Nhân dịp Hội ngộ Liên Trường Quảng Nam - Ðà Nẵng vào đầu tháng 9 năm 2007 vừa qua tại Little Saigon, gặp lại bạn bè, nói chuyện thơ văn quê nhà, có đề cập đến nhà văn Cung Tích Biền.
Cuộc phỏng vấn của Lý Ðợi được phổ biến trên trang web Talawas vào tháng 2 năm 2007, những điều Cung Tích Biền bộc bạch nói lên những điều uất khuất và rõ ràng, giải tỏa được phần nào những điều ngộ nhận trước kia và có sự cảm thông hoàn cảnh trớ trêu của anh. Tôi nói, trong giai đoạn đổi cả chế độ, đổi đời, hỗn mang... nhiều người cùng cảnh ngộ nghiệt ngã và cũng có trường hợp như nhà văn “cùng tất biến” nhưng cần nhận chân đâu là sự thật. Trong giới văn nghệ và báo chí, có bạn có thù, kẻ ưa người ghét, những gì nghe qua trong bàn trà, cuộc rượu, có vẻ mù mờ “tam sao thất bổn” không thể vin vào để viết, phê phán. Ðôi khi có những lời bàn tán mà người trong cuộc không biết gì cả, khi biết được thì chưng hửng và không biết phát xuất từ đâu! Dư luận cũng là con dao hai lưỡi và xác tín phải trải qua thời gian.
Cách đây vài năm, tôi đọc bài viết trên
nhật báo Người Việt ở Little Saigon về nhóm Mở Miệng,
gồm các người bạn trẻ Lý Ðợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán,
Bùi Chát. Lý Ðợi thực hiện tập thơ Bảy Biến Tấu
Con Nhện, được thực hiện theo kiểu phong thư, bì thư
là bìa, ruột thư là những bài thơ, chỉ photocopy với số
lượng 100 bản nhưng bị tịch thu và thiêu hủy vào đầu
năm 2004. Ở trong nước, mọi việc in ấn để phổ biến
đều bị kiểm duyệt, không có phương tiện truyền thông
trong tay, các bạn trẻ có vẻ lập dị để gây sự chú
ý nhưng cũng nói lên cái gì đó sự đột phá của giới
trẻ. Trong ngành truyền thông hiện nay, có thêm hệ thống
internet tạo được cơ hội thuận tiện cho bất cứ cá
nhân ở xã hội nào bị trói buộc, bày tỏ ý nghĩ, ngòi
bút của mình. Sau đó, đọc vài bài viết của Lý Ðợi
trên trang web Talawas và Da Màu, có thêm cây bút trẻ người
cùng xứ nên để ý. Bài viết Ngày
Xưa Vũ Hạnh của Lý Ðợi, tuy ngắn nhưng nói lên
thái độ bất bình của giới trẻ với Vũ Hạnh “vu cho
cái tội đồi trụy, phản động, và nên cho vào tù”
khi bốn tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu được Công ty
Phương Nam ấn hành trong nước. Dương Nghiễm Mậu bị Vũ
Hạnh và Mai Quốc Liên của tờ Văn Nghệ đem ra đấu
trường tố cáo.
Về trường hợp nhà văn Vũ Hạnh, tôi đã đề cập qua bài viết Vũ Hạnh, Kẻ Hoạt Ðầu Văn Hóa, đăng tải trên tờ Saigon Times ở Los Angeles, số ra ngày 27 tháng 12 năm 1991 và các tờ báo ở hải ngoại. Mong người bạn trẻ Lý Ðợi đọc hết những bài viết của nhà văn “chụp mũ” Vũ Hạnh sau nầy để viết tiếp. Xin trích vài dòng trong bài viết của tôi về Vũ Hạnh:
Về trường hợp nhà văn Vũ Hạnh, tôi đã đề cập qua bài viết Vũ Hạnh, Kẻ Hoạt Ðầu Văn Hóa, đăng tải trên tờ Saigon Times ở Los Angeles, số ra ngày 27 tháng 12 năm 1991 và các tờ báo ở hải ngoại. Mong người bạn trẻ Lý Ðợi đọc hết những bài viết của nhà văn “chụp mũ” Vũ Hạnh sau nầy để viết tiếp. Xin trích vài dòng trong bài viết của tôi về Vũ Hạnh:
“...có một lần, vào năm 1988, bài thơ của
Trần Vàng Sao đăng trên tạp chí Sông Hương đã dùng từ
“chí sĩ”. Vũ Hạnh viết bài đả kích, chụp mũ nhà
thơ trên báo Tuổi Trẻ và Công An, từ “chí sĩ” ám
chỉ Ngô Ðình Diệm. Tác giả và BBT Sông Hương bị kiểm
điểm, đính chính! Lẽ nào ông không đọc Hoàng Lê Nhất
Thống Chí và hình ảnh Ngô Thời Nhậm (Ngô Thời Sĩ)?”
(Việt
Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức, Hà Nội 1931,
định nghĩa chí sĩ là người có tiết tháo và trích dẫn
hai câu trong phú chiến Tây hồ:" Gánh quân thân ai đã
mỏi vai rồi. Kẻ chí sĩ làm thinh đi chẳng dứt" ).
Với nhà văn Cung Tích Biền, qua bao năm im lặng,
không hiểu vì lý do nào lại trả lời khá dài và đầy
đủ chi tiết cuộc phỏng vấn với người bạn trẻ mới
bước chân trong làng văn, nghề báo, không đại diện cho
cơ quan truyền thông nào. Tôi đoán, với một người giàu
kinh nghiệm và hiểu biết, có lẽ Cung Tích Biền phát
hiện với “người phỏng vấn” có điểm gì đó mới
“mở miệng”.
Qua cuộc phỏng vấn, cuộc đời Cung Tích Biền,
nhà văn nổi tiếng ở thập niên 60, 70 ở miền Nam VN,
với nhiều chi tiết mà trước đây có vài bài viết về
tác giả chưa đề cập đến. Bài phỏng vấn chỉ được
phổ biến trên trang web Talawas. Và, đây là cuộc phỏng
vấn lâu nhất vì theo Lý Ðợi
“...lần đầu tiên tôi đề nghị thực hiện
phỏng vấn trực tiếp nhà văn Cung Tích Biền là ngày
28-11-2003, nhưng do một vài lý do khách và chủ quan, lần
đó bất thành. Lần thứ hai, tôi đề nghị và được
ông đồng ý để thực hiện trực tiếp là ngày
28-10-2006 và bài phỏng vấn này sơ kết câu hỏi cuối
cùng vào ngày 22-01-2007, hoàn tất ngày 28-01-2007."
Tuy không gần gũi với nhà văn Cung Tích Biền
qua năm tháng nhưng đồng hương với nhau, khi đọc bài
phỏng vấn của Lý Ðợi, tôi cũng có ý định tìm hiểu
thêm qua vài nhân chứng để viết vì nhân cách nhà văn
sống còn với tác phẩm. Gần tuổi thất thập, nhìn lại
bản thân, Cung Tích Biền tự khiển trách mình khi đối
diện với thực tế và bẽ bàng trước chế độ mà thời
trai trẻ tường rằng hay ho mà tâm sự được gởi gấm
qua vài bài thơ của anh khi còn sinh viên ở Huế. Nói như
O Wilde “Khi ta tự khiển trách thì dường như không còn
ai khác có quyền khiển trách”, vì vậy, tôi ghi lại
những gì biết được còn sự thật, trắng đen... minh
định với thời gian. Bài viết không có tính cách nhận
định về tác giả và tác phẩm (sẽ đề cập sau) mà
thu tóm những điều nhà văn Cung Tích Biền “mở miệng”
phối hợp với ý kiến các thân hữu thân quen với anh và
tôi.
*
Cách đây gần nửa thế kỷ, nhân dịp Lễ Vu Lan, anh Cung Tích Biền và chị tôi cùng các huynh trưởng trong Gia Ðình Phật Tử tổ chức sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh vũ khúc Lên Chùa Dâng Hoa do anh sáng tác rất tuyệt vời, phần đầu với ca khúc Lên Chùa Dâng Hoa, phiên khúc anh lồng vào dòng nhạc mở đầu ca khúc bán cổ điển Sérénata của Enrico Toselli. Anh đàn mandoline rất hay, tôi mê vũ khúc và tiếng đàn; từ đó, chị tôi khuyến khích cố gắng tập luyện sẽ trở thành Trần Ngọc Thao thứ hai. Anh và tôi, cùng họ và chữ lót, cùng quê (Thăng Bình, quê ngoại của tôi) vì vậy, sau nầy, nhiều người hỏi tôi có họ hàng gì với Cung Tích Biền. Anh là huynh trưởng, bạn của người chị thứ sáu tôi, không họ hàng gì cả, và, tôi được biết anh trong sinh hoạt Gia Ðình Phật Tử từ đó,
Cách đây gần nửa thế kỷ, nhân dịp Lễ Vu Lan, anh Cung Tích Biền và chị tôi cùng các huynh trưởng trong Gia Ðình Phật Tử tổ chức sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh vũ khúc Lên Chùa Dâng Hoa do anh sáng tác rất tuyệt vời, phần đầu với ca khúc Lên Chùa Dâng Hoa, phiên khúc anh lồng vào dòng nhạc mở đầu ca khúc bán cổ điển Sérénata của Enrico Toselli. Anh đàn mandoline rất hay, tôi mê vũ khúc và tiếng đàn; từ đó, chị tôi khuyến khích cố gắng tập luyện sẽ trở thành Trần Ngọc Thao thứ hai. Anh và tôi, cùng họ và chữ lót, cùng quê (Thăng Bình, quê ngoại của tôi) vì vậy, sau nầy, nhiều người hỏi tôi có họ hàng gì với Cung Tích Biền. Anh là huynh trưởng, bạn của người chị thứ sáu tôi, không họ hàng gì cả, và, tôi được biết anh trong sinh hoạt Gia Ðình Phật Tử từ đó,
Quen thân với Phan Nhự Thức khi tôi theo học Khóa I Nguyễn Trãi của Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt vào cuối năm 1966. Vì quân trường còn trong thời kỳ phôi thai nên phải gởi theo học giai đoạn I cùng với Khóa 24 của Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Lúc đó, Khối Chiến Tranh Chính Trị vừa thành lập ban biên tập SVSQ Khóa 23 và 24 cho tờ nguyệt san Thủ Ðức có Nguyên Sa, Lưu Trung Khảo, LS Trần Sơn Hà, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Chu Tân, Cao Thoại Châu, Lâm Chương, Phan Nhự Thức... và tôi. Thân tình Phan Nhự Thức từ đó, sau nầy có nhiều kỷ niệm gắn bó với nhau, Phan Nhự Thức cho biết rất thích hai cây bút của quê tôi là Vũ Hạnh và Cung Tích Biền vừa được nổi tiếng, nhưng tiếc rằng Vũ Hạnh đi theo con đường khuynh tả. Tôi nói, cả hai người là bạn với mấy người chị của tôi và cũng có óc địa phương nên sáng tác nào cũng đọc hết, và tôi cũng đồng quan điểm đó.
Sau thời gian lao tù và quản chế, năm 1987, từ Ðà Lạt về Sài Gòn, nghe tin Phan Nhự Thức còn sống lang bạt đâu đó nên đi tìm. Ðược tin anh Cung Tích Biền đang bán tranh sơn mài ở kiosque 28 trên đường Nguyễn Huệ, ghé thăm và gặp Phan Nhự Thức. Phan Nhự Thức cho hay, sau khi ra tù, chui về Sài Gòn, sống vất vưởng, nhờ Cung Tích Biền đưa vào làm ở hãng nước đá của người thân có mối quan hệ với chính quyền nên ăn ngủ tại chỗ, tránh được sự truy lùng thành phần sống chui, không hộ khẩu.
Bạn bè cho biết, Cung Tích Biền là Ðại úy
trong Quân Lực VNCH nhưng không bị đi tù như anh em còn
được tự do làm ăn, thành phần bên kia chiến tuyến...
không nên giao thiệp. Câu đầu tiên tôi hỏi, có ám hại,
phản phé ai không? Khi nghe trả lời không, tôi nghĩ rằng
anh dựa “lá bùa” để yên thân khi thời cuộc thay đổi,
ít ra, còn giữ được lương tri của con người. Theo Phan
Nhự Thức, gia đình Cung Tích Biền bị phân đôi, có hai
người tập kết, hai người là sĩ quan trong Quân Lực
VNCH. Người anh tập kết, chết năm 1969 và thêm người
anh, sĩ quan cấp tá Quân Lực VNCH, chết trong trại tù năm
1978, cả hai không tìm được xác. Và, bút hiệu Cung Tích
Biền là tên ghép của các anh chị. Có lẽ Cung Tích Biền
đã giải ngũ năm 1973 nên sau năm 1975, biết “lăng ba vi
bộ”, có ô dù thân nhân tập kết và vài người bạn
cùng quê như Huỳnh Bá Thành, Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng...
nên biết cách tránh né, mong an toàn mạng sống nhưng rồi
cũng tan nát như chúng ta. Sau ngày 30 tháng Tư, cũng có vài
sĩ quan trong văn giới mang bảng đỏ nhưng rồi bị thất
sủng, vào tù, nay được định cư tại Hoa Kỳ.
Với bản thân Phan Nhự Thức, Cung Tích Biền là người bạn tốt, chân tình, trầm lặng, chấp nhận mọi thị phi để sống với vợ con. Sau đó, đôi ba lần, tôi ghé lại kiosque của anh, tán gẫu với nhau, tôi hỏi chuyện viết lách, anh cho biết, thỉnh thoảng viết lai rai, vì buôn bán tranh ở Pháp nên được vài tạp chí để đọc cho khuây khỏa. Qua ý kiển giữa bạn bè và tâm sự của Phan Nhự Thức, xa cách quá lâu và coi anh với hình ảnh huynh trưởng ngày xưa nên rất tế nhị khi giao tiếp; vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, điều quan trọng đối với tôi, có bán rẻ nhân cách, xu thời, đạp lên mạng sống anh em?
Năm 1990, trước khi đi diện HO sang Hoa Kỳ, nhờ Trần Thanh Ngọc (khóa II ÐH.CTCT) đèo Huy Tưởng và tôi ghé thăm căn nhà tranh nho nhỏ của Phan Nhự Thức ở nơi xó xỉnh cuối phi trường Tân Sơn Nhất, xa Sài Gòn, làm nơi tá túc sau khi lập lại cuộc tình, bạn bè giúp đỡ tận tình, trong đó có Cung Tích Biền.
*
Qua những điểm chính về tiểu sử trong bài
phỏng vấn Ðành Lòng Sống Trong Phòng Ðợi Của Lịch Sử
do Lý Ðợi thực hiện với nhà văn Cung Tích Biền, trong
đó có vài đoạn tóm lược trích dẫn.
Tên thật Trần Ngọc Thao, sinh ngày 8 tháng 2
năm 1938 tại Thăng Bình, Quảng Nam, trong một gia đình có
truyền thống chữ nghĩa thơ phú. Năm 12 tuổi đã theo các
anh các chị đi diễn kịch, đàn ca ở miền quê trong
tỉnh. Năm 1954 ở lại quê nhà, anh em bà con ruột thịt,
bạn bè, tập kết ra Bắc. Năm 18 tuổi, bị bắt ra nhà
lao Hà Lam, quận Thăng Bình tra khảo. Bị ăn đòn bằng
những khúc tre tươi, vỡ đầu, suýt bị phèo óc, bị
đánh, khi khúc tre nát ra tua tủa như tăm xỉa răng, lại
thay khúc khác. Rất may, vì mới tép riu, chỉ là ở trong
vùng kháng chiến, chưa phải thành phần Cộng Sản nguy
hiểm cần treo ngược lên xà nhà, tra điện, hay bó rọ
thả sông.
Hồi còn học trung học đã tập
tễnh làm thơ viết truyện ngắn. Năm 1958, được một
giải thưởng truyện ngắn toàn Quảng Nam. Lúc học tại
Huế, được một giải thơ của trường Quốc Học. Theo
học Ðại học Văn Khoa ở Huế, đầu thập niên 60, một
thời gian, phụ trách một chương trình thơ cho đài phát
thanh Huế. Chương trình mang tên Con Tàu Thi Ca. Ngoài các
chương trình thông thường, thực hiện ba chương trình
liền nhau những nhà thơ tiền chiến đang sống dưới chế
độ Hà Nội. Ðài cúp ngay cái đám miệng còn hôi sữa.
Thế là chết yểu. Năm 1963, dạy học tại Ðiện Bàn
Quảng Nam (lúc này anh còn gần gũi một số bạn thân mà
một phần lớn trong số đó sau này đã ra khu MTGPMN) thì
bị động viên vào Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Ra trường,
bị chính quyền Nguyễn Khánh có văn bản cưỡng bách cư
trú tại miền Tây (Cần Thơ), không được về Trung, thời
gian bốn năm. Năm 1967, thân mẫu qua đời, không về chôn
cất. Mỗi tuần, phải trình diện An Ninh Quân Ðội Vùng
4 chiến thuật một lần vào ngày Chủ Nhật. Thấy Cần
Thơ cũng chốn phồn hoa, An Ninh Quân Ðội đẩy đi xa hơn,
được lệnh về Bạc Liêu. “Miền Nam Cộng Hòa có cái
hay, nghi ngờ một sĩ quan động viên có liên hệ với
Cộng Sản, tham gia phong trào sinh viên đấu tranh chống
Ngô Ðình Diệm, từng sống trong vùng kháng chiến chín
năm, có anh em ruột thịt tập kết ra Bắc, có liên hệ
với bạn bè khá đông, rất thân quen, hiện đã ra khu Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, vậy mà cứ cho lên lon, thăng
chức bình thường như mọi sĩ quan khác”.
Tháng 11 năm 1965, sáng tác truyện ngắn Ngoại
Ô, Dĩ An Và Linh Hồn Tôi khi phục vụ tại Sư đoàn 21 Bộ
Binh, lưu lạc tận Bạc Liêu., Sư đoàn 21 Bộ Binh. Tháng
3 năm 1966 truyện đăng trên tuần báo Nghệ thuật, lần
đầu tiên, ký bút hiệu Cung Tích Biền. Bút hiệu nầy
giữ mãi tới ngày hôm nay.
Từ 1968 đến 1973, mang lon Ðại úy Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Trú đóng ở tiền đồn, Ðức Hòa
Hậu Nghĩa, năm 1970 về căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh. Năm
1973 giải ngũ, cư ngụ tại Sài Gòn.
Sau tháng Tư năm 1975, đi học tập cải tạo
thời gian ngắn, cùng tổ với Mai Bá Trác và Nguyễn Quốc
Chính. “Mất nhà cửa vì bị tịch thu, (duyên cớ là ở
nhờ nhà chị vợ, chị đi Mỹ, nhân thể tịch thu, người
ta hốt ráo bất luận của ai ra ai). Nghèo khó ra đi, vợ
ra tới cửa nhào vô lấy cái nôi của đứa con thơ, bị
cậu quận đội Tân Bình ngăn lại không cho. Con cái ra
nằm trần trên nền đất lề đường. Sau, ở nhờ nhà
thi sĩ Ðoàn Minh Hải...”. Chị Mai, hiền thê của anh nhỏ
hơn 15 tuổi. Người Quảng Trị. Bên nội họ Hoàng. Bên
ngoại Lê. Hồi trung học, học trường Ðồng Khánh, Huế.
Vào Sài Gòn, ở nhờ nhà người cậu ruột là luật sư
Lê Nguyên Phu, học trường Văn khoa, tốt nghiệp cử nhân
Triết Tây. Có viết một số truyện ngắn đăng trên vài
tập san văn chương, bút hiệu Hoàng Thị Kim. Lấy chồng,
sinh con, bỏ viết. Trong khi đó “Cả một đời, vợ con
tôi chưa hề mua được một vật dụng gì cho ra hồn, từ
tiền nhuận bút của tôi”.
Ðã năm năm nay, chị ăn chay trường, với anh là hình ảnh người mẹ, người chị vì cam chịu và lo lắng cho chồng con. “Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Tối thường cúng kiếng trước cổng nhà, vãi gạo muối bánh kẹo ra đường”. Ðó là mái ấm
Ðã năm năm nay, chị ăn chay trường, với anh là hình ảnh người mẹ, người chị vì cam chịu và lo lắng cho chồng con. “Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Tối thường cúng kiếng trước cổng nhà, vãi gạo muối bánh kẹo ra đường”. Ðó là mái ấm
Cũng như hằng triệu người
miền Nam thất sủng, đói khát bươn chải đủ thứ nghề,
chạy xe ba gác, xe ôm chỗ Ngã Ba Ông Tạ. Ði làm thợ mây
tre lá tuốt bên quận Tư cùng Chu Vương Miện và các thầy
chùa ăn mặn, sướt máu bàn tay. Ra tận Bình Dương học
nghề sơn mài bị sơn ăn sưng da phù mỏ. Ra đầu đường
bán sách cũ, dọn vỉa hè bán cà phê bò kho, thu gom ve
chai... Năm 1976 xuống tận Cà Mau làm cu ly xây trại nuôi
heo cùng Thế Phong, Nguyễn Thụy Long.
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của nhà văn Nguyễn Thụy Long có đề cập đến thời điểm nầy. Tôi email hỏi thăm Nguyễn Thụy Long và anh cho biết:
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của nhà văn Nguyễn Thụy Long có đề cập đến thời điểm nầy. Tôi email hỏi thăm Nguyễn Thụy Long và anh cho biết:
“Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi và Thế
Phong, Cung Tích Biền xuống tận Cà Mau làm cu li, thời
gian không dài lắm, vài ba tháng. Tổ hợp Việt Nam Kỹ
Thuật bị giải thể vỉ chủ nhiệm Nguyễn Văn Ngơi,
người quen của nữ văn sĩ Lệ Hằng bị bắt vì tổ
chức vượt biên. Tổ hợp giải thể, ba chúng tôi trở
về Sài Gòn, sau đó tôi bị bắt và đi tù đến năm 1980
mới trở về. Khi ra khỏi tù tôi gặp Cung Tích Biền,
tình cảm vẫn như xưa dù CTB bị mang tiếng nhiều là
người “cách mạng 30-4”, nhưng anh cũng chẳng hại gì
ai hết, vẫn có những quý mên nhau như người xưa. Ðôi
khi còn những có những giúp đỡ nhau thiết thực trong
thời bao cấp... Như trường hợp thi sĩ Phan Nhự Thức bị
bệnh ung thư và chết (tháng 11 năm 1995), tôi biết CTB lo
cho bạn gần hết”
Khi đề cập đến tác phẩm của mình ở trong nước, theo Cung Tích Biền
“Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 nhà nước
Việt Nam đã có lệnh cấm (bằng văn bản pháp quy, có
danh sách rõ ràng từng tên tác giả, tên tác phẩm) là
cấm lưu hành, in ấn, tàng trữ bất cứ dưới hình thức
nào hầu hết tác phẩm dưới thời miền Nam Cộng Hòa.
Toàn bộ tác phẩm của tôi cũng nằm trong lệnh cấm này.
Một lệnh cấm mang tính an ninh triệt để. Vi phạm là
phản động, đi tù không cần tuyên án. Ðể yểm trợ
cho lệnh cấm này có hiệu quả tuyệt đối đã có những
đơn vị xung kích đi từng nhà, từng khu phố thu gom sách.
Ðốt.
Tháng 8 năm 2005, theo sự chỉ dẫn của nhà văn
Mường Mán (vì anh đã được cho phép sao lục tác phẩm
cũ) tôi đến một thư viện tại Sài Gòn để xin sao lục
những sáng tác của tôi trước 1975, nay với tôi là tuyệt
bản. Tại đây, Thư viện Khoa Học Tổng Hợp, bảo tôi
về làm đơn xin phép nhà nước.
Ðơn viết xong, nhờ vợ tôi ra phường ký xác
nhận. Nộp đơn vào thư viện, lại phải viết tiếp một
đơn khác xin sao lục, vì đơn ở phường mới chỉ có
giá trị chứng cư trú.
Ðơn xin sao lục được chấp nhận lại phải làm phiếu đăng ký xin sao lục những gì, trên báo, tạp chí nào tháng năm nào. Phiếu đăng ký nộp vô, bị gạch bỏ một số không được sao lục, số được phép thì do nhân viên thư viện chụp hình in ra đĩa CD. Thư viện có một chiếc máy rất cũ, làm việc rất chậm. Tôi không được quyền mang máy ảnh, quay phim tư liệu vào thư viện để tự thực hiện, cho nhanh. Ðóng tiền trước ba trăm nghìn đồng.
Ðơn xin sao lục được chấp nhận lại phải làm phiếu đăng ký xin sao lục những gì, trên báo, tạp chí nào tháng năm nào. Phiếu đăng ký nộp vô, bị gạch bỏ một số không được sao lục, số được phép thì do nhân viên thư viện chụp hình in ra đĩa CD. Thư viện có một chiếc máy rất cũ, làm việc rất chậm. Tôi không được quyền mang máy ảnh, quay phim tư liệu vào thư viện để tự thực hiện, cho nhanh. Ðóng tiền trước ba trăm nghìn đồng.
Ðúng một tháng sau, y hẹn, tôi đến thư viện.
Ðĩa CD làm xong nhưng tôi được lệnh là không cho phép
nhận mang về. Lý do: “Truyện phản động, không được
phép sao lục, chưa có phép lưu hành”.
Từ đây có một cuộc phản kháng. Tôi nói với
cô Hương cán bộ thư viện là tác phẩm của tôi, tài
sản tinh thần của tôi, tôi có quyền sao lục. Tác giả
sao lục tác phẩm chính mình sao lại gọi là lưu hành. Mà
dù tôi chống lại lệnh cấm, tôi lưu hành là quyền của
tôi, sẽ do pháp luật can thiệp, bỏ tù tôi chịu. Thư
viện giam giữ đã ba mươi năm tác phẩm của tôi mà
không cho tôi sao lục là một hình thức chiếm đoạt tài
sản”.
Thế nhưng “ Ðã hơn một năm trôi qua tôi chẳng thấy ai thực hiện một cách sòng phẳng, đúng luật chơi là ký, và trao cho tôi cái giấy, là một lệnh cấm đó cả. Ba trăm nghìn đồng tôi ứng trước nay vẫn còn nằm trong thư viện. Hơn một năm tôi chưa hề nhận được cái giấy mời hay một cú điện thoại đến trả lời dứt khoát... Tôi rất ung dung tự tại. Không hề buồn hay uất mần chi chuyện vặt này. Hơn ba mươi năm kinh nghiệm dạy cho tôi cung cách “nằm nụng” tại “lơi lày”. Rằng thì là lánh, lãng, lơ, lì, lừa, luồn lách, lật lọng, lờ, lâu, rồi quên...”
Khi email cho anh Hồ Nam (nhà thơ Vương Tân), tôi nói sẽ viết bài về anh Cung Tích Biền, cần biết rõ hư thực vì hai anh đã quen nhau trong nhiều thập niên, anh hồi âm cho biết, nên viết vì giải tỏa được vấn đề để trả lại sự công bằng trong văn học. Bài viết của anh Hồ Nam từ Sài Gòn, với tựa đề Cung Tich Biền và Những Biến Chuyển Của Lịch Sử vừa nhận được khi tôi đang viết.
“Cung Tích Biền (tên khai sinh Trần Quốc Thao
sinh năm 1937 nhưng giấy tờ lai ghi 1938) được Mai Thảo
khi làm chủ bút tuần báo Nghệ Thuật coi như một hiện
tương văn học khi giới thiệu truyện ngắn đầu tay của
Biền đăng trên tờ tuần san này.
Cung Tích Biền mặc áo lính học trường sĩ
quan Hành Chánh Tài Chính, mãn khóa về một đơn vi Thiết
Giáp đôi mũ nồi đen thường giao du với Nguyên Vũ và Tú
Kếu nên đưa truyện dài cho Tú Kếu nhờ Tú Kếu giới
thiệu với Chu Tử và Chu Tử không những đã chọn đăng
truyện dài của Cung Tích Biền mà còn nói với tôi truyện
dài của Cung Tích Biền viết không kém gì Nguyễn Thụy
Long và trên chân Duyên Anh một bậc.
Dưới mắt tôi thời đó Cung Tích Biền chỉ
là một người trẻ có văn tài và ‘’nhậu’’ vào
loại hào sảng một người giao du được và chỉ thế
thôi không gì khác hơn.
Ngày 30 tháng tư năm 1975 xảy ra người ta thấy
Cung Tích Biền đeo băng đỏ đội nón cối cùng với
Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn) đến tiếp thu Câu Lạc Bộ
Báo Chí và có người còn nói Cung Tích Biền là Việt
Cộng ''nằm vùng'' cỡ thứ trưởng hay đại tá gì đó!
Sau những năm tôi đi tù cải tạo về phụ
giúp Phạm Kiều Tùng bán quán báo ở góc đường Bùi Chu
và Võ Tánh, Cung Tích Biền ghé thăm mời đi uống cà phê
và nói ở nhà trên một cao ốc ở đường Nguyễn Huệ.
Cung Tích Biền có một chai rượu ngon muốn mời tôi tới
nhậu và tôi đã tới dù Nguyễn Ðình Ðông “tay hòm
chìa khóa” của Chu Tử khuyên không nên ‘’giao du’’
với công an ‘’chìm’’ như Cung Tích Biền.
Mãi tới cuối thế kỷ hai mươi, khi Phan Như
Thức qua đời (tháng 11 năm 1995) vì bệnh ung thư vợ con
mang chôn ở Bình Hưng Hòa, tôi mới gặp lại Cung Tích
Biền. Bữa đó Biền đọc ''điếu văn'' khóc Thức như
một tiếng nấc nghẹn ngào của phận ''kẻ sĩ'' chịu
nhiều oan trái (nhà thơ Phan Nhự Thức là chủ tịch Hội
Ðồng tỉnh Quảng Ngãi) bị đi tù cải tạo, ra tù lãnh
tờ giấy ra trại đề ngày ký 31 tháng Hai, khi đi phỏng
vấn của chương trình HO phái đoàn Mỹ nói giấy tờ gì
Thức cũng thừa điều kiện sang Mỹ đinh cư nhưng lịch
của loài người không có ngày 31 tháng Hai. Thức cần
điều chỉnh lại giấy ra trại một thư thông hành để
đươc đi Mỹ Thức điều chỉnh tờ giấy này mất cả
năm trời vừa được phái đoàn Mỹ báo chuyến bay thì
lăn đùng ra chết vì ung thư!
Sang thế kỷ hai mươi mốt, một buổi trưa tôi
nhận được điện thoại của Nguyễn Thụy Long báo
Nguyên Vũ Vũ Ngư Chiêu muốn nói chuyện với tôi rồi
chuyển điện thoại cho Nguyên Vũ nói chuyện với tôi.
Nguyên Vũ mời tôi đến uống rượu vang tại
một quán chuyên bán đặc sản Quảng Nam gần Tịnh Xá
Trung Tâm, vùng Gò Vấp.
Tại quán nhậu này tôi thấy bên cạnh Nguyên
Vũ có Nguyễn Thụy Long và Cung Tích Biền. Bữa đó khi
rượu ngà ngà rồi tôi hỏi Cung Tích Biền về chuyện
đeo băng đỏ và tại sao Biền là Ðại úy Quân Lực VNCH
không bị đi cải tạo. Cung Tích Biền nói cảm ơn câu
hỏi của tôi để có dịp cho Cung Tích Biền giải tỏa
sự hiểu lầm của nhiều người với Cung Tích Biền.
Trước hết, Biền nói Biền đã giải ngũ trước ngày 30
tháng Tư nhiều năm vì là thương binh nên có trình diện
đi cải tạo tại trường Dũng Lạc (Gò Vấp) nhưng ở
đây cán bộ Việt Cộng cho về có lẽ nhờ Huỳnh Bá
Thành (họa sĩ Ớt trung tá Công An Việt Cộng) nói giúp
sao đó.
Cung Tích Biền thú thật có ngươi anh ruột là Việt Cộng đi tập kết đã chết ở Trường Sơn trước 1975 và giao du thân mật với Nguyễn Vạn Hồng và Huỳnh Bá Thành nên ngày 30 tháng Tư có hu hợ đeo băng đỏ chứ chẳng hề ''nằm vùng” bao giờ cả.
Cung Tích Biền thú thật có ngươi anh ruột là Việt Cộng đi tập kết đã chết ở Trường Sơn trước 1975 và giao du thân mật với Nguyễn Vạn Hồng và Huỳnh Bá Thành nên ngày 30 tháng Tư có hu hợ đeo băng đỏ chứ chẳng hề ''nằm vùng” bao giờ cả.
Cung Tích Biền không dấu chuyện có viết báo
Công An thời Huỳnh Bá Thành làm Tổng Biên Tập, khi Thành
''đột tử'' Cung Tích Biền bị ra rìa.
Cung Tích Biền thú thật làm văn nghệ có Ðảng
lãnh đạo Biền chịu không nổi đã viết văn “chui”
gửi cho Khánh Trường đăng trên tờ tạp chí văn học
Hợp Lưu.
Nghe Cung Tích Biền nói, tôi bảo với Cung Tích Biền rằng Phật Thích Ca từng quả quyết rằng tướng cướp tới cổng chùa quăng dao đi nghe kinh và “đầu” cửa Phật, chịu khó tu hành cũng có thể trở thành Bồ Tát huống chi Biền chỉ “hu hợ'' theo Việt Cộng nay đã nhìn thấy rõ con đường văn chương chữ nghĩa của mình và phản tỉnh, anh em có thể nói chuyện với nhau được. Có vấn đề gì đâu huống chi đây chỉ là ngộ nhận.
Nghe Cung Tích Biền nói, tôi bảo với Cung Tích Biền rằng Phật Thích Ca từng quả quyết rằng tướng cướp tới cổng chùa quăng dao đi nghe kinh và “đầu” cửa Phật, chịu khó tu hành cũng có thể trở thành Bồ Tát huống chi Biền chỉ “hu hợ'' theo Việt Cộng nay đã nhìn thấy rõ con đường văn chương chữ nghĩa của mình và phản tỉnh, anh em có thể nói chuyện với nhau được. Có vấn đề gì đâu huống chi đây chỉ là ngộ nhận.
Bữa đó có mấy người mà
chúng tôi uống hết hơn 10 chai Bordeaux, Nguyên Vũ có vẻ
hứng lắm cười luôn miệng và tâm sự rằng rất tâm
đắc với câu nói của Phật Thích Ca “tướng cướp
quăng đao trước cổng chùa vào chùa nghe kinh có thể
thành Bồ Tát”
Sau bữa nhậu đó, ít năm tôi thấy trên mạng
bài trả lời phỏng vấn của Cung Tích Biền chứng tỏ
con người Biền đã khá dứt khoát sau khi được giải
tỏa những “ẩn ức” và Biền xứng đáng là một
người cầm bút của thời đại hôm nay, ngòi bút chỉ vì
Chân Thiện Mỹ không vì cái gì khác.
Trong cuộc gặp gỡ giữa người viết bài này
chiều 11 tháng 9 năm 2007, tại quán bán đặc sản Ðất
Quảng gần Tịnh Xá Trung Tâm. Cung Tích Biền cho biết
Biền đang ung thư ruột già nên chương trình sáng tác chỉ
lập cho từng ba tháng một và Biền đang viết bộ tiểu
thuyết Chuồng Trại (cũng có tên la Truồng Chạy) rất
đắc ý. Không biết Biền có hoàn thành kịp bộ tiểu
thuyết này không vì ngoài ung thư còn tiểu đường nữa
bệnh nào cũng đang ở giai đoạn nghiêm trọng có thể
“chùa thua” bất cứ lúc nào.
Trả lời câu hỏi chết đi được đầu thai
lại làm người Biền có muốn thay đổi thân phận không,
Biền nói nếu được làm người nữa Biền chọn cái
kiếp đang sống đầy oan khiên và bất trắc đã từng
sống để tiếp tục sống.
Nói về chuyện tạp chi Da Mầu làm số đặc
biệt về Cung Tích Biền cho biết thế kỷ trước tờ Hợp
Lưu có ý định làm một số về mình Biền đã phản đối
nay trên 70 tuổi rối Da Mầu làm số báo đặc biệt về
Biền thì Cung Tích Biền đã đồng ý vì nghĩ mình đang
gần đất xa trời không nên phụ lòng người mến mộ
mình”. Hồ Nam
Cung Tích Biền cho biết “ròng 40 năm nay với
bút hiệu nầy” và không viết bài nào đánh bóng chế
độ trước cũng như sau 1975, “Từ khi được gọi là
thành niên tới ngày hôm nay, tôi đã sống 21 năm trong
nước Việt Nam Cộng hòa, 31 năm trong xã hội chủ nghĩa.
Cộng lại hơn nửa thế kỷ. Tôi chưa từng dùng ngòi bút
ca ngợi bất cứ một chế độ đương quyền nào”. Theo
bài viết của Hồ Nam, không biết khi viết cho tờ Công
An, dùng bút hiệu nào?
Theo họa sĩ Nguyễn Ðình Thuần ở Little
Saigon, năm 1989 triển lãm tranh ở Hội Mỹ Thuật, nhờ
Cung Tích Biền viết cho bài giới thiệu, khi gởi bài viết
đến tờ Lao Ðộng nhờ đăng tải, thấy tên Cung Tích
Biền, họ từ chối, phải nhờ người khác viết mới
đăng báo.
Qua những năm thăng trầm, anh có được cơ
ngơi với cái kiosque để sinh sống và nơi tá túc ở
chung cư Nguyễn Huệ, trước dây, bạn bè nói với tôi vì
có gốc gác. Theo họa sĩ Hồ Thành Ðức, bạn thân của
anh từ ngày ở Huế, còn thuộc những bài thơ của anh mà
tác giả không còn lưu trữ hay đã quên (như đã đề cập
ở trên, anh được giải thơ ở trường Quốc Học). Năm
1977 Hồ Thành Ðức vượt biên, bị tù hai năm, sau khi
được thả, Hồ Thành Ðức có quen biết với vài giới
chức trong Hội Văn Nghệ nên được trông coi vài kiosque.
Thấy Cung Tích Biền lông bông nên Hồ Thành Ðức giao cho
kiosque để làm ăn và nhờ vậy xin được nơi cư ngụ ở
chung cư Nguyễn Huệ. Còn vấn đề viết lách, không nghe
Cung Tích Biền đề cập.
*
Hình ảnh sau ngày 30 tháng Tư, Cung Tích Biền được đưa lên báo “đeo bảng xanh, bảng đỏ” nhưng rồi bị tước đoạt tất cả, may mắn chỉ “học tập cải tạo” thời gian ngắn và làm lại cuộc đời trong hoàn cảnh trớ trêu. Trong một gia đình, bên nầy và bên kia chiến tuyến, không thể nào thoát khỏi oan trái xảy ra của mỗi chế độ, và người trong cuộc dễ bị ngộ nhận.
Hình ảnh sau ngày 30 tháng Tư, Cung Tích Biền được đưa lên báo “đeo bảng xanh, bảng đỏ” nhưng rồi bị tước đoạt tất cả, may mắn chỉ “học tập cải tạo” thời gian ngắn và làm lại cuộc đời trong hoàn cảnh trớ trêu. Trong một gia đình, bên nầy và bên kia chiến tuyến, không thể nào thoát khỏi oan trái xảy ra của mỗi chế độ, và người trong cuộc dễ bị ngộ nhận.
Giữa thập niên 60, sau thời gian xuất hiện
với các truyện ngắn, Cùng Tích Biền tạo được thế
đứng tròng làng văn, anh cho biết: “Có một thời gian,
cùng lúc tôi viết feuilleton cho năm tờ nhật báo: Ðộc
Lập, Ðông Phương, Ðiện Tín, Sóng Thần, Hòa Bình...
Ngoài ra, còn viết mỗi tuần một kỳ hai trang cho tuần
báo Ðời, do nhà báo Ðỗ Quý Toàn thư ký tòa soạn, họa
sĩ Ðằng Giao trình bày, trang báo rất trang trọng, đẹp.
Những truyện dài Bên Dòng Nước Biếc, Luống Cải Vàng,
Bến Mưa Ngâu của tôi xuất hiện trên Ðời.
Cũng thời gian này, truyện dài Những Bọ Và
Rắn được đăng trên tạp chí Quần Chúng do nhà báo Cao
Thế Dung chủ trương. Truyện dài Trường Giang, đăng trên
tuần báo Khởi Hành, do nhà thơ Viên Linh thư ký tòa
soạn...
... Cho đến nay tôi chưa hề in một tác phẩm nào trong hơn 20 truyện dài đã đăng hoàn chỉnh trên các nhật báo Sài Gòn”.
Các tác phẩm đã được xuất bản: Ai Tỉnh Ai Ðiên (1968), Hòa Bình Nàng Tình Rỗng (1968), Nỗi Buồn Thắp Sáng (1969), Cõi Ngoài (1969)...
... Cho đến nay tôi chưa hề in một tác phẩm nào trong hơn 20 truyện dài đã đăng hoàn chỉnh trên các nhật báo Sài Gòn”.
Các tác phẩm đã được xuất bản: Ai Tỉnh Ai Ðiên (1968), Hòa Bình Nàng Tình Rỗng (1968), Nỗi Buồn Thắp Sáng (1969), Cõi Ngoài (1969)...
Nhà văn Cung Tích Biền thành danh, nổi tiếng
qua nhiều tác phẩm trong thập niên 60, 70, quen thuộc với
độc giả ở miền Nam VN, nhưng không hiểu vì sao ít có
bài viết về tác giả và các tác phẩm văn học. Ở
trong nước, tác phẩm của anh trước kia bị xếp vào
bảng phong phần “truyện phản động không được phép
sao lục, chưa có phép lưu hành”! Khi bị liệt kê vào
bảng phong thần thì không có cây bút nào đá động đến
và nếu có cũng không có tờ báo nào dám đăng tải. May
ra có vài truyện ngắn sau nầy được đăng trong tuyển
tập như Thằng Bắt Quỷ trong tổng tập Truyện Ngắn
Việt Nam thế kỷ XX, NXB Kim Ðồng, truyện ngắn Không Thể
Là Hiện Thực trong tuyển tập Ðêm Bướm Ma, NXB Văn
Học...
Ở hải ngoại, các cây bút trong nước đã một
thời quen thân với anh, hiện đảm trách tờ báo trong tay
nhưng suốt ba thập niên qua, ít ai đề cập đến. Có lẽ
họ ngần ngại thời điểm anh đeo băng đỏ nhưng họ
không “cảm thông” khi anh bị đuổi ra khỏi nhà, sống
vất va vất vưởng, nghể không ra nghề, thợ không ra thợ
để sống còn. Với những gì anh đã nhận chân sự thật
để nói ra, nếu đó là sự thật thì “Sự chân thành
là cái danh dự của lương tri”, nói như
Galerita.
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của nhà văn Võ Phiến, NXB Văn Nghệ, ấn hành năm 1986, trong phần tác giả, tác phẩm có ghi đôi dòng về tiểu sử Cung Tích Biền nhưng trong trang sách, không một lời nhắc đến. Bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, NXB Văn Nghệ 1999, phần truyện gồm ba tập đề cập đến hầu hết nhà văn nhưng cũng không có Cung Tích Biền. Quyển Văn Học Từ Ðiển của Thanh Tùng, NXB Khai Trí năm 1973 và được ấn hành ở Hoa Kỳ năm 1990, chỉ liệt kê tổng quát tiểu sử tác gia, có vài tác giả chỉ có một, hai tác phẩm, chưa có tên tuổi, xuất hiện sau anh, cũng được đề cập nhưng không có tên nhà văn Cung Tích Biền.
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của nhà văn Võ Phiến, NXB Văn Nghệ, ấn hành năm 1986, trong phần tác giả, tác phẩm có ghi đôi dòng về tiểu sử Cung Tích Biền nhưng trong trang sách, không một lời nhắc đến. Bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, NXB Văn Nghệ 1999, phần truyện gồm ba tập đề cập đến hầu hết nhà văn nhưng cũng không có Cung Tích Biền. Quyển Văn Học Từ Ðiển của Thanh Tùng, NXB Khai Trí năm 1973 và được ấn hành ở Hoa Kỳ năm 1990, chỉ liệt kê tổng quát tiểu sử tác gia, có vài tác giả chỉ có một, hai tác phẩm, chưa có tên tuổi, xuất hiện sau anh, cũng được đề cập nhưng không có tên nhà văn Cung Tích Biền.
.
Năm 1993, tập truyện Thằng Bắt Quỷ do Tân Thư ấn hành ở Hoa Kỳ. Gồm các truyện ngắn trước và sau năm 1975: Dị Mộng, Qua Sông, Ngoại Ô Dĩ An Và Linh Hồn Tôi, Trong Nghĩa Ðịa Xanh, Người Tù Tình Nguyện, Giao Thừa, Trên Ngọn Lửa, Lời Ảo Hóa, Rừng Ðôm Ðốm, Thằng Bắt Quỷ và Thừa Dư.
Năm 1993, tập truyện Thằng Bắt Quỷ do Tân Thư ấn hành ở Hoa Kỳ. Gồm các truyện ngắn trước và sau năm 1975: Dị Mộng, Qua Sông, Ngoại Ô Dĩ An Và Linh Hồn Tôi, Trong Nghĩa Ðịa Xanh, Người Tù Tình Nguyện, Giao Thừa, Trên Ngọn Lửa, Lời Ảo Hóa, Rừng Ðôm Ðốm, Thằng Bắt Quỷ và Thừa Dư.
Trong các truyện ngắn sau nầy, Cung Tích Biền
với bút pháp ẩn dụ, thế giới huyễn hoặc không bày
tỏ thực trạng của cuộc sống như những tác phẩm viết
trước năm 1975. Trong khí đó, độc giả mong ở nhà văn
thành danh với ngòi bút sắc bén với cái nhìn hiện thực,
Hiện nay, cuốc sống gia đình được ổn định
tại Gò Vấp, con gái lớn đã lập gia đình và ở Nam
California. Tuy nhiên, anh vẫn mang nặng hình ảnh của hai
người anh nên cuối bài phỏng vấn, Cung Tích Biền bày
tỏ nỗi đau bây giờ, có hai người anh, bên nầy và bên
kia đã chết mà không tìm được tông tích:
Người thứ nhất: ông Trần Ngọc Biền, bộ
đội, chết năm 1969 tại Nghĩa Ðàn, Nghệ An. Người thứ
hai: ông Trần Ngọc Tấn, Thiếu tá Quận trưởng Tịnh
Sơn kiêm Quân trấn trưởng Quang Ngãi. Sau tháng 4 năm
1975, đi học tập và chết trong trại cải tạo. Gia đình
chỉ được thông báo cái chết từ năm 1978 mà không biết
nơi chôn cất. Cũng đã ở tuổi cổ lai hy, nếu được
quy kết mộ hai ông anh ruột cũng là một thỏa lòng.
Trong tình nghĩa bạn bè thân tình với nhau cho
rằng anh sống bạt mạng, đệ tử của Lưu Linh nên đôi
khi cũng bất cần thân thể. Tuy nhiên, không tránh khỏi
sự chê bai. Tôi nhớ, có lần người bạn nói với tôi
Trần Hoài Thư “cao ngao, bộ mặt khinh khỉnh”, tỉnh bơ
khi chào hỏi. Thật ra vì cận thị nặng, không nhìn xa
được để đáp lễ nên bị mang tiếng và Cung Tích Biền
thì nghe nói nhiều hơn. Ngày trước, mỗi lần Trần Hoài
Thư từ núi rừng về Sài Gòn, tá túc ở nhà trọ Cung
Tích Biền, ngồi quán cà phê, cả hai nhìn xa đều “mục
hạ vô nhân” thì làm sao tránh khỏi lời chê trách “mục
trung vô nhân”!
Thật ra, Cung Tích Biền chẳng vỗ ngực xưng
danh “nhà văn nhớn” như vài người khác mà còn khiêm
nhường. Qua câu hỏi của Lý Ðợi: “Vắng bóng trên
thập kỷ rồi. Ông sẽ xuất hiện lại chứ. Ẩn danh mãi
sao ông nhà văn?”. Cung Tích Biền: “Danh đâu mà ẩn.
Chỉ là tìm chỗ trốn cái gió tanh mưa bụi. Tôi có một
kho tàng sống qua mấy thời kỳ. Chỗ giáp ranh của thực
hư, chính tà. Nửa tỉnh nửa điên...”.
Tròn hai thập niên, chưa gặp được anh. Với những gì biết được ghi lại, còn nhiều thiếu sót. Không gì hơn, đón nhận hồi ký của nhà văn Cung Tích Biền. Gần năm thập niên rồi, bên nầy bờ đại dương vẫn nhớ hình ảnh và ca khúc Sérénata:
Tròn hai thập niên, chưa gặp được anh. Với những gì biết được ghi lại, còn nhiều thiếu sót. Không gì hơn, đón nhận hồi ký của nhà văn Cung Tích Biền. Gần năm thập niên rồi, bên nầy bờ đại dương vẫn nhớ hình ảnh và ca khúc Sérénata:
“Viens, le soir descend
Et l'heure est charmeuse
Viens, toi si frileuse,
La nuit déjà comme un manteau s'étend...”.
Et l'heure est charmeuse
Viens, toi si frileuse,
La nuit déjà comme un manteau s'étend...”.
Sống với nhau, sinh tử tử
sinh, còn lại nhớ chăng ở đạo làm người. Mười bảy
năm xa cách, mong có ngày cụng ly ở quán đặc sản Quảng
Nam.
Vương Trùng Dương