi thì ý nghĩa đời sống thường nhật thành ra lao đao và vô vị quá.
Tĩnh nói:
- Biển cả luôn luôn gầm thét mà hải đảo vẫn im lìm mới chung sống hòa hợp với nhau từ thuở khai thiên lập địa đến bây giờ; đó là cái lý của trời đất. Cảnh động làm tâm động theo; đó là cái lý của phàm nhân. Đài dói mà lòng ta vẫn tĩnh; đó là cái lý của hành giả.
Hmm… không biết ông “hành giả” ấy là ai mà chảnh chọe đến thế. Ban đầu, tôi ghét cái anh Tĩnh. Tôi ước chi nắm được anh ta để sớm sớm, chiều chiều bắt ngồi trước mặt nhà tôi mà nghe loa cho bớt “chảnh”. Nhưng khổ nỗi, tôi càng cố tìm thì anh ta càng mất hút. Những lúc ngồi định tâm theo lối… thiền tọa, cái tâm niệm của tôi bị vướng vào cuộc truy đuổi không ngừng nghỉ về anh Tĩnh mà tôi cho là gàn bướng ấy khiến tôi lơi dần cuộc đối kháng thầm lặng giữa mình và cái loa huyên náo. Cái loa cứ phát ra rả, tôi càng lắng nghe rõ hơn lời anh Tĩnh. Tôi suy nghĩ về Như Lai – về Tathàgata – là bậc thấy rõ tường tận sự thật của vạn pháp nên không đến, không đi, không bị đời uế nhiễm. Tôi nhớ lời Lục Tổ “như thị, như thị”; thấy vậy là vậy, tự nhiên như nhiên. Tất cả đều vốn có như thế nên chẳng từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu. Cái loa là cái loa. Nó được làm ra để phát ra tiếng động. Như tôi sinh ra làm người, có hai tai để nghe, có cái miệng để nói. Ghét cái loa cũng như ghét khẩu súng. Khẩu súng đâu phải là kẻ sát nhân, cái đàn không phải là nhạc sĩ, lời kinh đâu phải sự giác ngộ mà tất cả chỉ là phương tiện lành hay dữ đưa đến bờ thiện, ác. Nhưng cứu cánh đã nằm sẵn trong phương tiện và ngược lại. Không thể nào dùng tâm độc ác để thành tựu yêu thương hay nói lời dối trá để làm người trung thực. Khẩu “xà” không bao giờ đến từ tâm “Phật” và đã là tâm “Phật’ thì không thể có khẩu “xà”!
Đêm Giao Thừa năm Quý Tỵ 2013 là một thời điểm thật khó khăn cho tôi. Cái loa mở hết tốc độ từ 5 giờ chiều đến quá Giao Thừa. Trước bàn thờ hương chong đèn rạng giữa thời khắc thiêng liêng nhất trong năm, tôi nghĩ mình khó lòng mà tập trung được tâm thành để nói lời khấn nguyện. Trong năm cảm xúc thuộc lý tính và cảm tính là tiếng động, mùi hương…vị, xúc, pháp thì tiếng “đài dói” đã lấy đi gần hết thảy. Âm thanh bùng lên giữa thời khắc cần lắng đọng sẽ làm uế nhiễm khả năng thẩm thấu mùi nhang trầm thanh thoát, vị ngọt ngào của quê hương, cảm giác êm đềm trong không gian quê mẹ và khung cảnh trầm lắng giữa phút Giao Thừa.
Rồi cũng đến giờ tiễn năm cũ mừng năm mới. Trong phút Giao Thừa tống cựu nghinh tân ấy, trước bàn thờ nghi ngút khói hương, tôi mặc áo dài khăn đóng, kính cẩn đánh một hồi chuông. Tuy tiếng chuông nhỏ như hơi thở khói sương trong âm thanh náo động của tiếng loa; nhưng thật lạ lùng, âm thanh nhỏ bé và sâu lắng đó đã nói lên một sự thật lặng im: Ta là ta, đến cũng là đi; tiếp cận với tất cả nhưng cũng chẳng hề dính mắc vào đâu cả. Tôi lắng mình dõi theo tiếng chuông Giao Thừa thanh thoát và quên đi tạp âm của tiếng loa, tiếng máy xe hay tiếng gọi bầy đàn của vạn vật đang mang mùa Xuân qua ngõ đời đầy vọng tưởng.
Đứng một mình trên sân thượng của ngôi nhà thừa tự, nhìn pháo hoa đón Năm Mới bừng lên rực rỡ trên bầu trời xứ Huế, tôi liên tưởng đến hỉnh ảnh tương tự trên bầu trời Cal-Expo của thành phố thủ phủ Sacramento, tiểu bang California – nơi tôi đã sống ba mươi năm – để cảm thấy thế giới nầy đang nhỏ lại. Nhỏ hay lớn chỉ là một khái niệm tương đối. Nhỏ lại như một Lỗ Đen; rồi một ngày nào đó sau tiếng nổ Big Bang sẽ sinh ra một vũ trụ vô biên. Quê tôi cách nơi tôi sinh sống mười bảy giờ bay, nhưng khi nhớ thương thì hai nơi thành một, nhưng khi chán ghét thì rất dễ trở thành “vô gia cư” trong chính căn nhà thừa tự của mình.
Sau Giao Thừa, tiếng loa im bặt. Có những âm thanh và dòng nước trôi đi không bao giờ trở lại và cũng chẳng còn ai nhớ, ai quên. Nhưng trong lòng tôi, dư âm của tiếng chuông vẫn còn ngân nga như lộc Xuân trên chậu mai vàng vừa hé nở cánh hoa đầu tiên.

Liễu Hạ thôn, một ngày đầu Xuân 2013  
Trần Kiêm Đoàn