|
November.2012
|
|
Bạn
ở trên Bắc Mỹ, than: trời lạnh quá chừng! Mình hồi
âm: mùa Đông / ở đây cũng lạnh lắm… Mùa
Đông dù ngày nắng / trời cũng lạnh như đêm. Chuyện
vãn có nói thêm…thì chung quy là lạnh!
“Lạnh,
người ta không tránh / vì người có tình người”.
Bạn tôi nghe, bật cười: “Nên mình ở đây mãi!”. Bạn
nói nghe rất phải, cũng giống như tôi thôi – đây là
chỗ khó rời / khi đã quen đất, nước…
Quen
con đường mình bước, quen góc phố từng qua…Quen cả
tiếng người ta / dẫu là chào buổi sáng! Nhớ
ngày nao, thật chán / bạn cùng cảnh, im khe. Non nước
thì bộn bề, tâm tình thì cạn máu!
Nếu
nói thì nói láo - “Dạ thưa phấn khởi nhiều!”.
Ghét thì phải nói yêu – “Không ai ngoài Cách Mạng”.
Thôi
thì thà im lặng, ngay cả lúc từ ly…, bỏ Cha Mẹ ra
đi, cũng không nghe tiếng khóc! Bạn
nhau thời xanh tóc / bây giờ đầu tuyết sương / hai
đứa ở hai phương / hỏi thăm nhau…thời tiết!
Hỏi
thăm nhau và biết / còn sống vậy…Trời ơi! Đêm
Thiên Chúa ra đời, lạnh, cái phone cũng lạnh! Ngồi
nhìn sao lấp lánh, thả khói thuốc bâng khuâng. Thương
quá Chúa, đêm Đông, sinh ra từ máng cỏ!
Trần
Vấn Lệ
|
Gần nghìn năm trước,
trăng và người gần nhau. Trăng mọc biển Đông, trăng
lặn non Đoài. Khoa học kỹ thuật của nhân loại chưa
đủ bản lĩnh để chen chân khuấy động vầng trăng
trong đáy giếng tâm thức của con người. Sơn tăng Lý
Khuê Báo ở trên núi Hàn Sơn Vọng Nguyệt xứ Triều
Tiên, tịnh tu lạc đạo với trăng thanh và mây trắng
suốt bảy mươi năm chưa hề xuống núi.
Có một năm xứ Đại
Hàn tuyết phủ suốt mùa Đông. Trăng không mọc, tuyết
không tan sau thành lũy mây trắng chập chùng trên đỉnh
núi. Vầng trăng nội chiếu trong lòng sơn tăng phai dần
và sắp lặn. Sơn Tăng ôm bình xuống núi tìm một vầng
trăng. Trăng soi đáy giếng – Tĩnh Trung Nguyệt – là
vầng trăng thường hằng mọc và lặn trong lòng người
nhận ra tâm mình cũng là trăng một thể; thật mà ảo
như bóng trăng đáy giếng. Bất chấp mây che, tuyết
phủ, vầng trăng nguyên thủy có bao giờ mọc hay lặn
nơi đâu trong lòng nhân thế. Lên núi, trăng lại về
như hoa đạo bừng nở trong cõi tĩnh lặng muôn đời.
Sơn Tăng dùng nội nhiệt dâng trào như điện chớp
tuôn trào ra đầu ngón tay để viết bài thơ trên
tuyết. Nắng ấm lên. Tuyết tan. Nhưng bài thơ đã hằn
sâu trên đá nay vẫn còn in dấu trên Hàn Sơn Vọng
Nguyệt.
Tĩnh
trung nguyệt
Sơn tăng bần nguyệt sắc Tịnh cấp nhất bình trung Đáo tự phương ứng giác Bình khuynh nguyệt diệc không I Gyu Bo (Lý Khuê Báo 1168-1241 ) Ánh trăng dưới giếng Nhà sư xuống núi tìm trăng Múc trăng đáy nước cất trăng vào bình Về chùa một lúc chợt quên Bình nghiêng còn biết đâu tìm dấu trăng Quỳnh Chi phỏng dịch ( 24/9/2010)
*****
Kẻ hậu thế nghìn năm sau…
Nhắn với sơn tăng
Bụi trần in dấu sơn tăng,
Cất công xuống núi tìm
trăng là mình.
Dấu trăng vẫn ở trong bình,
Soi gương thì lại thấy mình
trong gương.
|
Tháng Bảy
mưa ngâu, gợi chúng ta nhớ lại chuyện Ngưu Lan Chức
Nữ chuyện tình đẹp lãng mạn, nhưng đời sống hôn
nhân của họ bị sông Ngân Hà ngăn cách đôi bờ, hàng
năm chỉ gặp nhau một lần qua nhịp cầu Ô thước; ca
dao còn lưu truyền trong dân gian:
Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền Nhớ ai như vợ chồng Ngâu Một năm mới gặp mặt nhau một lần.. Tháng bảy là tháng mưa Ngâu Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Chuyện
trên trời là vậy, còn chuyện thế gian thì nhiều vô
số. Biến cố lịch sử chia đôi Nam-Bắc năm 1954 dòng
sông Bến Hải có cầu Hiền Lương đã ngăn cách giữa
hai miền! Đến 21 năm sau, dù được nối liền nhưng
tình người ngăn cách!
Năm 1975
dù đất nước thống nhất, nhưng đã xảy ra nhiều
chuyện tang thương, ly tán…nhiều gia đình bị đánh
tư sản đuổi đi vùng kinh tế mới …vợ chồng, cha
mẹ, anh em mỗi người một phương trời, phần lớn Sĩ
quan, Công chức làm việc dưới chế độ VNCH, kể cả
tu sĩ đều bị nhà cầm quyền CS tập trung vào trại
cải tạo…vợ mất chồng, con mất cha, gia đình tan
nát…Những người may mắn chạy thoát trước khi miền
Nam bị thất thủ, vì hoàn cảnh bỏ vợ con, cha mẹ
già ở lại trong mong nhớ đợi chờ …
Từ 30.
4.1975, nước mắt của người dân miền Nam có thể
nhiều hơn mưa ngâu tháng bảy. Nhiều người vợ ở
nhà phải đảm đang, gánh vác nuôi con, thay chồng phụng
dưỡng cha mẹ già, dành dụm tiền bạc mang quà đi
thăm chồng, vất vả xin giấy phép tìm đến trại cải
tạo, bị cán bộ quản giáo lạnh lùng canh gác nghe
ngóng chuyện nhà, thân nhân tới thăm nhìn nhau trong nức
nở nghẹn ngào … Tháng bảy mưa Ngâu cũng là tháng
của xá tội vong thân, lễ Vu Lan báo hiếu và vinh danh
mẹ hiền, người với niềm vui cài hoa hồng đỏ khi
còn Mẹ, hoa hồng trắng tưởng nhớ Mẹ đã qua đời.
Tôi không thể quên buổi chiều mưa ngày xưa đường
xa lặn lội Mẹ đến thăm tôi trong trại cải tạo sau
mấy năm xa cách. Mẹ ôm tôi khóc thật nhiều, tình
thương của Mẹ như biển rộng bao la, Mẹ con gặp nhau
chưa nói hết chuyện nhà, thì cán bộ ra lệnh „hết
giờ thăm“.
Mẹ ra về
mang theo thương nhớ lo âu, nhìn theo Mẹ tôi nghẹn ngào
nước mắt lưng tròng…. Tôi ra trường làm công chức
của VNCH thời gian thâm niên 8 tháng, nhưng phải trả
giá quá đắt với hơn 3 năm trong trại cải tạo gian
khổ! Ngày được trả tự do, về nhà bị quản chế
không có quyền công dân, mỗi tuần phải trình diện
Công an phường. Nhà cầm quyền địa phương gọi đi
thủy lợi, hăm dọa đuổi đi vùng kinh tế mới…Mẹ
tôi thao thức nhiều đêm không ngủ, sau đó cho tôi mấy
cây vàng và bảo:
- Con cầm
lấy tìm đường vượt biên, thế hệ con không thể
sống với chế độ mới…
Tôi ra
đi, may mắn đến được bến bờ tự do. Sau hơn 30 năm
xa cách, ngày trở về thăm lại cố hương với vợ con
thì mái tóc bạc màu, Cha Mẹ đã ra người thiên cổ,
chúng tôi qùy trước mộ Ông bà, Cha mẹ đốt nén
nhang tưởng nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục…
Hàng năm ở Đức cũng như các nước Tây Phương tổ
chức ngày vinh danh Mẹ Mother´s day, ngày của Cha
Father´s Day. Báo chí với những bài viết về Mẹ rất
thiết tha, những nhạc phẩm ca tụng Mẹ tuyệt vời….
Hai ngày đó những cha mẹ còn sống con cháu về chúc
mừng.. trong Thánh kinh cựu ước và tân ước đều có
rất nhiều đoạn nói đến lòng hiếu thảo đối với
Cha Mẹ, đến nhà thờ nghe thánh ca cầu cho Cha Mẹ.
„Xin Chúa chúc lành cho đời cha mẹ con. Công ơn Người
như núi non, dưỡng nuôi con bao ngày vuông tròn…Ai qua
là bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà. Mai con
lớn lên rồi, ra đi tung cánh trong đời, dầu xa vô bờ,
vẫn nhớ đến tình Mẹ…..“
Đời
sống ở Sài Gòn ngày nay bon chen chạy đua theo vật
chất, thị trường…Nhưng người ta vẫn giữ phong tục
rằm tháng Bảy cúng cô hồn, cho những linh hồn lang
thang không người thờ cúng
“Dấu
người thập loại biết là đâu
Hồn phách mơ màng trải mấy thu Cồn biển nghinh ngang bầu thế giới Những mồ vô chủ thấy mà đau..“
Theo phong
tục ở Việt Nam tối Rằm tháng Bảy trước sân, người
ta cúng bánh kẹo, chuối, trái cây…mùi nhang thơm
thoang thoảng bay xa. Đám trẻ tinh nghịch trong xóm đến
đứng chờ ngoài ngõ mong nhận được bánh, trái cây…
đôi khi gia chủ đang qùy lạy khấn vái, đám trẻ „cô
hồn“ lợi dụng cơ hội tới cướp xôi bánh chạy
nhanh! Chùa tổ chức lễ Vu Lan còn gọi là lễ Xá tội
vong nhân Sinh hoạt của Phật Giáo cũng có một vài
khác biệt, Phật giáo Bắc Tông (Ðại Thừa) tổ chức
lễ Vu Lan; nhưng Phật Giáo Nam Tông thì không.
Lễ Vu
Lan khởi thủy tại Ấn Ðộ, đạo Phật truyền vào
Trung Hoa, Ðại Hàn, Ðài Loan, Việt Nam, Nhật Bản.
Ngoài các quốc gia ảnh hưởng Phật giáo Nam Tông như:
Miến Ðiện, Thái Lan, Cam Bốt, Lào, Nam Dương.. mỗi
ngày ăn hai buổi, 6 giờ sáng và 11 giờ trưa, theo lối
khất thực, Phái Nam Tông họ không ăn tối, nhưng được
phép ăn mặn, không tổ chức lễ Vu Lan. Danh từ Vu Lan
nguồn gốc từ tiếng Phạn Sanskrit “ullambana,” được
dịch là Vu Lan Bồn. Ullam theo Hán tự có nghiã là đảo
huyền, treo ngược. Người Việt gọi là lễ Vu Lan,
nghiã là giải thoát những khổ đau, cởi bỏ những
nghiệp chướng của con người ở thế gian…. Số
người theo Phật giáo đứng thứ 3 trên thế giới
khoảng 1,2 tỉ (Kitô Giáo nói chung thờ Chúa là 2,1 tỉ;
Hồi giáo 1,3 tỉ)….
Trong kinh
Phật dẫn chứng trường hợp của Ông Mandgalyayana theo
Sanskrit; Moggallana, Pali; tiếng Hán phiên là Mục Kiền
Liên, đọc tắt là Mục Liên, còn gọi là Ðại Mục
Kiền Liên, quy y theo Phật là người đệ tử “thần
thông bậc nhất.” đắc đạo, trở thành La hán, ông
có thể nhìn thấy dưới địa ngục và đã thấy mẹ
là bà Thanh Đề bị hình phạt, vì kiếp trước bà mẹ
làm nhiều việc ác. Ông xuống điạ ngục lấy bình
bát đựng cơm dâng mẹ. Bà Thanh Đề cầm lấy ăn, tức
thời cơm hóa ra lửa hồng…không thể ăn được. Ông
đau đớn đến trình đức Phật, được Phật dạy là
bà mẹ của ông kiếp trước gây nghiệp chướng tội
lỗi, phải chờ đến ngày Rằm tháng Bảy, làm đại
lễ mời Phật và tăng giới mười phương, cùng tụng
kinh cầu nguyện phù trợ, mới có thể giúp mẹ ông
giải tội. Ông Mandgalyayana làm đúng theo lời Phật
dạy, và mẹ của ông được siêu thoát. Tín đồ Phật
giáo noi theo gương Mục Kiền Liên và từ đó lễ Vu
Lan đi vào nghi lễ Phật Giáo Bắc Tông, lưu truyền cho
tới ngày nay. Rằm tháng bảy cầu cho Cha Mẹ Tổ Tiên
của chúng sinh, nếu con cái hiếu thảo biết dâng lễ
Vu Lan cầu xin chuộc tội, cũng sẽ được xóa tội
vong thân….(theo Wikipedia)
Trước
năm 1975, các ngày lễ lớn của Phật Giáo như Phật
Đản, Vu Lan thường được treo cờ, tổ chức đại lễ
lớn có xe hoa lộng lẫy. Chùa Ấn Quang một thời làm
sóng gió của phong trào tranh đấu Phật Giáo với chính
quyền miền Nam, Họ từng nhân danh đấu tranh cho Đạo
Pháp không biết họ ở đâu bây giờ? „dấu xưa xe
ngưạ hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch
dương“. Chỉ còn tiếng nói của Đệ Ngũ Tăng Thống
Thích Quảng Độ ở Thanh Minh Thiền Viện luôn tranh đấu
bảo vệ cho Đạo Pháp có từ trước 1975 đó là „Giáo
Hội Phật Giáo VN Thống Nhất“ sau 1975 bị xóa tên,
ngày nay chỉ có Giáo Hội Phật Giáo VN “quốc doanh“
mà thôi.
Trong nước
các ngày lễ lớn, tổ chức đúng ngày tháng theo Âm
lịch, nhưng ở hải ngoại thường chọn ngày cuối
tuần, vì trong tuần mọi người phải đi làm việc.
Sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng người Việt tỵ
nạn khắp nơi trên thế giới, luôn phát huy và trường
tồn, mang bản sắc văn hoá Việt Nam hoàn toàn độc
lập và tự do. Người Việt hải ngoại đã đóng góp
nhiều về việc từ thiện, gởi tiền về giúp tu sửa
Chùa, nhà Thờ bên quê nhà.
Theo dư
luận lệnh của nhà nước đi tu phải „đẹp đạo
tốt đời„ dù xuất gia đi tu, nhưng vẫn bị sự quản
lý của công an và nhà nước…Vấn đề nầy khác
trước 1975 ai muốn tu thì vào Chùa, Chùa có sinh hoạt
độc lập và được tôn trọng trong khuôn viên của
Chùa, Cảnh sát không được bước vào kiểm soát!
Giáo
Hội tự trị có nhiều cơ sở văn hóa riêng, nhà trẻ,
trường Trung và Đại học…Sau 37 năm Việt Nam hòa
bình, nhìn bề ngoài kinh tế phát triển, nhưng dân trí
chưa tiến bộ, còn những tệ nạn đáng buồn! con gái
nhà quê bị rao bán làm nô lệ, xuất cảng lao động
v.v..Tham nhũng hối lộ, biển thủ từ trên xuống dưới,
hiện tượng kinh doanh vô trách nhiệm „ai chết mặc
ai tiền thầy bỏ túi“ như: Vinaline, Vinashin, Điện
lực… vở nợ, nợ nần chồng chất đến đời con
cháu trả chưa xong…Môi trường sông nước bị ô
nhiễm trầm trọng, đời sống thành phố và thôn quê
chênh lệch, người ta bỏ vùng nông thôn về thành phố.
Sài Gòn tăng khoảng 9 hay 10 triệu người, những dòng
kinh nước đen bốc mùi hôi thối, đường phố không
có nhà vệ sinh công cộng… Nhà thờ Đức Bà theo lịch
sử hơn 300 năm, nhưng phiá sau tường bị xâm thực,
đổi màu vì người ta quên sự trang nghiêm của Giáo
Đường làm nơi ấy để đi tiểu dù có bảng „cấm
đái bậy“. Thế kỷ thứ 21 mà Việt Nam vẫn còn ở
trình trạng của các nước chậm tiến, thiếu văn hóa…
Tháng bảy
mưa ngâu, thời tiết vẫn như vậy, nhưng đời sống
xã hội không thay đổi theo văn minh của nhân loại,
không có tự do, dân chủ thì con người vẫn ở cuối
giòng sông nước đục. Cuộc sống của người dân chỉ
lo miếng cơm manh áo, bon chen đói khổ và tình người
trở nên nghi ngờ, thiếu chân thật… Hình ảnh quê
hương rất đẹp nên lâu năm sống ở hải ngoại ai
cũng muốn một lần về viếng mộ, xây nhà thờ Tộc
để đáp lại một phần công ơn cha mẹ, tổ tiên…
Đối diện với cuộc sống hơn 30 năm Xã Hội Chủ
Nghiã khá nhiều „đổi thay“…giả từ Việt Nam
chúng ta mỗi người đều mang theo một nỗi buồn nào
đó len lõi vào hồn. Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam
ra lệnh cho công an thẳng tay đàn áp, bỏ tù những
người dân yêu nước biểu tình chống ngoại xâm. Yêu
nước chống giặc là truyền thống lâu đời của dân
tộc Việt Nam. Người Việt ở hải ngoại, không phân
biệt Tôn giáo, Đảng phái trong thời gian qua xuống
đường biểu tình, khắp nơi trên thế giới chống
việc xâm lăng của Trung cộng cũng vì lòng yêu nước
hướng về cố quốc.
Mùa xá
tội vong thân, cầu mong cho dân tộc Việt Nam cởi bỏ
bớt nghiệp chướng và nhà cầm quyền CSVN sớm ý thức
để nhìn lại bài học mất nước của dân tộc Chiêm
Thành, vì các vua Chiêm ăn chơi quên việc nước, nhà
thơ Chế Lan Viên khóc thương cho cảnh suy tàn đổ nát
và niềm luyến tiếc một thời vang bóng xưa của dân
tộc Chiêm Thành qua tập thơ Điêu tàn:
Rồi
cả một thời xưa tan tác đổ
Dấu oai linh hùng vĩ thấy gì đâu? thời gian chảy, đá mòn, sông núi lở Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau..
Mọi
người phải ý thức kẻ thù của dân tộc Việt Nam là
bọn CS Bắc Kinh chủ trương xâm lấn lãnh thổ và lãnh
hải Việt Nam, chống giặc và chống cả bọn bán nước
cầu vinh, phải tẩy chay hàng hóa, thực phẩm độc hại
từ Tàu đang giết dần mòn dân tộc chúng ta.
—————————————————–
Chú thích:
1/ Ngày xưa ngày xưa có
nàng Chức Nữ là con gái yêu của Thiên Vương, Nàng
thường ngồi bên bờ sông Ngân dệt vải may áo cho các
em. Ngày kia một chàng trai dắt trâu đến bờ sông,
chàng tên là Ngưu Lang đẹp trai thấy nàng chàng liền
si mê. Riêng nàng cũng yêu thương chàng .Thiên Vương
hiểu được mối tình của hai người nên đã ưng
thuận cho Chức Nữ và Ngưu Lang kết duyên vợ chồng.
Nhưng họ phải lo tiếp tục công việc sau khi cưới
nhau, hai người sống rất hạnh phúc. Tuy nhiên suốt
ngày bên nhau cho nên đã chểnh mãng công việc Thiên
Vương giao, khung cửi bỏ không, đàn trâu gầy đói.
Thiên Vương giận dữ đầy cả hai xuống bờ sông
Ngâu, nhưng bắt mỗi người ở một bên bờ. Mỗi năm
Trời chỉ cho hai người gặp nhau một lần vào ngày 1
tháng 7 Âm lịch. Vào ngày ấy, bao giờ cũng mưa dầm
dề, đó là nước mắt của cả Ngưu Lang lẫn Chức
Nữ. Nhân dân gọi đó là mưa Ngâu. Những vợ chồng
trẻ vì nhiệm vụ hay vì một hoàn cảnh nào đó mà
luôn phải xa cách nhau thường được ví “như vợ
chồng Ngâu”.
|