Phạm Công Thiện |
Giác Ngộ
- Nhà thơ Phạm Công Thiện, pháp danh Nguyên Tánh, Tiến sĩ Triết học tại
Đại học Sorbonne - Pháp, nguyên Giáo sư Triết học tại Đại học Toulouse -
Pháp, nguyên Khoa trưởng Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn tại Đại
học Vạn Hạnh… đã xả thân tứ đại vào ngày 8-3, tại thành phố Houston,
Texas, Hoa Kỳ, hưởng thọ 71 tuổi.
Để trả lời cho bớt vẻ thần bí hơn, có lẽ nên nói rằng nhà thơ Phạm
Công Thiện đã đánh thức được nơi rất nhiều người niềm say đắm với cuộc
đời. Bất kể là nhân loại thường trực đối diện với biết bao nhiêu là hố
thẳm và hoang vu, chính niềm say đắm này đã và đang dẫn chúng ta đi qua
biết bao nhiêu là ngọn đồi mây trắng…
Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần
tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một
cặp kính cận dày cộp và chòm tóc trắng phất phơ… Có lẽ, nếu vẽ vài nét
trên giấy kiểu tốc họa thì thế như dường là đủ. Không, chưa đủ. Vậy thì
nghe thêm giọng nói Nam Bộ đặc biệt của anh. Hay là thêm khuôn mặt tròn,
và đôi mắt thơ ngây…
Nhưng tận cùng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ và là
một thiền sư - và đó là những phẩm chất rất khó hình dung, vì mỗi nhà
thơ và mỗi thiền sư đều có những độc đáo riêng. Và tôi tin rằng, khi nào
thân xác anh rời khỏi thế giới đời thường này, rất nhiều người sẽ gọi
Phạm Công Thiện là một vị Bồ tát, một danh hiệu tôn quý trong Phật giáo
và là một hạnh nguyện để chỉ một người tái sinh từ kiếp này sang kiếp
khác để giúp cho mọi người hiểu được thật nghĩa của vũ trụ. Trong những
năm qua, rất nhiều Tăng Ni, Phật tử đã gọi nhà thơ Bùi Giáng là một vị
Bồ tát, và tôi tin là sau này, Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn vinh như
thế, bất chấp những đời thường bất toàn mà chúng ta đôi khi gặp nơi
anh.
Thực sự, tôi đã nhìn anh như một vị Bồ tát từ những ngày tôi mới lớn, và ngay khi lần đầu đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lúc
đó, tôi đang học lớp đệ tứ, hay đệ tam ở Chu Văn An, Sài Gòn. Bây giờ
gọi là lớp 9 hay lớp 10. Đâu đó, khoảng giữa thập niên 1960. Dù là đọc
ngấu nghiến, nhưng một ngày không đủ, và đọc một tuần cũng không đủ. Vì
có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại, không hoàn toàn vì tính bí hiểm
triết lý, mà chỉ vì tính thơ mộng dị thường trong ngòi bút của anh. "Đi cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất…". Thế đấy, tôi đã đi như thế từ bốn thập niên trước trên các trang sách của anh.
Tôi đã ngồi ở sân chùa Xá Lợi, dưới các tàng cây ngọc
lan và bông sứ lần giở từng trang sách đó. Và rồi lại ngồi trong một
quán cà phê cách Trường Chu Văn An vài mươi bước, ngay lối vào Ký túc xá
Minh Mạng của các anh chị sinh viên lớn. Không phải chuyện ngồi đọc cho
ra vẻ triết gia, mà thực sự vì có những đoạn văn trong cuốn Ý thức mới
làm tôi run rẩy cả người. Từng trang một, giữa các dòng chữ của Phạm
Công Thiện toát ra một hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận. Và tuy là văn
xuôi, hầu hết, nhưng thi tính vẫn dày đặc kinh ngạc.
Lúc đó, tôi chưa từng gặp anh, nhưng lại có cảm giác
Phạm Công Thiện phải là một cái gì có màu xanh, phải liên hệ tới màu
xanh, thí dụ xanh da trời hay xanh lá cây. Không biết tại sao, nhưng
trong trí óc tôi lúc đó, là một thiếu niên say mê đọc sách và cứ nghĩ
tới triết gia Phạm Công Thiện là thấy hiện lên một màu xanh. Phải màu
xanh mới lạnh chứ. Vì từng trang Ý thức mới... đều mang theo hơi
lạnh đó. Trong đó, có hơi lạnh Đà Lạt, có sương mù Paris, có ngồi thiền
trên đồi vắng, có chất vấn về triết lý với cái búa của Nietzsche, với
hiện sinh Camus, và vân vân, và vân vân. Đủ thứ mà bây giờ tôi không thể
nhớ hết. Cứ mở trang sách ra, là hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận lại
toát ra từ các dòng chữ của anh. Bất kể lúc đó, tôi đang ngồi trong sân
chùa Xá Lợi, hay vài tuần sau nữa tới la cà tại các quán cà phê trên
đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đó có khi tôi ngồi ở quán cà phê Bình Minh
và có khi bước sang kế cận ngồi ở quán Hoàng Hôn, và nơi đó cứ mỗi
chiều trở về đêm là đèn đường hắt xuống màu vàng mờ nhạt làm tôi cứ ngỡ
mình đang ngồi giữa Paris đọc sách.
Mới biết, văn chương mạnh như thế. Sau này, nhiều
thập niên sau, khoảng đầu thập niên 1990, được cơ duyên gặp nhà thơ Phạm
Công Thiện tại quận Cam, California, tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao
thời mới lớn mình lại cứ hình dung anh ra một màu xanh. Nhớ lại mới ngạc
nhiên. Đúng ra, nếu phải liên kết với màu sắc, nơi anh phải là một màu
trắng. Tóc trắng một chòm, kính trắng dày cộp, đôi mắt cực kỳ ngây thơ,
khuôn mặt bầu, lại thường mặc áo trắng hay màu sáng. Và toàn thân Phạm
Công Thiện toát ra cả một màu trắng hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng tới tuổi
trung niên rồi, tôi không còn bận tâm chuyện màu sắc nữa, dù là người
hay chữ, hay mực, hay giấy. Thêm nữa, khi đọc lại anh, tôi không còn
nhiều rung động mạnh mẽ như thời mới lớn, dù là lòng tôn kính anh vẫn
không mờ nhạt trong tôi.
Nếu phải giải thích, có lẽ cảm giác màu trắng sau này
nhiều phần tôi có cũng từ một bài thơ của Phạm Công Thiện được nhạc sĩ
Lê Uyên Phương phổ nhạc. Trong bài thơ, tôi nhớ có những câu dị thường
như:
… Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây…
Và nhớ nhất là mấy chữ:
… Tôi đứng trên đồi mây trổ bông…
Thực sự, gọi Phạm Công Thiện bằng "anh" là điều không
phải lẽ đối với tôi, trên nguyên tắc. Vì tôi đã từng trực tiếp nghe
nhiều vị danh tăng gọi Phạm Công Thiện bằng danh xưng "thầy" rất là tôn
kính, trong những vị gọi như thế có những Thượng tọa hiện là tác giả và
dịch giả nhiều sách về Phật học. Dễ hiểu, Phạm Công Thiện đã từng dạy ở
Đại học Vạn Hạnh, nơi đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni và trí thức Phật
giáo.
Đứng về mặt đời thường, lý ra tôi cũng phải gọi anh
là thầy. Vì thực tế, Phạm Công Thiện còn là thầy của vợ tôi - nàng kể
lại rằng trong thập niên 1980 vẫn thường mỗi tuần sang chùa Liên Hoa,
trên đường Bixby, thị xã Garden Grove, quận Cam, để nghe thầy Thiện
giảng kinh Kim Cang.
"Không hiểu gì cả, nhưng ông Phạm Công Thiện dạy hay hơn mấy thầy khác nhiều, kể cả mấy thầy ở Đại học Vạn Hạnh hồi xưa". Đó là lời nàng kể, khi còn nhắc là năm 1974, nàng đã từng học miệt mài ở Đại học Vạn Hạnh…
Tại sao không hiểu gì hết, mà lại thấy hay? Tôi nghĩ, chỉ có kinh Phật và thơ mới thế thôi.
Như thế, đúng ra tôi phải gọi nhà thơ Phạm Công Thiện
bằng thầy. Nhưng cơ duyên lại là, lòng anh Thiện rất mực thoải mái,
không nghi lễ. Và tôi lại là bạn thân của các nhà thơ Lê Giang Trần,
Phạm Việt Cường… những người thân tình và thường uống rượu với anh. Nói
là uống rượu nghe có vẻ trần gian lắm, nhưng phải nhìn thấy Phạm Công
Thiện mới thấy là hoàn toàn không có gì gọi là trần gian nữa. Tất cả thế
gian quanh anh đều thoạt hiện ra như thơ, như văn, như nhạc, như họa…
Và cả đôi khi tôi ghé nhà Lê Giang Trần ở trong một khu mobile home chật
chội, u tối, tại Santa Ana và gặp anh Phạm Công Thiện đang ngồi trong
nhà Trần với chai rượu trên bàn. Tất cả thế gian đều như mộng, như
huyễn, như sương rơi, như điện chớp… Sự hiện diện của anh Phạm Công
Thiện như dường để nhắc tới tính vô thường đó.
Khi tôi tới quận Cam năm 1990, anh Phạm Công Thiện đã
tạm ngưng các lớp Phật học ở chùa Liên Hoa mấy năm rồi, nhưng thỉnh
thoảng tôi vẫn cơ may gặp nhà thơ dị thường này. Và nếu sau này có ai
muốn biết về các chuyện đời thường của Phạm Công Thiện, tôi nghĩ rằng
nhà thơ Lê Giang Trần có thể kể lại trên cả ngàn trang sách, vì cứ hễ
anh Thiện về quận Cam thì chỉ nghe về ở nhà Lê Giang Trần, một nhà thơ
cũng thơ mộng lạ lùng và dị thường. Còn thì, khi nghe tin anh đi Úc, khi
nghe nói anh lên ngụ ở chùa Diệu Pháp ở Los Angeles, và khi thì nghe đủ
thứ địa danh trên địa cầu. Nói thế, không có nghĩa Trần là bạn đời
thường của anh Thiện. Thực sự, nhà thơ Lê Giang Trần nhìn nhà thơ Phạm
Công Thiện như một vị Bồ tát. Một hóa thân, không thể khác hơn được,
trong mắt của Trần.
Người ta không thể hình dung hết những tôn kính mà
nhiều người dành cho Phạm Công Thiện. Bất kể là anh đã từng sống rất đời
thường, hệt như bao nhiêu người khác giữa phố chợ trần gian. Bất kể là
anh cũng viết báo lung tung, cũng một thời tranh luận từ trước 1975 tại
Sài Gòn, và rồi lại viết báo tranh luận tại Los Angeles thời 1980 sau
này. Và bất kể là anh uống rượu cũng tưng bừng, cũng mấy lần vợ con,
cũng thích hút thuốc lá, cũng nhiều thứ rất trần gian… Nên thấy, trong
những người tôn kính Phạm Công Thiện có nhiều vị sư, có nhiều nhà thơ,
và tôi tin là không thể đếm hết.
Không phải những người đó tôn kính Phạm Công Thiện
chỉ vì anh từng là giáo sư Đại học Vạn Hạnh (nơi này có cả trăm giáo sư
chứ), hay vì anh làm thơ hay (trước và sau anh cũng có nhiều nhà thơ
xuất sắc chứ), hay vì anh đã hùng biện để bảo vệ Phật giáo (đâu có mấy
ai nhớ anh đã gây lộn với ai, và về đề tài gì), hay vì anh có thể vừa
mới rời một quán nhậu nơi đường Westminster là bước vào ngôi chùa đường
Bixby giảng kinh Kim Cang mà vẫn dạy hay hơn tất cả các ông sư
trên đời này (có thể, nhưng chi tiết này cần phải kiểm chứng, vì các vị
giảng sư chưa chắc đã đồng ý là có ai giảng kinh này hay hơn họ), hay vì
anh mỗi lần vào thư viện Mỹ là mượn ra cùng một lúc 30 cuốn về đọc tốc
độ còn mau hơn các thiếu niên Sài Gòn đọc truyện võ hiệp Kim Dung (tôi
tin có người còn đọc nhanh hơn), và vân vân…
Có thể vì vai trò của Phạm Công Thiện trong sự phát
triển Phật giáo cũng lớn lao? Thực ra, có nhiều vị đã đóng góp cho Phật
giáo nhiều hơn anh nhiều. Thí dụ, như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám,
HT.Minh Châu, HT.Trí Thủ, HT.Thanh Từ, HT.Nhất Hạnh, TT.Tuệ Sỹ, GS.Lê
Mạnh Thát… Thực sự, Phạm Công Thiện không viết nhiều về Phật giáo.
Còn nói về các chức vụ chính thức thì Phạm Công Thiện
cũng không hơn nhiều vị khác, dù anh từng là "nguyên Giáo sư Triết học
Tây phương Viện Đại học Toulouse, Pháp quốc; nguyên Giáo sư Phật giáo
Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ; nguyên Giám đốc
soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa Viện Đại
học Vạn Hạnh từ năm 1966-1968; nguyên Khoa trưởng Phân khoa Văn học và
Khoa học Nhân văn của Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1968-1970; sáng lập
viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, 1966-1970" (theo phần chú thích trong bài "Hai vị thiền sư,"
Phạm Công Thiện viết tại California ngày 18.10.1988 về TT.Tuệ Sỹ và
TT.Trí Siêu, vị sau này thường dùng tên là GS.Lê Mạnh Thát. Báo Nguồn Sống số 16-17, 1989, San Jose, California).
Vậy mà, cũng như nhà thơ Lê Giang Trần nói trên, tôi
tin Phạm Công Thiện phải là một kiểu hóa thân Bồ tát. Nếu Tây Tạng có
các hóa thân Đạt lai Lạt ma, Ban thiền Lạt ma, Karmapa, Rinpoche, vân
vân… thì Việt Nam mình ngay trong thời này cũng có các hóa thân Bồ tát
như các nhà thơ Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Bạn không tin? Hãy
hỏi các vị sư Sài Gòn ở thế hệ trung niên trở lên, như dường cũng có
nhiều vị sư chia sẻ niềm tin như thế.
Còn nói theo kiểu bây giờ, thì Phạm Công Thiện đã
xuất hiện trong Phật giáo một cách "rất là ấn tượng." Chuyện Phạm Công
Thiện trở thành nhà sư Thích Nguyên Tánh thì cũng có nhiều người biết,
và vẫn được truyền tụng hoài. Nhưng nơi đây, để nghe tận nguồn, chúng ta
hãy nghe nhà thơ Quách Tấn kể lại, trong "Hồi ký về Thượng tọa Thích Trí Thủ"
(http://www.phatviet.com/vanhoc/vh008.htm), khi giới thiệu anh Thiện
với Thượng tọa Trí Thủ (lúc giữ chức Giám viện Phật học viện Hải Đức,
nơi thi sĩ Quách Tấn dạy các Tăng Ni môn Quốc văn), trích:
Khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện bị khủng hoảng
tinh thần, ở Mỹ Tho ra Nha Trang an dưỡng. Lên chơi chùa Hải Đức, Thiện
ước được sống trong cảnh u tịch trong ít lâu để lấy lại sức khỏe. Tôi
liền đến xin Thượng tọa, và tỏ thật rằng Thiện là một thiên tài và là
người Cơ Đốc giáo, mọi người trong chùa tỏ ý không bằng lòng. Thượng tọa
cười:
"Không hề gì, có bác Quách bảo đảm".
Nhưng để "đề phòng", Thượng tọa cho dọn một căn phòng dưới xưởng làm hương để Thiện ở, trưa chiều lên chùa ăn cơm.
Được nơi ăn chốn ở vừa ý, Thiện bảo tôi:
"Để đền ơn ông, tôi xin hẹn trong sáu tháng sẽ đọc và hiểu được kinh chữ Hán".
Tôi không dám tin, nhưng cũng không dám ngờ.
Ở Trại Thủy, cả ngày Thiện nằm đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Thiện và Thượng tọa Trí Thủ. Một hôm Thượng tọa bảo tôi:
"Anh chàng có đạo tâm".
Tôi cười thầm trong bụng: "Đạo Thiên Chúa hay đạo Phật".
Ba tháng sau, tôi lên Hải Đức, không thấy Thiện nơi
xưởng hương. Hỏi người làm hương trong xưởng cho biết rằng Thượng tọa
Trí Thủ đem anh lên ở nơi cốc của Thượng tọa hơn một tháng rồi.
Tôi bèn leo dốc lên cốc: một nhà sư trẻ đang ngồi xếp
bằng ngay ngắn, mắt lim dim trên chiếc ghế dài nơi cốc. Nhìn kỹ thì là
Phạm Công Thiện! Rõ là một nhà sư 100 phần trăm. Thiện ngồi yên, tôi
lẳng lặng đi vào cốc. Thượng tọa Trí Thủ mừng rỡ, muốn gọi Thiện. Tôi
"xin đừng". Sau mấy câu hàn ôn như thường lệ, Thượng tọa nói:
"Thiện quy y với tôi rồi, tôi đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh".
Tôi không tỏ ý tán thành cũng không tỏ ý phản đối. Đối với Thiện quy y cũng thế mà không quy y vẫn thế.
Mấy tháng sau - tháng 9 năm 1964. Tôi lên Hải Đức một
lần nữa. Cốc đóng - người trong chùa cho biết Thượng tọa cùng Thiện vào
Sài Gòn, còn lâu mới về. Tôi cảm thấy bùi ngùi như nhớ nhung, như
thương tiếc.
Tôi ngẫu chiếm một tuyệt:
Lịu địu
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
Sau nghe tin Thiện dạy học ở Đại học Vạn Hạnh, rồi đi
Mỹ, đi Pháp. Còn Thượng tọa Thích Trí Thủ thì trụ trì chùa Già Lam, rồi
được phong Hòa thượng, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm chùa cũ và
nghỉ ngơi. Thiện thì từ ngày từ giã Nha Trang, tôi không còn gặp lại…" .
Bây giờ Phạm Công Thiện không viết nhiều như ngày xưa
nữa. Những cuốn sách gần đây đa số là viết về Phật A Di Đà và Bồ tát
Quan Thế Âm. Từ lâu, anh cũng không làm thơ nhiều nữa. Những tác phẩm
thời trẻ của anh, khoảng hơn hai mươi cuốn, còn được quần chúng nhớ đặc
biệt là vài cuốn, như: Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, Tổ sư Thiền tông (1964), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Ngày sanh của rắn (1967)… Cuốn được nhớ tên nhất tại hải ngoại của Phạm Công Thiện, có lẽ là cuốn Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)…
Nhưng đêm hoang vu của anh vẫn chưa hết, cho nên vẫn
thấy anh đi liên tục. Để theo dõi bước đi một đoạn đời của anh, hãy
trích một chút sau đây từ cuốn Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng của Phạm Công Thiện, xuất bản 1994 tại Los Angeles, từ Lời nói đầu:
"Quyển sách này được viết chậm rãi thong dong từ trên
10 năm nay, từ năm 1983 tại Los Angeles và tại những vùng phụ cận Los
Angeles, California, Hoa Kỳ. Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do
Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một
cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ,
trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ
năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển
động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở
thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc
châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn
nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình…".
Bây giờ Phạm Công Thiện vẫn còn đi. Và đôi khi vẫn còn viết - như một nghiệp tiền định của anh.
Nếu bạn nhớ rằng Phạm Công Thiện sinh năm 1941 thì mới kinh ngạc, khi biết rằng anh in cuốn Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma
năm 1964, nghĩa là khi mới 23 tuổi. Nơi đây, chúng ta không nói chuyện
cuốn sách anh viết đã có giúp gì cho ai về mặt giác ngộ hay không
(chuyện này, khó có thước đo), nhưng chỉ nói về đề tài để khảo sát, suy
nghĩ và viết xuống thì đã là một điều hết sức dị thường. Tôi từng đọc
rằng khi anh còn ở tuổi vị thành niên, anh đã soạn một cuốn Tự điển Anh ngữ tinh âm,
nhưng vì tôi chưa bao giờ đọc cuốn này cho nên không dám bàn. Nhưng ở
tuổi 23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ
mộng, một khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền
tông, đúng hay sai và mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò…
Nhưng vì sao một người đời thường lại được cả các Tăng Ni tôn kính? Mà
người đời thường này, anh Phạm Công Thiện, lại không hề biết cách kiếm
tiền… Tôi nghĩ, nhiều phần là trong các kiếp trước, Phạm Công Thiện đã
từng là thầy, từng là bậc tôn túc của các vị Tăng Ni kia, và của nhiều
cư sĩ đời thường như tôi…
Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một
danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức
Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng nhà thơ
Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm
Công Thiện cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, kinh Pháp Hoa
cũng viết rằng tất cả mọi người đều là Phật - và bây giờ nhiều người
trong chúng ta đã quen thuộc với cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Đạt
lai Lạt ma là Bồ tát Quan Thế Âm, gọi ngài Ban thiền Lạt ma là Phật A Di
Đà hóa thân…
Phan Tấn Hải