văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, July 27, 2015

DIÊN NGHỊ * BÙI GIÁNG, GÁNH THAN LÊN BÁN CHỢ TRỜI

 
Gánh than lên bán chợ Trời
Thiên thần xúm hỏi: Em người ở đâu
Thưa rằng em ở rất lâu
Trần gian dưới đó dãi dầu liên miên
Bảo rằng: chưa rõ tuổi tên?
Thưa rằng tên tuổi là em đây rồi
Nghĩa là Sơn nữ đó thôi
Hỏi rằng: sao chẳng thấy môi em cười?
Thưa rằng: cười gượng không vui
Nên đành mím miệng một đời cho qua

Hỏi rằng: dưới đó bông hoa
Nở vào mùa Hạ hay là mùa Xuân?
Thưa rằng: cái đó em quên
Vì chưng lo đốt than nên không nhìn
Hỏi rằng: một chút của tin
Muốn trao em giữ, em xin thứ gì?
Thưa rằng: em chẳng biết chi
Hỏi rằng: em thích xiêm y không nào?
Thưa rằng: dày mỏng ra sao?
Bảo rằng: toàn gấm, lụa đào nhung hoa
Thưa rằng: chẳng hợp màu da
Toàn than như hộ chà là em đen
Bảo rằng: hãy tắm suối tiên
Một giờ sau em sẽ đổi đen ra hồng
Thưa rằng: em có tấm chồng
Yêu màu da cũ, kiếu ông em về./
(Lời Sơn Nữ)
 
Luận giải hai câu thơ của Tô Thức đời Đường: "Thử hành phi viễn biệt, Thử lạc ốc vô cùng" , Bùi Giáng ngoảnh nhìn lui tự hỏi, tại sao vậy? "Vì đường đi vô núi là lối bước ra rừng, là đường đi ra núi". Mà đường đi ra núi là lối đi vào núi. Và lối đi vào núi là đường đi ra rừng. Vì thế mà vui. Vui vậy ấy, vô lượng, vô biên, vô cùng, vô tận."
Thế giới núi rừng bao la, huyền bí. Người rừng núi cũng huyễn hoặc quẩn quanh. Vòng tròn từng sinh mệnh giới hạn vào ra, lui tới, trước núi sau rừng, lên dốc xuống khe...
Ra đi khi mặt trời ló dạng, trở về khi mặt trời nghiêng bóng ngọ. Thần linh lãng vãng xung quanh. Mỗi hiện tượng thiên nhiên mang hồn vía một vị thần. Niềm tin tuyệt đối vào sức phò trợ cũng như trừng phạt do đấng quyền uy vô hình, vô hình mà hữu tại. Thần giáo đến họ từ thuở sơ khai, chứng kiến, chia sẻ, dẫn dắt cuộc đời hái lượm, trồng tỉa, săn bắt từ thế hệ này qua thế hệ khác, dù không xa biên giới núi rừng, ánh sáng văn minh, phương tiện vật chất cung ứng cho xã hội dân tộc khác đã khá phong phú, giải phóng sức lao động bằng cơ bắp cam go.
Bang quan điểm mặt hình thái sinh hoạt xã hội, con người vùng cao cảm nhận sự trung thành văn hóa cổ truyền, khó thay đổi cải biến, nhưng bước sâu vào chủ thể, nghiên cứu xã hội học, ghi nhận đó đây, phóng chiếu khía cạnh tâm lý con người, không thể thiếu vắng khát vọng vươn dậy, vận động phù hợp với quy luật cần thiết tồn sinh.
Người rừng núi sử dụng chủ yếu ngôn ngữ nói, thiếu văn tự. Truyền khẩu là phương tiện duy nhất bảo tồn văn hóa, lịch sử, nghệ thuật. Tiếng khèn đêm khuya vang động thanh âm trầm bỗng, bị thiết, âm giai cao thấp, biểu trưng hình ảnh con người, đoàn người leo núi, đổ đèo, du canh, du cư vất vả, vật lộn với nắng mưa, giông bão, và độ lắng thông qua những dấu lặng trầm tư, buồn bã, gợi tưởng sức chịu đựng, an phận. Hoặc những điệp khúc khi dồn dập khẩn thiết, khi vút cao tận từng mây như réo gọi cứu rỗi, che chở từ Thần linh trước giờ biến loạn.
Trai lẫn gái, hát khi hoàng hôn tràn lấp núi rừng, giữa buôn làng quạnh quẽ, quan sát, nhận diện từng nét mặt, từng vẻ nhìn, hiểu được hoàn cảnh hiện tại, một chỉ dấu đang ngưng đọng, trước ánh lửa bập bùng, chốc chốc lóe lên đốm sáng lung linh.
Những hình dáng nam nữ, khỏe mạnh, hồn nhiên như cây cỏ, núi rừng, một bản thể thực hữu, đầu đội trời, chân đạp đất, vượt qua mọi gai sỏi hoang vu, ngày tháng đi về...
Bùi Giáng, may mắn tiếp cận với không gian lạ mà quen, xa mà gần, đã lắng nghe cuộc đối thoại hiếm hoi của một thân phận trần gian, sơn nữ cùng thần nhân, không ở quê quán hoang sơ mà tại cõi thiên đường rộn rã...
 
Gánh than lên bán cho Trời
Thiên thần xúm hỏi, Em người ở đâu?
 
Chợ trên trời, lạ lẫm quá, đông đầy Tiên nữ và Thiên thần. Sơn nữ lọ lem, bán than xuất hiện, tạo nên hiện tượng khác thường, chẳng khác "người hành tinh ghé về Trái Đất". Sơn nữ vẫn hồn nhiên, tranh được cảnh choáng ngợp cảnh trí thiên triều, không sợ sệt, hốt hoảng, cố giữ vẻ bình tĩnh, chủ động lễ độ thưa trình cùng đám thiên thần xúm hỏi:
 
Thưa rằng: Em ở rất lâu
Trần gian dưới đó, dãi dầu liên miên
 
Quê nhà Sơn nữ, cõi trần bất an, hỗn tạp. Người và người chinh chiến, tranh giành, chém giết, tàn hại nhau. Ước muốn cầu xin yên vui, thanh bình chẳng bao giờ được đáp ứng. Thiên thần ôn tồn hỏi Sơn nữ tuổi tên. Ôi! Rừng không nhớ tuổi, suối cũng quên tên thì em cũng vậy, có hơn gì. Em là rừng, là suối, là Em hiện hữu, là con người đang đối diện với Thiên thần đây (Thưa rằng tên tuổi là em đây rồi). Nghĩa là người con gái núi lạc đến nơi nay...mênh mông cao diệu. Lời thưa ngộ nghĩnh, Thiên thần cũng ngỡ ngàng. Hình ảnh núi rừng thoáng hiện trước mặt, hai quả đồi tròn lẳn của riêng Sơn Nữ (Cao nguyên ngực-Tạ Ký) nổi cộm, gợi tình, nên Thiên thần đổi giọng: "sao em ưu tư vậy, sao không thấy em cười? Em có tâm sự gì uẩn khúc?"
-Thưa, đời chẳng có gì đáng để cười. Từ phút lọt lòng đã khóc vì cõi đời đáng sợ. Niềm vui của người thể hiện bằng tiếng cười, buồn phát ra tiếng khóc. Có vui mới thỏa tiếng cười. Cười gượng biểu lộ giả dối, khiên cưỡng. Em không thể cười khi đã mất vui! Thà rằng mím miệng cho qua ngày đoạn tháng, mặc nước cứ chảy qua cầu (nên đành mím miệng một thời cho qua).
Đứng trước bông hoa biết đối đáp, Thiên thần liên tưởng đến hoa ở dưới trần gian. Hoa dưới ấy nở vào lúc nào, mùa nào, hạ hay xuân?
-Tiếc thay em không chú ý vụ này. Không chú ý bởi không có thì giờ để chú ý. Quần quật lao động quanh năm, ngày tháng. Chăm chú vào từng gốc cây, thân gỗ đang biến thành than, lam lũ, bận rộn đến nỗi không rõ bông hoa lúc nở, lúc tàn. Thấy hoa, không biết chuyện về hoa, cũng như Em, không tên, không tuổi.
Xúc động trước lời lẽ thật thà, Thiên Thần hạ giọng, ân cần ướm thử ý Sơn nữ có muốn nhận một sự giúp đỡ vật chất, hoặc một món quà trao gởi nào khác:
 
Hỏi rằng một chút của tin
Muốn trao em giữ, em xin thứ gì?
 
-Của tin? Em chẳng hiểu là gì?
Ví dụ: áo quần (Em thích xiêm y không nào?) Quần áo dày mỏng ra sao? Toàn là loại quý, nhung, lụa, gấm. Quý hiếm trên trời cũng như dưới đất.
Ồ, những thứ đó quý giá thật, sang trọng thật, tiếc rằng chẳng phù hợp màu da Sơn nữ. Thân thể, hai quả đòi tròn trịa, láng lẩy, chưa hề phủ lấp bởi một lớp vải vóc nào, bởi từ sinh ra đã được phép như nhiên như thế!
Cái tự nhiên xuất phát tự góc cạnh lẽ sống khao khát tự do. Thiên thần vẫn dịu dàng thuyết phục, cổ súy sự đổi thay cần thiết như bản mặt ngoại hình, màu da cố hữu bằng cách hướng dẫn Sơn Nữ đến tắm suối tiên. Nếu Sơn nữ bằng lòng, hiệu quả tức thời. Màu chà là đen sẽ được thay thế bằng màu hồng mơn mởn. Nước suối tiên dành riêng tiên nữ phục dưỡng da, đồng thời nước suối tiên cũng có tác dụng đổi thay màu da sơn nữ (Bảo rằng hãy tắm suối tiên, một giờ sau em sẽ đổi đen ra hồng).
Vừa bẽn lẽn, vừa ái ngại nghĩ đến tắm suối tiên. Tắm suối, tắm khe vốn dĩ quen thuộc, bình thường trong xã hội Sơn nữ, nhưng suối quê hương bản địa khác biệt, xa vời vợi với suối tiên nơi cõi trên. Đặc tính huyền diệu của nước có thể cải tạo ngoại dáng Sơn Nữ cũng đáng tin!
Thiên thần đang say đắm nhìn Sơn nữ, chờ đợi một ý lành, một tin vui, lấp lánh tia hy vọng.
Phút giây chờ đợi chầm chậm trôi qua, Thiên thần nhìn xuống thất vọng. Thiên thần lẩm bẩm: mở một cánh cửa cho một con người, một cuộc đời, từ ranh giới âm u qua chói lọi, từ cái thiếu thống tới đầy đủ, từ cái hèn hạ sang cao quý, vẫn bị chối từ, quay mặt:
 
Thưa rằng, em có tấm chồng
Yêu màu da cũ, kiếu ông em về
 
Cuộc đối thoại dừng lại, giữa thinh không. Thoáng chốc xa dần, khuất lấp trong làn mây lụa. Cõi Trời và cõi Đất cách biệt trùng trùng.
Bài thơ đọng lắng trong hồn người đọc. Tính cách ngụ ngôn phổ biến, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Tính cách nhân bản thể hiện rõ nét, không mù quáng, tham lam trước những ve vãn, dụ dỗ của người đối diện. Đối với con người, bất cứ dân tộc nào, cội nguồn, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán vẫn là mẫu mực của sinh hoạt đời sống. Hạnh phúc gia đình, lòng chung thủy là căn bản đạo lý được đề cao. Dụ dỗ Sơn Nữ đến tắm suối tiên để thay đổi màu da đã bị từ khước. Sơn nữ khẳng quyết tình yêu rằng người chồng chỉ yêu màu da cũ nên không thể nào phản bội trước sức quyến rũ, hiến dâng của một đổi thay kỳ diệu.
So chiếu trường hợp Thằng Bờm trong dòng ngụ ngôn phổ quát, lâu đời (Thằng Bờm có cái quạt mo) thì ý thức của Sơn nữ vượt ý thức thằng Bờm. Thằng Bờm được Phú Ông trao đổi vật chất sản phẩm đáng giá, nhưng Bờm từ chối. Chỉ khi được đổi hòn xôi, Bờm mới bằng lòng ( Phú ông xin đổi hòn xôi, Bờm cười). Bờm cần ăn, được ăn là ưu tiên, ý thức thực dụng, thông thường của mọi sinh vật trong đời sống. Với Sơn nữ của Bùi Giáng, được cho, được tặng mà không chịu nhận. Thiên thần bày tỏ thiện ý, tình cảm, có thể thành thật mà Sơn nữ vẫn không màng đến, dù của cho của tặng đắt giá, hiếm quý. Sơn nữ không tham lam, giữ được tư cách con người. Không cần xin ai cái gì. Ai cho cũng không nhận. Bán than và chỉ nhận tiền mua, thể hiện công lao động, của có từ lao động. Quả là mẫu người lương thiện trong xã hội dân tộc ít người, hồn hậu, chất phác, thiện lương.
Kỹ thuật, bố cục bài thơ, diễn tiến lớp lang mạch lạc. Từ phút gặp đầu, Thiên thần hỏi thăm quê hương tên tuổi, tình hình liên quan, dần dà vào tâm tình nhân vật, tìm hiểu nội tâm, nguyên do, duyên cớ, đến trình độ thẩm mỹ(mà hoa nở, sắc hoa v.v..)
Khi ngọn sóng tình nam nữ xiêu xiêu, Thiên Thần ướm hỏi, dò xét tâm trạng, ước muốn người khác phái, và sẵn sàng đáp ứng. Trưng bày những sản phẩm cụ thể, mua chuộc, quyến rũ. Kết cuộc "Kiếu ông em về" đã hóa giải hư thực của toàn bài.
Nói đến Bùi Giáng, không ít cây bút đề cập đến tác phẩm và tác giả từ trước và sau 1975. Có người lại cho rằng Bùi Giáng có những câu thơ xuất thần, và đồn đoán tác giả sáng tác trong cơn nửa mê, nửa cuồng. Điều này cần tìm hiểu thêm nữa sự nghiệp văn thơ và con người Bùi Giáng.
Riêng "Lời Sơn Nữ" rõ ràng Bùi Giáng dạt dào cảm xúc một tấm lòng trong, một tâm hồn sáng mà chất ngụ ngôn mang đặc tính luân lý, đạo đức, phẩm giá con người. Con người đúng nghĩa ở bất cứ không gian xã hội nào.
Hình tượng Sơn nữ qua Bùi Giáng óng ánh, rọi sáng nhân cách và luân lý của một con người giữa quê hương, cố quận núi rừng. "Kiếu ông em về", trở về với bản thể, tự ngã tự do cùng nhân quần tại thế.