văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, August 23, 2021

Lương Thư Trung ** VÀI NHẬN ĐỊNH TIÊU BIỂU VỀ CÁC TÁC PHẨM CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC



Với tập thơ “Tình Người” xuất bản năm 1967, đến tuyển tập “Tôi Học Phật” (Phiên bản 2, 2021), như vậy trong vòng 54 năm, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có cả thảy 57 quyển sách đã xuất bản, đủ các thể loại, gồm: Thơ, Văn (Tùy bút), Y Học Thường Thức, và Phật học. Cùng với số lượng các tác phẩm nhiều như vậy, sau khi đọc sách của Đỗ Hồng Ngọc, có rất nhiều tác giả tên tuổi viết bài nhận định về các tác phẩm ấy của ông; tôi thiển nghĩ, không riêng gì tác giả của “Tình Người”, của “Thơ Đỗ Nghê”, của “Tôi Học Phật”, vân.vân…, mà bất cứ người làm sách nào có được nhiều người quan tâm như vậy chắc chắn không gì vui và hạnh phúc cho bằng!

Ở đây, trong giới hạn của việc đọc và hiểu về sách vở, với cái nhìn thô thiển của một người đọc nhà quê già như tôi, tôi xin mời bạn đọc thử lại vài bài nhận định tiêu biểu của vài tác giả viết về các tác phẩm của ông mà tôi vừa chắt mót được, để coi các tác giả ấy nói gì về văn thơ của Đỗ Hồng Ngọc.

Dà, những bài nhận định này trải dài từ năm 1972 đến năm 2021, có thể bạn đã hơn một lần nhìn thấy nó quen quen ở đâu đó rồi, và dĩ nhiên, có thể nó rất xưa, rất cũ nữa; nhưng không sao, xin bạn đừng lo, bởi văn chương nào hay và giá trị mà không qua cái ải gạn lọc của thời gian bao giờ?

Vậy nhe, xin mời bạn. 

(Hai Trầu LTT)

I/ NGUYỄN HIẾN LÊ 

Lời “TỰA” cuốn “NHỮNG TẬT BỆNH THÔNG THƯỜNG TRONG LỨA TUỔI HỌC TRÒ”(Do nhà La Ngà xuất bản, Lá Bối tổng phát hành, 1972)

“Tôi được quen Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ mười mấy năm trước. Hồi đó ông là một thanh niên ít nói, đa cảm, thành thực, giản dị, có nhiệt tâm và yêu văn nghệ. Khi còn học y khoa, ông đã có thơ, văn đăng báo và ông đã là một trong những sinh viên tranh đấu kiên nhẫn nhất để tiếng Việt được dùng làm chuyển ngữ ở Đại học. Ông nghĩ rằng một nhà trí thức Việt Nam, ngoài công việc chuyên môn ra, phải phổ biến những kiến thức của mình trong đại chúng thì mới có thể gọi là làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn này được. 

Tôi mến ông ở điểm đó và hôm nay tôi mừng rằng ông đã bắt đầu thực hiện được chí hướng. 

Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc gìn giữ sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì.Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ “vô trách nhiệm” đó. 

Tôi không biết gì về y khoa, nhưng tôi thấy nhiều điều ông khuyên trong chương I (bệnh cận thị…), chương VIII (bệnh nhức đầu), chương IX (bệnh bón)… rất có lương tri, giá được biết từ hồi thiếu niên thì có lợi cho tôi lắm. 

Một điểm đáng khen nữa là ông không có thành kiến, cái gì không biết thì nhận là không biết, lại có công tâm, như khi nhận xét về phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa… 

Chương tôi thích nhất, và theo tôi, cũng ích lợi nhất, là chương cuối: “Đi khám bác sĩ”. Từ lâu tôi vẫn mong có ai chỉ dẫn cho tôi hiểu tâm lý, trọng trách cùng nhiệm vụ của y sĩ, bệnh nhân nên có thái độ ra sao, khi đi y sĩ, nên “hợp tác” với y sĩ cách nào để cho bệnh mau hết, nên dùng thuốc ra sao v.v… và bây giờ mới thấy Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trình bày rành mạch sơ lược những kiến thức thông thường cần thiết cho mọi người đó. Tôi mong rằng sau này ông sẽ đào sâu vần đề mà viết thành một tập riêng. 

Văn ông lưu loát, sáng sủa, giọng ông thân mật, nhiều chỗ dí dỏm: 

“Trừ một số ít được uống nước sâm trong những ngày học thi (và thường thì thi rớt) còn phần lớn các em phải đi làm thêm một buổi để có chút đỉnh tiền” (chương 18) 

Có chỗ mỉa mai chua chát một cách nhẹ nhàng: 

“Vì nếu thi rớt, ở thời đại chúng ta không phải em chỉ bị ăn ớt (thi không ăn ớt thế mà cay- Tú Xương) mà có khi còn bị ăn đạn!” (chương 22) 

Có chỗ lại nên thơ: 

“Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (chương 17) 

Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị… 

Sài Gòn Tết Nhâm Tý (1972)

Nguyễn Hiến Lê.

II/ LỮ KIỀU-THÂN TRỌNG MINH 

VÀI DÒNG SAU MỘT TẬP THƠ 

Đọc xong một tập thơ, cảm tưởng hoàn toàn tùy thuộc phía người đọc – cho nên, viết thêm vài dòng về tập thơ là công việc thừa thải. Xác định điều đó, tôi tưởng như vậy có thể từ chối viết về anh – anh bạn Đỗ Nghê. 

Tôi muốn anh đến với người đọc thơ anh một mình.Nhưng hôm nay, tập thơ anh đã thực hiện xong, Anh muốn tôi viết vài dòng.Công việc quả thật khó khăn với tôi.Viết về thơ anh? Tại sao phải viết về thơ anh, khi những dòng thơ đã ào ào muôn ý nghĩa – Tự nó nói lên từng thao thức của anh, nằm trong thao thức chung của thế hệ chúng ta?

Phải, thơ anh đã là một sự đầy đủ không cần bổ sung, nhất là với tôi – mà sự thân tình giữa chúng ta đã làm tôi trở nên chủ quan thái quá. 

Nhưng còn viết về đời sống của anh trong những năm anh làm tập thơ này?Đây là ý kiến của một người bạn khác.Có lẽ, trong một ý nghĩa nào đó, tôi có thể viết về đời sống ấy, cho dù điều đó có chạm đến tính khiêm nhường của anh.  

Đời sống của anh? Ta phải bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Có lẽ từ tuổi hai mươi, khi chúng ta theo đuổi ngành Y khoa. Đó là năm 1963, trong buổi chiều nhạt nhòa ánh sáng, ở khu cơ thể học viện, tôi nhìn thấy anh đang lúi húi bên một xác chết, tay cầm dao, giải phẩu từng thớ thịt, từng đường máu, từng sợi gân. Bấy giờ chúng ta đang học về con người trong nghĩa đen của nó, tôi thấy anh đeo kính cận thị – khuôn mặt hồn nhiên, hơi mộc mạc giữa đám bạn bè – có lẽ vì màu da ngâm đen, mái tóc hơi quăn, rồi tôi nghe giọng anh nói, giọng nói vùng Bình Tuy hơi lạ tai, nhưng êm ái, không lớn, không nhỏ. Tôi nhìn thấy anh cười – không quá vui, không quá lộ, tôi cũng nhìn thấy anh nhíu mày nhìn xác chết – cái nhíu mày không quá xót xa, đau đớn. Tóm lại anh mang hình ảnh của một chàng sinh viên hiền lành, trầm tĩnh, tiết độ. Ấn tượng về sau để lại trong tôi một định kiến đặc biệt, và xác định với tôi một tĩnh từ mà tôi muốn dành riêng cho anh: Một người nghiêm túc. 

Hơn mười năm qua, tôi đã không nhầm về anh. Một người nghiêm túc. Và điều quan trọng là anh làm thơ. Thơ anh cũng giống người anh vậy.

Hình như chúng ta chỉ bắt đầu thân nhau, khi cùng làm báo Tình Thương; những bài thơ anh ký Đỗ Nghê xuất hiện trên tờ báo của trường, những bài thơ, thoạt đầu không gây một chú ý nào quan trọng. Nhưng về sau, những số báo thiếu thơ anh, cho tôi cái cảm tưởng trống vắng điều gì đó. 

Điều gì?Phải chăng là nét đặc thù của thơ anh. Tôi phải diễn đạt thế nào cho đúng?

Đầu tiên, anh là người tha thiết với quê nhà – anh sống và làm quen với Sàigòn là một điều không tự nhiên. Tuy nhiên, Sàigòn đối với chúng ta là một thực tế phải chấp nhận, cho nên chúng ta phải hòa mình với bạn bè, trường học, bệnh viện – Hòa nhi bất đồng, phải thế không anh? 

Những bài thơ anh làm thời 59-60 về Phan Thiết, về Lagi, về Rạng – Những bài thơ anh làm ở lứa tuổi chưa đầy hai mươi mà ngôn ngữ thi ca đã già cỗi như thời tam thập nhi lập, đã chứng cho điều đó. Chính anh cũng xác nhận những bài thơ đầu tiên của anh là những bài Đường luật! 

Và chính trong thời sinh viên, mà những biến động lịch sử đã vây đời ta tứ phía. Anh dự vào cuộc đấu tranh bằng tinh thần ôn hòa, trí thức, và nhất là trầm tỉnh. Lúc con người nghệ sĩ của anh tỏ rạng. Những cuộc xuống đường, hội thảo, gậy gộc, lựu đạn cay của thời 1966. Anh nhớ không, bao giờ chúng ta cũng có mặt, chúng ta cũng đã từng chạy vào những ngỏ hẻm Phan Đình Phùng để thoát thân, nhưng với anh, không bao giờ có sự phẫn nộ quá đáng, anh đưa tôi xem “Tâm sự Lạc Long Quân”, “Niềm tin”, “Lời ru”, “Cổ tích về ngôn ngữ”… những đêm cùng nhau trực gác ở Bệnh viện Nhi đồng, trong những đêm rất khuya, trên lầu 3 nội trú. Anh là một nghệ sĩ chứ không phải tay xách động. Rõ ràng như vậy. Nhưng những bài thơ anh, quả thật đã kích thích bạn bè lúc bấy giờ, gây cho họ một bầu máu nóng sôi sục. Càng đọc, càng chua cay, càng đọc càng muốn bạo động. 

Thời trẻ rồi qua đi. Đã đến lúc chúng ta phải nghiêm trang đặt vấn đề với lịch sử. Bài “Điệp khúc” của anh ra đời. Đó là những câu hỏi thành thật, thẳng thắn mà anh đặt ra với những bậc đàn anh của chúng ta… Có lẽ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ – một lần cho xong, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm – nằm trong sự nghiêm túc của anh. 

Năm 1969 – Chúng ta rời mái trường Y khoa. Anh về một bệnh viện ở Nha Trang. Tôi ra một bệnh viện ở Đảo, giữa những người tù. Chính thời gian quân ngũ đã dạy cho ta nhiều điều. Những điều mà suốt bảy năm miệt mài nơi trường học, bệnh viện, các bậc thầy không dạy ta.Thời gian này anh bị bạo bệnh. Cơn loét dạ dày đã làm anh vật vả, đem anh đến gần cái chết. 

Từ đảo về, tôi tìm đến thăm anh ở bệnh viện, người anh xanh như tàu lá – quả thật anh đã cận kề với cái chết của chính anh, như tôi đã kề cận với cái chết của những tù binh ngoài đảo. Hình như hôm ấy chúng ta không nói gì, anh không còn hơi sức để nói, nhưng anh đã mỉm cười. Một nụ cười nồng thắm làm lòng tôi se sắt. Tôi biết, kề bên cái chết lòng yêu đời phục sinh ta! 

Tôi không nhầm – những bài “Niềm tin chưa mất”, “Bông hồng cho tuổi thơ” đã xác nhận với tôi điều đó. Phải rồi, anh là kẻ yêu cuộc đời này, dù bất hòa với nó.

Anh Lê Văn Ngăn nói đúng, có lẽ viết về anh, một dạng thức viết về tôi – là một điều dễ dàng. Nhưng thật sự thì nó chẳng soi tỏ được gì. Có lẽ nó là một thứ phụ đề vào thời gian tính của tập thơ anh.

Vậy một lần nữa, tôi thật ân hận nếu những dòng trên chạm đến tính khiêm tốn của anh.  Có nó, hay không có nó, anh cũng đã làm thơ, đã in thơ, và đã có nhiều người đọc thơ anh.

Vậy, anh hãy đến với họ một mình. 

Lữ Kiều-Thân Trọng Minh 

 (Sài Gòn, 1973)

[Lời “BẠT” cho thi phẩm “THƠ ĐỖ NGHÊ”]  

III/ NGUYỄN LỆ UYÊN

ĐỖ HỒNG NGỌC, KHÓI TRỜI PHƯƠNG ĐÔNG

 “Thầy thuốc là để cứu người.

Nhà văn là để cứu đời”

(Nglu)

Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, gồm nhiều thể loại: Thơ, tuỳ bút, tạp văn, y học và cả Phật học… không biết nên xếp Đỗ Hồng Ngọc vào hàng ghế nào cho thật chuẩn. Nhà thơ, thầy thuốc,  nhà nghiên cứu, nhà văn? Đối với ông, vị trí nào cũng chính xác. Bởi những gì ông viết, đã xuất bản và đến tay độc giả đều tròn đầy, khiến họ thích thú đến bất ngờ, vì ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của ông về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới thấu lẽ, à lên một tiếng, vài ba tiếng, tùy theo tâm trạng mỗi người kèm với không gian, thời gian của người đọc: nó có đấy mà sao ta không thể nhìn thấy, ta không hề nghĩ ra được nhỉ? Những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, qua ngòi bút của ông hoá ra quá đỗi mới lạ; nói theo ngôn ngữ Đỗ Hồng Ngọc là ngòi bút ông đã hoá giải, đã khải thị giúp ta từ những cách nhìn, nghĩ một cách hạn hẹp, quanh co cạnh ta thành rộng ra để ta “như thị”? 

Từ những bài tuỳ bút cho đến thơ, ông không hề đùa cợt với chữ nghĩa, thổi phồng mọi sự vật… để nhắn gửi cho mọi người, cho mai sau. Ông cẩn thận quan sát những hiện tượng quanh mình, trong chính cuộc đời mình y như người thầy thuốc chẩn đoán căn bệnh cho bệnh nhân. Mà đúng vậy, ngay trong quyển Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (NTBTTTLTHT), La Ngà xuất bản năm 1972, ông đã giải mã những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi dậy thì, nào là phòng ngừa cận, viễn, loạn thị, trĩ, táo bón, đái dầm… bệnh biếng học cho tới những vấn đề tâm sinh lý thầm kín khó chia sẻ với cha mẹ… như thể tất cả những thứ tật bệnh ấy ông đã từng nếm trải, rồi tập hợp lại thành một kinh nghiệm sống cho các cô cậu ở tuổi học trò? Đã đành ông là bác sĩ nhi khoa, nhưng ngôn ngữ diễn đạt không phải là ngôn ngữ của một ông thầy thuốc khám bệnh, kê đơn mà là ngôn ngữ của một chàng nghệ sĩ vừa bóc tách sự thật trần trụi vừa xoa dịu nó bằng một thủ thuật của tiếng gió luồn lách trong những bụi tre buổi xế trưa. Hãy nghe ông viết về bệnh biếng học và cách điều trị: “… nếu có một ngày nào đó, em bổng nhiên thấy mình làm biếng kinh khủng, không còn muốn ngó ngàng gì đến sách vở, thì em hãy nghĩ ngay đến điều này: phải chăng em chán ngán sách vở, bài học vì đã “ứ” đến tận cổ? Vì trí óc em đã “saturé” không còn có thể nhồi nhét gì thêm… Tình trạng biếng học “cấp tính” này sẽ qua rất mau, với một thứ thuốc rất hiệu nghiệm – không phải là cà phê, trà lipton đâu nhé – mà là vứt sách vở đi, rong chơi ngoài đường một buổi chiều, câu cá cũng được, đá banh càng tốt… Sau đó ngủ một giấc cho đầy.Tỉnh dậy bảo đảm sẽ “ghiền” học trở lại”.(NTBTTTLTHT, trg 213-214, La Ngà, SG 1972).

Cũng trong tập này, ở chương 17, nói về Chiều cao, cân nặng, ông mở đầu còn hơn cả một đoạn thơ xuôi: “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe cơ thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya” (Sđd, trg 142). Điều này khiến người đọc không cảm thấy chán ngán, trái lại, tạo sự tò mò, dù tiếp sau đó là những con số thống kê, biểu đồ, toán học! Có đến 8 đầu sách ông viết cho tuổi mới lớn, mà quyển nào cũng bổ ích, cũng thiết thực trong đời sống của “lũ trẻ”. 

Tôi đã nhận những quyển sách ông tặng về đề tài này và đọc. Đọc một mạch, đọc với bao điều thích thú và sau đó “té ngửa” ra rằng mình hồi nhỏ cũng có lắm điều sai phạm với chính cơ thể mình! Hèn chi ngay cả học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một bài tựa cho quyển NTBTTTLTHT của Đỗ Hồng Ngọc, đã viết: “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.

Với những người bạn nhỏ, ông đã chăm chút như thể chúng là người ruột thịt, còn với người lớn thì sao? Ông cũng sẻ chia, đưa ra một vài nhận xét nho nhỏ nhưng lại chính xác đến từng li mét. Lướt qua những tập Già  ơi… Chào bạn, Thư gửi người bận rộn hay Gió heo may đã về… người đọc sẽ thấy được tấm lòng chân thật của ông. Những điều ông viết ra, có thể đúng với người này, hơi đúng đúng với người kia và hơi sai sai với người nọ, vì cảnh sống có khác nhau, ý thích khác nhau, suy nghĩ không mấy giống nhau, nhưng tựu trung vẫn là những gì ta có thể nhìn thấy một chút hình bóng của chính mình ẩn hiện đâu đó trong từng câu, từng đoạn. Ngay từ lời ngỏ trong quyển Gió  heo may đã về (nxb Văn Nghệ Tp HCM, SG 1997), ông đã có lời thưa trước: “Vậy, hỡi những người bạn yêu quý của tôi, xin hãy vui với những dòng chữ chân tình này, và nếu có bực mình thì cứ tự nhủ làm gì có, hù doạ đó thôi… còn nếu có bắt gặp hình ảnh chính mình trong những dòng chữ này thì cũng hãy mỉm cười mà thứ lỗi… Vì sáng hôm nay, một chút gió heo may đã về, những chiếc lá vàng đã rơi lác đác trên những con đường thành phố, một mùi gió bấc quen thuộc đã len vào giữa những hàng cây…” (Sđd, trg 7). 

Ông viết những gì trong đó đến nỗi khiến ta phải “bực mình” hay “mỉm cười” khi mở từng trang sách? Thưa ngay, ông viết đủ điều, đủ loại, từ tâm lý, tình cảm đến vật chất, sinh lý.v.v. nghĩa là những “thứ” nó bắt đầu bám vào cái tuổi không còn “hườm hườm” mà đang trong thời kỳ “gió heo may đã về”, tức thị một phần tư chân ở bên mép “bất hoặc”, còn lại là những dấu hiệu sắp gặp gỡ, chung sống trong “thế giói đại đồng” dưới 3 thước đất! Cái thế giới ấy, nhìn chung rất hiếm người muốn gặp, dẫu là “đại đồng”, nhưng đọc để biết trước vẫn là điều hăm hở, thu hút; cũng chẳng phải vì tò mò mà, hơn hết là để biết đó có phải là sự thật hiển nhiên không. Tuổi “heo may” ấy, khốn nỗi không ai có thể cưỡng chống được. Phải chấp nhận như một qui luật tất yếu. Chúng ta hãy đọc thử một đoạn ngắn, khi ông cảm nhận một cách nhẩn nha mà thấu lý ở tuổi già cận kề: “Tuổi chớm già, ấy là tuổi của chuyển tiếp, của lúng túng, hoang mang, tuổi của những stress, của những lo âu và phiền muộn, của những mối hiểm nguy rình rập về sức khoẻ, về quan hệ gia đình, xã hội… dồng thời tuổi chớm già cũng là tuổi của thành tựu, của thành đạt… Cái người ta dễ thấy nhất là những thay đổi sinh lý: hết khả năng sinh sản, giảm đời sống tình dục. Rồi luyến tiếc dĩ vãng, nhớ cái thuở trẻ trung, cái thời nhan sắc. Một nỗi buồn man mác chợt đến dù không nói ra, dù gắng gượng quên đi…” (Sđd, trg 18).

Bạn không đồng ý với cách nhìn nhận về tuổi chớm già của Đỗ Hồng Ngọc ư? Sai sót chăng?Khiên cưỡng chăng?Trái lại và trừ phi các bậc thiền sư chân chính mới có phản biện, nhưng chưa hẳn đã là tuyệt đối. Nhưng để giải quyết một cách rốt ráo cho vấn đề vừa nêu trên, ông cũng chừa vài đoạn gọi là “lại quả”, ấy là: “Ở đàn ông còn thấy có hiện tượng “vùng lên”, vớt vát, tìm kiếm những cuộc tình dễ dãi, “bồ nhí”, “bia ôm”… để chứng minh chút nam tính còn sót lại của mình… Ở phụ nữ không phải là không có một giai đoạn gần như vậy, người ta vẫn thường gọi đó là tuổi “hồi xuân” (Sđd, trg 51). 

Ngày trước đọc Bonjour tristesse của F. Sagan trong bối cảnh chiến tranh lan rộng, tàn khốc, là đọc để giải toả những phiền muộn qua nhân vật nữ, là một cô gái thông minh, hoà nhập vào nếp sống hiện đại, thời thượng mang nhiều yếu tố hiện sinh, buồn chán, nó biểu tỏ một thái độ của một cá nhân trước xã hội, rộng ra là thời đại. Nay được đọc Đỗ Hồng Ngọc, cũng “chào” nhưng lại là Già  ơi… chào bạn, ở một thái cực khác: từ ngạc nhiên đến vui vẻ chấp nhận cái quy luật muôn thuở đến với con người một cách thanh thản, không thắc mắc, vướng bận. Có lẽ, do ông hiểu rất rõ những gì xảy ra với mình trong thời gian nằm ở bệnh viện An Bình sau khi mổ sọ não do tai biến mạch máu não, nên không băn khoăn đặt câu hỏi “tại sao” hay thế này thế nọ, như các nhà văn phương Tây. Đây cũng là thời kỳ ông “ngộ” ra lắm điều, dẫn đến việc ông nắm bắt được phần nào các bộ kinh Phật, đặc biệt là Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh và chuyển cái sự hiểu đó đến người đọc, dẫu cho có nhiều chỗ cần phải bàn lại. Nhưng cốt lõi, theo ông: “Tôi thấy nó phóng khoáng, nó “lật đổ” tất cả những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ; nó có khả năng hoà đồng, khả năng giúp cho mọi người có trách nhiệm hơn với chính mình, thương người, thương cuộc sống, biết thưởng thức … cuộc sống với một chất lượng cao hơn… có hạnh phúc hơn; biết tha thứ, biết buông xả… nó có thể giúp cho những người đang mang mặc cảm tội lỗi thoát ra khỏi chính mình…” (Nghĩ từ trái tim, trg 8 nxb tổng hợp tp. HCM, SG 2003). 

Trong chúng ta, những con người luôn chạy đua với áo cơm, mấy ai thấu triệt nghĩa lý Tâm Kinh chứ chưa nói là thực hành, mặc dù chỉ có vỏn vẹn 260 chữ?

Chỉ có vậy, không hơn, nhưng một khi đã “hành trì” vào Tâm Kinh, quán triệt nó đến tận cùng thì mới thấy vẻ đẹp uyên áo, những thâm hậu vi diệu của nó, bởi nó như một ngọn roi quất vào chỗ u nhược, làm đảo lộn mọi suy nghĩ hời hợt, phủ định mọi thành kiến về Phật, Thập nhị nhân duyên… như ông hiểu và nói ra.

 Với Tâm Kinh thì, không phải để “tri” mà để “hành”. Nhưng “ hành” như thế nào để “đáo bỉ ngạn” là điều không phải ai cũng “hành’ được. Khó và khó vô cùng. Nơi ai cũng muốn đặt chân đến và bỏ chân ra là thiên đàng và địa ngục. Có hai thế giới này thật không, nó ở đâu? Từ chiếu kiến ngũ uẩn giai không, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra: “Niết bàn hay địa ngục là do ta tự tạo ra cho mình, nó ở ngay trong ta thôi: Giận dữ, ngờ vực, sợ hãi, lo âu… tiêu hao của ta rất nhiều năng lượng, đốt cháy ta từ tầng này đến lớp khác chẳng phải là hình ảnh của địa ngục ư? Còn niềm vui, an lạc, hạnh phúc, vô uý… làm ta như chấp cánh bay lên, quên cả thời gian, không gian, chẳng phải là hình ảnh của thiên đàng, niết bàn ư?” (NTTT, trg 132). 

Đọc Nghĩ từ trái tim, gấp sách lại, ta thấy như mình vừa được kéo ra khỏi bóng tối lùng nhùng, đến nỗi GS. Trần Văn Khê cũng phải thốt lên: “Tâm kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời…” 

Những điều ở bên ngoài đời sống, Đỗ Hồng Ngọc đã một phần nhìn ra giá trị của cái tầm thường, như câu chuyện ngày trước, một nhà sư khi nhìn thấy núi, thấy sông vẫn cứ là núi là sông, sau nhờ có bậc tri thức khai mở huệ nhãn thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông, đến lúc thể nhập chốn tĩnh mịch, u nhàn, lại thấy núi là núi, sông là sông. Nói  chung là ông đã “như thị”. 

Trần Văn Khê đã đưa ra nhận xét: “Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế”. 

Hoá ra và bởi vì Đỗ Hồng Ngọc có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế. Vậy thì chúng ta thử bước vào thế giới văn chương của ông:

Ông làm thơ trước khi viết văn. Tôi đọc những bài thơ đầu tiên ông đăng trên Bách Khoa năm 1960, chưa hề đọc một truyện hay một tuỳ bút, đoản văn nào của ông, mãi cho tới tận sau này (Ông có một truyện ngắn duy nhất, tựa là Người Thứ Hai, đăng trên báo Mai, 1965, sau này in chung trong tuyển tập truyện ngắn Cuộc đi dạo tình cảm, cùng với Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Hồ Thủy Giũ… nxb Trẻ, 1998; nhưng tôi cũng chưa hân hạnh được đọc!). Nhưng dẫu ông có viết ở thể loại nào, thì câu văn vẫn cứ mượt mà chất thơ, kiểu “văn trung hữu thi” vậy. 

Viết về Lữ Kiều, người bạn đồng môn của mình, Đỗ Hồng Ngọc có cái nhìn của một cụ đồ tài hoa: “Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắc lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, phóng bút…” (Tôi cũng tin vậy…, trg 61, Như Thị, nxb Văn Nghệ, SG 2007).Dẫn đoạn này, tôi chỉ muốn dẫn đôi dòng, nhưng không làm sao ngắt được.Cái mạch văn ấy cứ tuôn chảy, róc rách đẹp hơn suối reo, không ngăn được.Và liên tưởng ngay đến Chữ của người tử tù và Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân.  Đỗ Hồng Ngọc viết về người bạn nhưng cứ như chàng hoạ sĩ làm thơ!

Còn đoạn này nữa: “Cứ một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thể khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng xưa ùa sống lại” (Biết bao điều thì thầm, trg 203, Như Thị). Xem ra Đỗ Hồng Ngọc đâu chỉ có tâm hồn trong sáng mà còn có cả tấm lòng, như Cao Huy Thuần nhận xét: “Anh nói những chuyện giản dị. Nhưng mầu nhiệm không nằm ở đâu khác hơn là trong chính những câu chuyện giản dị đó. Một đôi bài của anh khá đơn sơ, nhưng hồn nhiên là cái duyên của anh, anh làm thơ trước khi viết văn, cho nên đó cũng là những bài thơ” (lời trích ở bìa 4 Như Thị). 

Đỗ Hồng Ngọc làm thơ khi còn là học sinh trung học, mãi đến năm 1967, ông mới cho in tập thơ đầu tay Tình người, lúc đang là sinh viên trường Y. Những bài thơ này xuất hiện trên Bách Khoa (từ năm 1960) và Tình Thương (1964) do SV đại học Y khoa Sài Gòn chủ trương, trong đó có nhiều bài thơ theo trường phái Phi Phi (Phi Thi?). Tôi đọc chúng (thơ phi phi) nhưng chẳng hiểu gì. Và vì vậy, khi vớ phải những câu chữ gần gũi của Đỗ Hồng Ngọc với những cảm xúc chân thật, mộc mạc tôi cảm thấy như có cái gì đó quen quen, như khói củi trong bếp lửa buổi sáng sớm chớm đông. Sau đó, khi tạp chí Ý Thức dời về 666 Phan Thanh Giản, cùng viết chung trên đó tôi mới gặp ông bằng xương bằng thịt và quen nhau. Gần cuối năm 1974, từ toà soạn Ý Thức, ông mời tôi đi ăn bò vò viên chỗ xế bên rạp Đại Đồng trên đường Cao Thắng và tặng tập Thơ Đỗ Nghê do Ý Thức xuất bản. Trong đó đáng chú ý là bài thơ Tâm sự Lạc Long Quân. Có lẽ do nội dung của bài thơ này, bị kiểm duyệt nên cơ sở Ý Thức không thể in công khai tại Sài Gòn, mà lại in (lậu) trên Đà Lạt do Lữ Kiều coi sóc rồi mang lộn ngược về Sài Gòn. Năm 2010, ông muốn đưa lại bài này vào tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, nhưng cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự như trước 1975, nghĩa là Tâm sự Lạc Long Quân vẫn là bài thơ không có “hộ khẩu”, lang thang trong tập Thơ Đỗ Nghê “phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu” (thiếu 2 năm nữa là chẵn 40 năm dài). Những thao thức, băn khoăn, tấm lòng thành ông gửi gắm trong bài đã bị chối bỏ, là chính trị thời trước và thời sau không chấp nhận tấm lòng thành của ông xuất phát từ trái tim, nghĩ từ trái tim của ông. 

Khi ta đưa các con 50 người xuống biển

Và vợ ta đưa 50 đứa lên rừng

Lòng ta đã rất đỗi băn khoăn

Có một điều gì khiến ta linh cảm trước

(…) Nhưng bây giờ mọi sự xảy ra

Các con đều đã rõ

Những vết ô nhục trong lịch sử chúng ta

Các con đều đã rõ

(…) Đã cùng sinh ra trong một bọc

Thì hãy nghe ta

Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi

Rồi đứng ôm nhau mà khóc

Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây

Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất

(Tâm sự Lạc Long Quân, Thơ Đỗ Nghê, trg 5-7, Ý Thức xb, 1974). 

Bài thơ này ông viết từ năm 1965, trong bối cảnh đất nước tương tàn! Nội dung bài thơ không mang ý thức phản kháng, gào rống mà, xuất phát tự trái tim ông, réo gọi tình đồng bào và thơ ông bật lên từ tấm lòng chân thật đó. Nhưng những kẻ làm chính trị thì không thể chấp nhận cái tấm lòng ấy, vì phe phía nào cũng tự nhận là chính nghĩa, bóp nát những mơ ước, hoài mong của tầng lớp thanh nên, trí thức. Chúng biến cái tinh thần dân tộc của giới trẻ trở thành hành vi phản trắc, biến lòng yêu đồng loại, nghĩa đồng bào thành tư tưởng phản bội! Sự dồn nén và ẩn ức ngày mỗi dày thêm, cao thêm: 

Rất nhiều đêm rất nhiều đêm

Tôi vỗ về tôi thủ thỉ

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Cầm súng với cầm gươm

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Giết bạn bè anh em

Ngủ cho ngoan ngủ cho ngoan

(Lời ru, Thơ Đỗ Nghê, trg 14) 

Thời ấy, khi đọc bài thơ này, tôi tưởng tượng cảnh bà mẹ quê ôm đứa con thơ vào lòng, giữa đêm khuya, nức nở than khóc người chồng là anh lính Việt Cộng hay Quốc Gia vừa chết trận. Âm thanh trong bài thơ không thịnh nộ, cứ ưu uất, nghẹn ngào, nức nở gây một ảo giác như chính bản thân ta đang chịu đựng cảnh khổ nhục đó vậy. Nó cứ rờn rợn như âm thanh trong bài Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy trong đêm bão!

Một bài thơ khác, Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, ông viết tặng con sắp chào đời cũng mang một tâm trạng u uẩn không kém, có thể coi là nỗi lòng của giới trẻ lúc bấy giờ: 

Có những người không có cơm ăn

Có những người không có áo mặc

Có những cánh đồng cháy đen

Có những xác người chồng chất

Con sẽ vô cùng ngạc nhiên

… Làm gì có Việt Nam đánh giết Việt Nam

Làm gì có đất nước hai miền

(Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, Thơ Đỗ Nghê, trg 66). 

Thực tế oan nghiệt đó đã bóp nát trái tim rất nhiều người, trong đó có ông. Vì vậy, có thể xem, Thơ Đỗ Nghê là một sự chọn lựa đúng đắn, là thái độ của của một thanh niên trí thức mẫn cảm trước thời cuộc và xã hội lúc bấy giờ. Đó là nỗi đau không cùng của những người chân chính, đúng như Lữ Kiều viết trong lời bạt cuối sách: “Đã đến lúc chúng ta nghiêm trang đặt những vấn đề, với lịch sử. Ví dụ bài “Điệp khúc” (Thơ Đỗ Nghê, trg 57, ghi chú của người viết bài này) là những câu hỏi thẳng thắn với đàn anh chúng ta thời 45. Những Bài vè thứ nhất, Bài vè thứ hai (Sđd, trg 48 và trg 52, nt) đặt vấn đề với thế hệ hiện tại, với những người mà ta gọi là Đồng Minh. Có lẽ, bây giờ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ, trong tình thế ấy, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm, nằm trong thái độ nghiêm túc của anh” (Thơ Đỗ Nghê, trg 76, nt). 

Bài thơ Thư cho bé sơ sinh nơi trang 39 ông viết năm 1965 khi còn là SV thực tập tại bệnh viện Từ Dũ, sau này ông cho in lại trong tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (nxb Văn Nghệ, SG 2010) được Phat’s blog chuyển ngữ sang tiếng Anh tháng 11/2006, như là sự mở đầu tâm cảm của ông, nhìn về thế giới bên ngoài bằng trái tim chân thật, bằng cả tấm lòng của cá nhân có trách nhiệm trước một cá nhân khác. Bài thơ chỉ có hai nhân vật: anh và em. Anh là chàng SV năm 3 y khoa và em chỉ là đứa bé mới chào đời. Ông đã khắc hoạ sự tương phản ngược chiều trong thế giới đa cực của cuộc sống ồn ào, đầy dẫy những cạm bẫy, lo toan, mưu tính… Đó là tiếng khóc và nụ cười, mắt thực và tối đen, cô đơn và êm ấm, là cái bé nhỏ vô cùng và rộng lớn cũng vô cùng. Bài thơ cũng chính là tâm trạng của anh chàng sinh viên ngành y lần đầu tiên làm công việc đưa một sinh linh ra ánh sáng cuộc đời sẽ có nhiều ngọt bùi lẫn cay đắng chờ đón phía trước. 

Tính chất của bài thơ, trước hết là giải bày tâm trạng, bởi đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy và nhận ra bản thể của mình qua hình hài bé bỏng kia, rồi nó sẽ phải trải qua những đoạn đường mà ông và bao con người đã bước qua cuộc đời có nhiều những khổ đau và hạnh phúc, của nụ cười và nước mắt, nói chung là “đời nhiều nhãn hiệu”.

Bài thơ không mang hơi thở ngôn ngữ bóng bẩy của thơ ca. Nó là những lời thầm thì, chia sẻ, là tâm tình của một con người với một con người trong mối quan hệ bình đẳng của người ra đời trước và người vừa chào đời sau; của người đã bị trói vào “đời” và người sắp bị “đời” trói chặt. Ông sử dụng ngôn ngữ nói, mộc mạc đến dung dị để chuyển tải nội dung lời thơ là thân phận làm người, mà rất nhiều các triết gia, học giả, nhà văn cả Tây lẫn Đông từng mang ra mổ xẻ. Vấn đề của Đỗ Hồng Ngọc đặt ra không rộng, không gian là phòng sinh, thời gian là một giờ khắc nào đó trong ngày. Ông chỉ ghi lại những cảm xúc và tâm trạng đối với công việc của mình trước một em bé vừa chào đời, bắt đầu cùng ông, gia nhập vào đời sống mà ông đang nếm trải, không hề thấy có một triết lý nào cao xa, chỉ nêu lên những sự việc có thật đang xảy ra và sắp sửa xảy ra với bé, bắt đầu tham dự vào “cõi người ta”. 

Khi anh cắt rún cho em

Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé

Vì từ nay em đã phải cô đơn

Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ

(Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, trg 6). 

Nhiều người, khi đọc bài thơ này, cho rằng nhà thơ đã gửi đi một thông điệp cho mọi người hiện hữu trong đời sống muôn màu muôn vẻ. Tôi thì nghĩ, ông không hề có ý làm một công việc to tát đến vậy, mà hơn hết là từ tấm lòng, từ trái tim, là cái nhìn thấu triệt lẽ đời mà ông đã trải nghiệm, như một người đi trước, không phải là kẻ dẫn đường hay đưa đò. 

Thôi trân trọng chào em

Mời em nhập cuộc

Chúng mình cùng chung

Số phận

Con người… 

Ý hướng đích thực trong bài thơ là 3 câu cuối cùng này. Hai nhân vật anh và em sẽ hoà vào mẫu số chung: số phận con người! Và tinh tế hơn cả, là ông ngắt câu ở nhịp hai như một cú rơi từ trên cao, không có sự chọn lựa.

Đỗ Hồng Ngọc sống nhiều, đi nhiều, viết nhiều.Văn thì viết như thơ. Thơ thì như văn và thơ náu mình trong thơ.Đó là những gì tôi nhìn thấy, đọc ra từ cảm tính, rất chủ quan của mình. Ví dụ như mấy câu trong bài Mũi Né: 

Em có về thăm Mũi Né không

Mùa xuân thương nhớ má em hồng

Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng

Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong

(Mũi Né, Thơ Đỗ Nghê, trg 8) 

Hay như thời gian tu nghiệp ở Pháp, ông nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình, bạn bè… Nỗi nhớ găm vào từng thớ vải. Câu thơ xếp đặt như câu nói, nhưng lại lột tả đến tận cùng nỗi nhớ nhung khói củi, đến nao nức: 

Anh hôn đằng sau/ Anh hôn đằng trước/ Anh hôn phía dưới/ Anh hôn phía trên/ Chiếc áo của em/ Món quà em tặng/ Chiếc áo lạ lùng/ Có mùi biển mặn/ Có mùi dừa xiêm/ Có mùi cát trắng/ Có mùi quê hương…

(Món quà, Thư cho bé sơ sinh…, trg 143). 

Ông có quãng đời niên thiếu sống ở La Gi (Phan Thiết), tắm mình trong mùi gió biển, thiên nhiên hoang sơ với những đồi núi chập chùng, những dãi cát trắng, sóng biển rì rào… đã ru ông, nuôi dưỡng tâm hồn ông để có được một Đỗ Hồng Ngọc có một cái Tâm trong veo như bầu trời không gợn chút khói mây.

Ông nhìn nhận cảnh quan theo vẻ đẹp mẫn tuệ nơi ông đã đành, nhưng đến những cảnh huống mà nhiều người nhìn thấy là xấu, khi lọc qua tâm hồn ông bỗng sáng rực như ánh sáng ban mai; ngôn ngữ diễn đạt cứ như những hạt sương long lanh trên cành lá biếc xanh. Ví dụ, từ trang 74 đến trang 80 là các bài La Ngà và La Ngà 1 đến La Ngà 5, là diễn tả tâm trạng và cảm xúc của ông trước cái chết của đứa con gái yêu quý, nhưng lời thơ không hề bộc lộ chất bi luỵ, đau thương. Ngược lại, cứ trong suốt như pha lê: 

“Mỗi năm/ Mỗi người/ Thêm một tuổi/ Chỉ mình con/ Mãi mãi tuổi đôi mươi” (La Ngà 3, Thư cho bé sơ sinh…, trg 78). Và bài kế tiếp: “Ba vun gốc trường sanh/ Mẹ đặt chùm vạn thọ/ Lên mộ con/ Giữa ngày mùng Một Tết” (La Ngà 4, Thư cho bé sơ sinh…, trg 79). 

5 bài thơ viết về La Ngà thực chất là viết về “nỗi mất”, là nỗi đau không cùng của các bậc cha mẹ. Nhưng cả 5, lời thơ vẫn bình thản chấp nhận, không u oán. Chỉ có những người đã tiếp cận với Thiền học, đã “thị” được ngũ uẩn giai không, thả những cảm xúc tâm linh chạm gần đến ngưỡng như Đỗ Hồng Ngọc mới có được cốt cách và phong thái của các hành giả phương Đông trên đường bước vào mép rìa của cái Đẹp. 

Ông đã từng thú nhận trong phần dẫn nhập và một chút lịch sử, ở ngay phần đầu Nghĩ từ trái tim, rằng “Viết với tôi là một bức xúc, là một cách “xả”! Tôi thấy nhẹ nhàng sảng khoái hơn khi được viết ra. Đó cũng là một cách tự chữa bệnh cho mình” (trg 9). Và: “Tôi nhớ hồi mới lên mười, trọ trong chùa, đêm đêm cũng nghe cô tôi tụng “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!” tôi chỉ thấy êm tai, ngủ ngon lành mà thôi” (trg 20). Như vậy, rõ ràng Thiền học đã thấm đẫm tâm hồn ông từ tuổi thơ, như chuyện thấy núi thấy sông của nhà sư viết ở đoạn trên. Chính vì vậy, nên ông mới có những câu thơ như thế này:

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương (Hội An, Thư cho bé sơ sinh…, trg 99). 

Hay:

Lắng nghe hơi thở của mình/ Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa/ Một hôm hơi thở tình cờ/ Dính vào hạt bụi thành ra của mình/ Của mình chẳng phải của mình/ Thì ra hơi thở của nghìn năm sau 

(Thở, sđd, trg 196). 

Và một bài nữa:

Đất động ta cũng động/ Sóng thần ta cũng sóng/ Giật mình chợt nhớ ra/ Vốn xưa ta là đất!

(Đất, sđd, trg 197). 

Nếu làm công việc như các ông Đặng Tiến và Cao Huy Khanh thì có thể xếp dòng thơ Đỗ Hồng Ngọc vào dòng thơ Thiền được chăng?Tôi không mấy rõ, chưa thể biện biệt, kiến giải; chỉ thấy và hơn hết là cảm được rằng, thơ ông xuất phát từ Tâm Cảm, vượt trên những triền phược. Nó thô mộc mà sáng long lanh; lột tách những vết bụi bám; cũng đứng chung những “số phận thơ”, cũng sần sùi meo mốc như lát sắn mì để quên trong khạp, nhưng lại toả ra chút mùi thơm dịu dàng lấp lánh. Đó cũng là nét rất riêng, rất cốt cách của thơ Đỗ Hồng Ngọc. 

Tôi đã từng nghĩ: “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời”, xem ra lại rất đúng, một cách trọn vẹn, với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc: cứu người và cứu đời! 

Nguyễn Lệ Uyên

(Xứ Xương Rồng, tháng 3/2012)

 IV/ NGUYỄN THỊ TỊNH THY (*)

YẾU TỐ BẤT NGỜ TRONG BÀI THƠ “BÔNG HỒNG CHO MẸ” 

Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác. Và tuyệt tác này xứng đáng được hiện diện trong tang lễ của những bà mẹ. Bởi vì Bông hồng cho Mẹ là một cách viếng mẹ, khóc mẹ vô cùng đặc biệt – đầy uyên áo nhưng rất đỗi giản đơn. Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đoá hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…”

Toàn bài thơ, kể cả nhan đề, đề tài, hình ảnh đều rất đỗi thân quen đối với người dân Việt, đặc biệt là các Phật tử. Có thể nói, Mẹ, lễ Vu Lan, hoa hồng màu trắng, hoa hồng màu hồng và cả nghi thức cài hoa hồng lên ngực dường như đã trở thành những biểu tượng mang tính liên văn bản trong văn chương nghệ thuật, trở thành tập quán trong đời sống và tâm thức bao người. Vậy mà, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc vẫn tìm ra được một tứ thơ lạ làm ta sững sờ, khiến ta bất ngờ. Đúng! Bất ngờ chính là yếu tố làm nên hồn cốt của bài thơ.

Bất ngờ đầu tiên là nghịch lý của hai câu thơ đầu:

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng”

Lạ chưa! Con cài hoa trắng, nghĩa là con không còn mẹ. Theo lẽ thường, mẹ càng phải cài hoa trắng, vì mẹ của mẹ (bà ngoại) cũng không còn.Vậy mà, con cài bông hoa trắng – bông hoa của tang tóc, mất mát; nhường cho mẹ đóa hoa màu hồng – màu của diễm phúc, viên mãn. Hẳn bạn đọc sẽ không khỏi thắc mắc về nghịch lý này. Trong thưởng thức nghệ thuật, thắc mắc, hoài nghi, cảm thấy mâu thuẫn… là khởi đầu của mỹ học tiếp nhận. Bạn đọc chờ đón lời giải thích ở câu tiếp theo. Nhưng không. Câu thứ ba lại càng khẳng định sự vững chắc của hai câu đầu: “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lại thêm một tầng thắc mắc nữa: Mẹ đã mất, vậy mà có thể thực hiện động tác “gài” hoa lên ngực. Mà chắc là mẹ có thể làm được việc đó, nên con mới dặn mẹ là “nhớ gài”. Quả là nghịch lý chồng nghịch lý! Cho đến câu cuối cùng: “Ngoại chờ bên kia sông…”, tất cả mọi thắc mắc, nghịch lý đều được cởi bỏ. Cởi bỏ bằng một sự bất ngờ – bất ngờ đến mức khiến ta ngỡ ngàng, sững sờ, xúc động, rưng rưng…

Cấu tứ bất ngờ là nét độc đáo chuyển tải chủ đề của bài thơ. Kiểu cấu tứ này khiến cho bài thơ đảm bảo được nguyên tắc “mạch kỵ lộ” của thi pháp thơ Đường. Người làm thơ phải biết rằng, mạch thơ tối kỵ là bị để lộ, nhà thơ phải làm sao đó để đến câu cuối cùng, điều mình muốn ký thác, bộc bạch mới lộ ra, gây bất ngờ cho người đọc, thậm chí bẻ gãy được những đoán định của họ. Bất ngờ càng lớn, ý thơ càng sâu sắc, sức lay động càng mãnh liệt. Vì thế, câu cuối cùng thường là câu gánh vác nhiệm vụ thể hiện chủ đề của bài thơ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng, trong thơ Đường luật, những câu đầu dù nói nhiều điều, tả nhiều thứ, có thể bao quát cả không gian mênh mông vô tận và thời gian vô thủy vô chung thì vẫn chỉ là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu cuối. Làm thơ Đường, trong tâm tưởng của nhà thơ, câu cuối chính là câu khởi đầu.

“Ngoại chờ bên kia sông…”

Vậy là không còn nghịch lý nữa.Mẹ về với ngoại. Ngoại đã đi trước, và đón chờ mẹ ở bên kia sông. Ngoại đón con gái của ngoại, mẹ về trong vòng tay của mẹ mình. Tất cả mọi việc đều thuận chiều.Và vì thuận chiều như thế nên nỗi mất mát, chia xa bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn.

Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Tất cả hai mươi chữ trong bài thơ tứ tuyệt này đều là từ thuần Việt, cả danh từ, động từ, đại từ…; cả hình ảnh, biểu tượng… cũng đều rất đời thường và dân dã đến mức người đọc, người nghe ở trình độ nào cũng có thể hiểu, có thể cảm, có thể xúc động. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật, như vậy là bài thơ đã đạt đến cảnh giới cao siêu của nghệ thuật: “áo của thợ trời không nhìn thấy đường may” (thiên y vô phùng). Chỉ trong hai mươi chữ, từ một tấm lòng, nhà thơ đã nói hộ muôn tấm lòng. Ước mong của tác giả là ước mong của mọi người, tiếng thơ của anh nhưng là tiếng lòng của tôi, của tất cả chúng ta.

“Ngoại chờ bên kia sông…” là hình ảnh mang tính biểu tượng, giàu sức gợi, chất chứa nhiều hàm nghĩa ý tại ngôn ngoại. Câu thơ tạc nên hình ảnh của người mẹ muôn thuở: yêu thương, dịu dàng, nhẫn nại, chở che, bảo bọc, hy sinh. Từ vị trí của người mẹ ở ba câu đầu, mẹ trở thành vị trí của người con ở câu cuối. Mẹ được về trong vòng tay yêu thương của ngoại, lại một lần nữa được làm con của ngoại, nghĩa là mẹ được tái sinh. Câu thơ còn toát lên một chân lý: có mẹ, dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở cõi sống hay cõi chết, ta cũng sẽ được chở che, được bình an. Vì thế, dù “bên kia sông” là một thế giới vô cùng lạ lẫm thì mẹ cũng sẽ khỏi phải ngỡ ngàng, ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng. Có ngoại rồi, con yên tâm cho mẹ, con được an ủi rất nhiều khi nghĩ về bước chân cuối cùng của mẹ trong chuyến độc hành này.

Về với mẹ, về bên mẹ là một cách nói giảm nhẹ tuyệt vời để xua tan đi nỗi đau xé lòng, nỗi mất mát không gì bù đắp được. Câu thơ khiến ta bình tâm hơn, thanh thản hơn, thấu đạt hơn, an nhiên hơn khi đón nhận quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Câu thơ còn đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận, đón nhận và lý giải những biến cố của đời sống. Trắng – hồng, sống – chết, được – mất, đi – về, sắc – không… ranh giới của những cặp đối lập ấy chỉ là tương đối. Sắc sắc không không, “có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”, tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận sự việc. Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã chọn cách nhìn thấy niềm vui trong nỗi đau, đổi chất trẻ thơ cho sự già nua, biến chia ly thành đoàn tụ, thay mất thành được, biến ra đi thành trở về.

Từ hình ảnh và ý nghĩa đẹp đẽ của câu cuối, đối sánh với ba câu đầu theo lối đọc ngược bài thơ từ dưới lên, ta sẽ thấy mọi ẩn số của nghịch lý đều được giải đáp tường tận. Vì mẹ được về với ngoại (câu 4) nên mẹ nhớ cài hoa hồng lên ngực (câu 3), con dành cho mẹ đóa hồng là hợp lý (câu 2), con nhận phần mất mát cho riêng mình, và con vĩnh viễn không còn mẹ trên đời (câu 1). Cũng từ câu 4, đọc lại câu 3, ta sẽ thấy câu thơ – lời dặn của người con – thấm đẫm nỗi niềm. “Mẹ nhớ gài lên ngực”. “Mẹ nhớ…”, nghĩa là mẹ đừng quên làm điều đó nhé, bởi đóa hoa hồng dường như là dấu hiệu để ngoại nhận ra mẹ, là tín vật để xác nhận hạnh phúc đoàn viên của mẹ và ngoại. Và con mong như thế, mong lắm thay! “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lời thơ như dặn dò nhắc nhở, như van xin cầu khẩn, như vỗ về dỗ dành, như an ủi động viên… trong giờ phút bịn rịn tiễn đưa. Lời nói ấy là tấm lòng, là nỗi âu lo, là yêu thương chan chứa bật lên từ nỗi đau nén chặt trong lòng. Khóc không nước mắt, nỗi đau lớn tựa càn khôn!

Mở đầu bằng những nghịch lý và kết thúc bất ngờ bằng những chân lý, Bông hồng cho Mẹ đưa chúng ta ra khỏi bến mê để bước vào bờ đạt ngộ.Dẫn dắt người đọc đi từ mê muội đến tỉnh thức về lẽ tử sinh như thế, quá trình nhận thức của bài thơ mang đậm dấu ấn của Thiền tông. Bài thơ là cái nhìn khác biệt và sống động về một trong “tứ khổ” sinh lão bệnh tử, thấm đượm chân lý về tình mẹ. Nếu có mẹ, được ở bên mẹ thì cõi chết cũng là cõi bình yên. Đối diện với cái chết bằng tâm thế ấy, ta còn sợ nỗi gì? Ai rồi cũng có ngày được về với mẹ, hãy nhẹ nhàng, nhẹ gánh mà đi. Rồi ta sẽ được mẹ ta đón bên kia sông. Hiểu là giải thoát. Vẫn biết như thế, nhưng sao nước mắt vẫn cứ chảy dài khi nghĩ đến ngày ngoại đón mẹ. Ta mê muội quá chăng?

———————————-

Nguồn: Đặc san LIỄU QUÁN, số 12, tháng 8.2017. Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán-Huế

(*) Nguyễn Thị Tịnh Thy, giảng viên Đại học Sư Phạm, Huế