văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Sunday, May 8, 2011

VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG * Vĩnh Biệt Nhà Văn Nguyễn Thụy Long

nhà văn Nguyễn Thụy Long
Nhà văn Nguyễn Thụy Long bị bệnh tiểu đường khá nặng, sau thời gian bị “stroke” tai biến mạch máu não, phải dưa vào bệnh viện, đã qua đời ngày 3 tháng 9 năm 2009 vì nhiễm trùng đường tiểu, tại Sài Gòn, hưởng thọ 71 tuổi.
Nhà văn Nguyễn Thụy Long hoàn thành truyện dài Thìn Ma vào tháng Giêng 2007, khi ông bước vào tuổi thất thập. Trong tuổi già, sức khỏe yếu kém, đời sống khó khăn, Nguyễn Thụy Long biết rằng ngòi bút không nuôi được bản thân như trước kia nhưng cái nghiệp vẫn còn và viết lách để vơi đi bao ưu phiền trong cuộc sông.
Từ “Tác phẩm đầu tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử... Tôi chính thức là ký giả của báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác. Thành nghề hầu hết do kinh nghiệm, sự học hỏi lẫn nhau” (Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, nxb Văn Nghệ, California, 1999 - trang 166) đến Thìn Ma cách nhau hơn 4 thập niên.
Trước năm 1975, tác phẩm Loan Mắt Nhung được mọi người đón nhận. Loan Mắt Nhung phác họa hình ảnh cậu học sinh lương thiện trong thập niên 60 ở Sài Gòn, bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Từ cuộc sống cù bơ cù bất, khốn khổ, Loan phải đương đầu với bao nghịch cảnh để sinh tồn và trở thành đàn anh trong làng dao búa trong xã hội đen. Là tay anh chị, dưới trướng có đàn em nhưng Loan lại cảm thấy cuộc đời cô đơn và muốn hoàn lương, nhưng hoàn cảnh thôi thúc, lôi kéo vào chốn bùn nhơ, gió tanh mưa máu, tội ác... Và, Loan tự giải quyết cho lối thoát bằng hành động giết người rồi nộp mình cho cảnh sát, hối hận vì đã đánh mất một thời trai trẻ.
Loan Mắt Nhung được đạo diễn Lê Dân và hãng Cosunam Film dựng thành phim, được thành công, khản giả ái mộ, vì vậy tên tuổi Nguyện Thụy Long gắn liền với Loan Mắt Nhung.
Sau bốn thập niên, Thìn Ma ra đời, cậu bé tên Thìn, sinh trước năm 1975 nhưng rơi vào hoàn cảnh “lớn lên trong thời gạo châu củi quế, thời bao cấp và triệt để thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản, gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, toàn miền Nam đói, tuy nhiên chưa có ai chết đói vì còn có khoai, có bắp, mì sợi, bán cho những hộ gia đình có sổ lương thực mua ở Hợp Tác Xã” (Thìn Maï). Biệt danh Thìn Ma do lối xóm đặt cho anh vì không biết mỗi khi lên cơn, bị ma nhập hay không, Thìn la hét và trông rất bất thường. Từ chàng trai hiền lành, khù khờ sống trong khu lao động nghèo nàn ở chợ Bà Chiểu, bán khô mực nướng, đạp xích lô để nuôi mẹ già, con dại kiếm miếng cơm độ nhật nhưng cũng bị trấn lột và bị “lừa” vào đường dây phân phối ma túy rồi trở thành tay anh chị giết người trong xã hội đen... Cầm đầu tổ chức trong đường dây nầy được bảo vệ và che đậy bởi “gia đình văn hóa”!... Và Thìn cũng được núp dưới bóng gia đình đó để lao vào chuyện làm ăn phi pháp. Tên sát thủ Thìn Ma cũng không thoát khỏi quy luật của xã hội như Loan Mắt Nhung!
Nhà văn Nguyễn Thụy Long sở trường về cái nhìn cuộc sống của lớp người rơi trong hoàn cảnh đen tối và đầy dẫy cạm bẫy, bởi mưu sinh thời thế xô đẩy. Cuộc đời ông cũng trải qua bao thăng trầm, hàm oan nhưng ông phó mặc cho đời. Ông bày tỏ: “Trong đời cầm bút của tôi chưa bao giờ viết lên được một nhân vật đẹp đẽ, tôi chỉ chuyên tìm con đường gai góc mà đi, những nhân vật ma chê quỉ hờn đã được thể hiện trên giấy” (Hồi Ký sđd - trang 273).
Sau hồi ký Thuở Mơ Làm Văn Sỹ, Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” được ấn hành ở hải ngoại. Ông đã hoàn thành Hồi Ức 40 Năm Làm Báo vào tháng 12 năm 2002. Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Vác Ngà Voi, xuất bản năm 1965, tạo tiếng vang cho ông. Ông có năng khiếu chuyên viết feuilleton cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại nhưng đã được ấn hành một số tác phẩm: Chim Trên Ngọn Khô, 1967 - Trong Vòng Tay Đàn Ông, 1967 - Vết Thù, 1968 - Bà Chúa Tám Cửa Ngục, 1968 - Đêm Đen, 1968 - Gái Thời Loạn, 1968 - Nữ Chúa, 1969 - Nợ Máu, 1969 - Ven Đô, 1970 - Sầu Đời, 1970...
Nguyễn Thụy Long sinh ngày 9 tháng 8 năm 1938, ở ngõ Hòa Mã Hà Nội. Thân phụ: cụ ông Nguyễn Thụy Nhân, thân mẫu: cụ bà Phạm Thị Miên.
Vào Nam năm 1952, sinh sống tại Sài Gòn. Ông theo học Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nhưng muốn theo nghiệp hội họa của thân phụ nên nhảy sang trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Thân phụ qua đời, ông phải sống tự lập nên vào đời rất sớm. Bị đi quân dịch, bị tù vô cớ rồi trải qua tháng ngày đầy nghiệt ngã và đó cũng là chất liệu để ông thể hiện qua ngòi bút.
Nguyễn Thụy Long là Hạ Sĩ Quan Tiếp Vận trong binh chủng Không Quân. Tưởng đã yên phận nhưng tai họa lại đến: “Tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại chạy vô phi trường Tân Sơn Nhất được Phan Phụng Tiên đưa lên một chiếc C47 chuẩn bị đưa qua Nam Vang tỵ bạn; Nguyễn Thụy Long đang trong phiên trực nhận được lệnh phải đổ đầy xăng cho chiếc C47 chạy trốn”(HN). Trong cuộc truy lùng nầy, Nguyễn Thụy Long bị vạ lây vì An Ninh Quân Đội bắt rồi đưa vào nằm khám Chí Hòa...
Giai đoạn đó được Nguyễn Thụy Long ghi lại trong Hồi Ức 40 Năm Làm Báo:
“Sau một phùa đi tù lãng nhách một năm tại khám Chí Hòa, thuở ấy gọi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hòa, từ vừa thối vừa giả dối, mà đời tôi từng được thấy na ná nhau đến hai lần qua hai chế độ mà tôi đã sống qua. Tôi mang tội đào ngũ sau chính biến 11-11-1961, thêm tội du thủ du thực vì không nhà, không cửa. Để kiếm sống qua ngày tôi sống những ngày tận cùng xã hội miệt Cầu Ông Lãnh trên Con Kinh Nước Đen. Một đời sống dễ sợ của những con người bị coi là cặn bã của xã hội. Những con người dám ăn thịt nhau, cấu xé nhau để sống, sẵn sàng khống chế, ăn thua đủ với nhau bằng bạo lực. Tôi làm cu li ở kho 5 Khánh Hội trên đường Trịnh Minh Thế sau này là đường Nguyễn Tất Thành, rồi làm phụ thợ hồ ở quận 8, chuyên đổ ống cống xi măng và làm cọc rào ấp Chiến Lược. Kể cả nghề giặt quần áo thuê trong xóm chơi bời. Nói ra kinh tởm vô cùng, nên tôi không nói hành nghề giặt thuê ở những nơi đó như thế nào, tôi để dành chi tiết ấy cho một tác phẩm khi làm nhà văn”.
Một ngày kia tôi khăn gói quả mướp về báo Ngàn Khơi. Với điều kiện không lương chỉ được nuôi cơm, không chức vụ nên không nề hà bất cứ công việc gì của tòa báo. Tôi yêu nghề báo, tôi chấp nhận, không phải nhắm mắt chấp nhận mà mở mắt chấp nhận. Một công việc vác ngà voi, cái ngà voi đẹp đẽ, nghề văn, nghề báo mà tôi từng ao ước mê say, như tất cả bạn bè anh em tôi vậy. Một tờ báo không có khoản chi lương, tiền nhuận bút bài vở cho những người cộng tác. Nhưng tất cả cật lực làm việc, mà làm việc với lương tâm và lòng nhiệt tình để xây dựng tờ báo trong lúc khó khăn”.
Từ những hình ảnh ghi nhận được trong khám Chí Hòa, Nguyễn Thụy Long viết lại Bà Chúa Tám Cửa Ngục, đăng tải trên tờ Ngàn Khơi và ông cộng tác với anh chị em trong nhóm Ngàn Khơi chỉ được “tiêu chuẩn” kẻ vác ngà voi.
Sau Cách Mạng tháng 11 năm 1963 “Người thầy đầu tiên khi tôi bước chân vào nghề báo (nhật báo), nói chính xác ra, là nhà văn Chu Tử. Tại nhật báo Sống, tôi cộng tác từ ngày đầu đến ngày cuối cùng, tôi đã trở thành phóng viên, ký giả rồi nhà văn”. Và đến thời điểm đó “Tôi run lên vì lần đầu tiên tôi được lãnh lương do nghề làm báo. Ngay ngày hôm sau chúng tôi tới tòa soạn làm việc để lo cho số ra mắt đầu tiên”. (Hồi Ức sđd).
Nhà văn Chu Tử có nhiều con nuôi, ông gả con nuôi cho Nguyễn Thụy Long, sau ngày 30 tháng Tư, 1975, Nguyễn Thụy Long chứng kiến thực tế rất phũ phàng: vợ bỏ, mất con, mất nhà! và từ đó, ông trở thành con người lang thang khắp nơi, mọi xó xỉnh... Ngay nơi chốn xóm Mả Đen, ấp Đông Ba, ông về sinh sống từ thuở đôi mươi nhưng cũng không được thừa nhận! 24 năm sau ông mới có hộ khẩu, chứng minh nhân dân. Căn nhà số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận hiện nay là nơi chốn đã sống được 50 năm.
Ông trải qua vài đời vợ và cuối đời cũng còn niềm an ủi.
Sau tháng ngày ra tù vào khám, ông cầm bút để mưu sinh nhưng rồi trắc trở và thất bại. Ông sống trong hoàn cảnh cơ cực, mong tìm lối thoát nhưng cũng bị hoài nghi và tai tiếng.
Tôi trở thành thằng xạo xự. Giải thích, cải chính thế nào cho họ tin được. Mà cải chính làm chi cho phí lời. Điều họ nhận xét cũng đúng thôi, nhưng với những ai kia, chớ không phải tôi. Mẹ ruột tôi đã viết thư về nói: “Đồng đô la bên nầy quí hiếm lắm, không ai giúp được ai đâu, đừng mong chờ...” một cô em dâu của tôi ở bên Mỹ cũng nhắn tin về cho biết: tôi không nên trông chờ gì ở hai đứa con lớn đã thất lạc lâu năm vì mẹ đẻ ra chúng cấm chúng liên lạc với tôi, sợ tôi lại giở giọng xin tiền chúng nó. Hai đứa con nhỏ thì còn đi học nhờ vào tiền cấp dưỡng. Họ hàng anh em bà con tôi thì khỏi nói đến làm chi, tất cả đều khác, đều là người xa lạ”. (Hồi Ký sđd trang 260-261).
Tiếp nối Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, bốn năm sau, Hồi Ức 40 Năm Làm Báo được hoàn thành, trong Lời mở đầu, ông cho biết:
“Tôi gia nhập làng báo, làng văn từ năm 1962, có thể trước đó một vài năm, nhưng chẳng kể làm gì, thời trước đó là thời của Văn Nghệ Học Sinh. Thuở tôi mơ làm văn sĩ... Thuở đó mới chỉ mơ thôi chứ chưa có thật, một cái gì còn xa vời lắm với một cậu học sinh tài thô, trí thiển, nhưng tôi yêu nghề viết văn làm báo từ ngày đó. Người ta mơ gì thì mơ, tôi mơ một cách quái gở, mơ làm văn sĩ, một tương lai sự nghiệp không lấy gì làm sáng sủa cho lắm thời bấy giờ...
... Trong đời cầm bút của tôi, đến nay đã vào tuổi 65 (tính theo thời điểm 2002). Nhưng lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích.
Tôi không gặp được một may mắn nào... Điều mơ ước duy nhất của tôi, làm nốt những gì mình còn bỏ dở dang, tôi sẽ nói lên hết, nếu sức khỏe tôi còn cho phép. Tôi tự cho tôi quyền tự do trên căn gác bút cô đơn.
... Tôi theo đuổi nghề suốt 40 năm trời, hình như không lúc nào ngừng nghỉ, làm việc cả trong lúc bị gác bút, chân tay bị cùm, nhưng còn cái đầu, tôi vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ và thầm viết trong đầu. Để lúc nào thuận tiện thì thành văn chương, tác phẩm. Kể chuyện nôm na chơi.
Trong đời sống hỗn mang hai mươi mấy năm trời qua, tôi sống thử qua rất nhiều nghề. Trong đó có cả nghề cầm bút. Nó ra làm sao, đó là do sự tò mò của một nhà báo mà cái gì cũng muốn biết. Tôi chấp nhận những cái không may sẽ đến với tôi...
... Tôi không mất vì chẳng còn gì mà mất, cứ coi là việc rong chơi qua ngày trong bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của ông có vài chương đã được đề cập trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, khi viết, ông không che dấu thói hư tật xấu của mình, viết thật, sống thật, nghĩ sao viết vậy, có bao ngọn roi quất vào mặt ông và cũng có bàn tay đỡ đần, ông không ngại ngần đề cập khi viết nên có người vin vào để đả kích ông.
Mơ ước nào khi trở thành hiện thực thường mang lại ánh hào quang và niềm hạnh phúc nhưng ở Nguyễn Thụy Long, mơ ước hóa thân thành chữ nghĩa trong văn nghiệp thì ngược lại, vinh nhục đạp lên nhau và khốn đốn trong bão táp của cuộc đời với bao hệ lụy vây quanh. Ông phó mặc cho đời vì theo ông “Từ xưa đến nay tính chất của tôi vẫn là tưng tửng trong đời sống”.
Năm 2005, nhà văn Viên Linh tổ chức trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp của báo Khởi Hành cho Nguyễn Thụy Long. Điều đáng tiếc xảy ra khi có bài viết ở hải ngoại đả kích Nguyễn Thụy Long và ông ta phản pháo lại. Hai cây bút đã một thời thân tình với nhau nhưng có lẽ vì phản ứng tự vệ, cú đá “hồi mã thương” của ông trong cơn tức giận như cái tát đau điếng... ! Bút mực vẫn còn đó “lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích”.
Khi tôi viết về ông và sự việc đáng tiếc xảy ra, có email cho ông và nhận được hồi âm: “Đọc lại bài anh viết về tôi, tôi rất cảm động... Tôi và ông bạn... tuy có giận nhau nhưng thật lòng tôi vẫn quý mến vợ con ông ta, vì sự quen biết và thân tình đã mấy chục năm”!. Trong cuộc sống, ông đã gặp biết bao nghịch cảnh, oan trái... với đao, tên bằm nát thân xác, thêm một mũi tên trong lúc xế tà nơi xó xỉnh trong cơn bỉ cực, ông chỉ oán cho số phận mình còn lắm chông gai!
Khi liên lạc với ông, tôi biết ông sống trong hoàn ảnh khó khăn nhưng vẫn giữ sự tự trọng nên khi nhận được tác phẩm Thìn Ma, tôi liên lạc với nhật báo Viễn Đông đăng tải vào hạ tuần tháng Tư năm 2007 và trả tiền nhuận bút tác phẩm 500 mỹ kim. Về cuốn Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút tôi nói với ông, sẽ tự nguyện giúp layout tác phẩm nếu có ai chịu trả tác quyền để in và phát hành, còn họ in, bán sách rồi gởi tiền về... sẽ trông đợi dài cổ! Sau đó tôi đưa cho nhật báo Viễn Đông và đã trả tiền nhuận bút 500 mỹ kim nhưng cho đến nay chưa đăng tải.
Nhật báo Viễn Đông trả tiền nhuận bút để đăng feuilleton, không liên quan đến vấn đề ấn hành. Nay nhà văn Nguyễn Thụy Long đã ra người thiên cổ, vợ và 3 đứa con nhỏ sống trong cơ cực. Nếu có vị mạnh thường quân nào nhã ý giúp cho phần bia mộ và đời sống người còn lại để ấn hành hai tác phẩm trên. Tôi sẽ giúp cho vấn đề layout miễn phí – từ trước đến nay, tôi chưa dính dấp bất cứ bất cứ đồng tiền nào giữa tác giả và tác phẩm mà chỉ làm công việc trung gian dể hỗ trợ cho nhau với tấm lòng trong sáng, thẳng thắn.
Trước đây, tôi gởi cho nhà văn Nguyễn Thụy Long bài viết về Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác và được anh cho biết bài Hồ Trường anh thường ngâm mỗi khi cô đơn cùng cực, bà nội anh là chị em ruột với hiền thê của Nguyễn Bá Trác.
Thân mẫu Nguyễn Thụy Long được con gái bảo lãnh định cư tại Nam California. Ngày 26 tháng 9 năm 2004, cụ bà qua đời. Nơi căn nhà cũ, Nguyễn Thụy Long viết Hồi Ức Về Mẹ:
“... Căn nhà xưa của gia đình, mẹ tôi gìn giữ nó, không để cho bị tịch thu, vì anh em tôi đều bị đưa đi học tập cải tạo hết rồi. Mẹ ở một mình trong căn nhà ấy, đồ đạc trong nhà có gì bán dần, bán mòn đi để ăn và thăm nuôi hai anh em chúng tôi trong trại học tập. Cụ lặn lội vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với con, những đứa con tù tội khốn khổ của bà. Tới trại tù, trước khi được thăm nuôi người ta dạy mẹ tôi và những thân nhân thăm tù, gặp mặt phải khuyên bảo và giáo dục những người tù như chúng tôi câu: "Con ráng học tập tốt rồi nhà nước nhân đạo, khoan hồng tha cho về xum họp với gia đình".
Bây giờ đã mấy chục năm qua, khi ai nhắc hoặc nghe lại câu này tôi vẫn có cảm giác muốn buồn nôn. Tôi biết sau khi phải học vẹt như thế thì họ mới cho thăm nuôi con mình, không biết cụ đã nghĩ gì. Nhưng có lẽ mẹ tôi rất là đau khổ, tôi chỉ biết thương mẹ và cảm ơn mẹ, khi mẹ gầy hốc hác ngồi trước mặt tôi. Không chừng mẹ đã phải nhịn đói, nhịn khát để mang miếng cơm vào cho con. Một chút gạo, quí giá như những hạt châu ngọc. Vậy mà tôi từng bị tịch thu những hạt gạo ấy, bỏ vào kho, hoặc cho ai ăn không biết, có thể là mấy thằng khốn nạn, có thể lợn gà. Với mẹ, tôi vẫn là đứa con nhỏ bé, dù tôi đã lớn, đã trưởng thành, nhưng những hạt cơm của mẹ cho, tôi coi quí giá như những hạt châu ngọc. Vào thời tù tội đó, mỗi khi ra cổng trại để đi lao động và thoáng gặp những bà mẹ tay xách, nách mang đi thăm con. Tôi lại giấu những giọt nước mắt của mình, lúc đó tôi rất nhớ mẹ tôi... ... Hai giờ rưỡi sáng, tôi đạp xe đạp vào phi trường tiễn mẹ. Phi trường đêm ấy lồng lộng gió. Tiễn mẹ đi đêm ấy, tôi linh cảm thấy không bao giờ còn được gặp mẹ nữa. Dáng cụ xiêu xiêu đi vào phòng cách ly, cụ lại dúi cho tôi những đồng tiền Việt Nam còn sót lại trong túi, như hồi mấy chục năm về trước...
... Tất cả chúng con đều nhớ mẹ, bàng hoàng khi nhận được tin mẹ qua đời. Cụ thọ vào bậc nhất rồi nhưng sao tôi vẫn buồn. Cụ mất ngày 13 tháng 8 âm lịch bên Mỹ, còn hai ngày nữa là tết Trung Thu ở Việt Nam. Hôm nay ở đây tôi làm lễ phát tang cho mẹ, đúng vào ngày rằm Trung Thu, tôi e rằng trời lại mưa, như nhiều năm tôi ở miền Nam không bao giờ tôi được ngắm trăng rằm.
... Tuổi thơ ấu không bao giờ trở lại với tôi nữa. Tôi muốn khóc vì nhớ mẹ, nhưng còn nước mắt nữa đâu. Một đời mẹ gần một thế kỷ nổi trôi theo vận nước. Những đau thương này thay cho những giọt nước mắt của đứa con nay đã già.
(Rằm tháng Tám năm Gíáp Thân - Nguyễn Thụy Long)
Sau nhiều năm sống lang bạt nơi nầy chốn nọ cho đến khi được trở về với căn nhà cũ số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận... Nhưng, cuối đời, sống vẫn bất an, gặp phải cảnh tượng đau lòng, có kẻ bên cạnh lấn đất nhà ông, bất chấp pháp luật, ngang nhiên bảo thợ đập phá nhà ông và còn đe dọa thanh toán, tháng 6 và tháng 7 năm 2007, ông làm đơn gởi đến các cơ quan hữu trách nhưng chẳng nơi nào giải quyết. Trong hai năm qua, Nguyễn Thụy Long đành cam chịu tình cảnh oái oăm đó cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay!
Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thụy Long! Ông vĩnh biệt cõi trần, để lại vợ và 7 con, trong đó có 4 con ở hải ngoại và 3 con còn nhỏ ở Sài Gòn.
Vương Trùng Dương

THIẾU KHANH * Đời Không Dung Người Hào Kiệt

tranh Lương Trường Thọ


Ngày rỗi nằm khoèo xem tiểu thuyết
Kiều Phong ngộ sát ả A Châu
Hỡi ơi đời chẳng dung hào kiệt
Càng lắm tài hoa chóng bạc đầu

Ta đâu muốn cao như ngọn núi
Suốt đời bịa đặt những tình nhân
Rừng sâu ngày tháng đi lầm lũi
Nhớ thương hờ cho đỡ mỏi chân
  
Lòng người hẹp như chữ o nhỏ mọn
Nên không dung nổi một chân tài
Em từ chối cùng ta mưu việc lớn
Đời chỉ dùng ta một chú cai

Làm đứa thất phu mang áo giấy
Hồ đồ nhập bọn với nhân gian
Em chả yêu ta
       Ta biết vậy
Tâm hồn hào kiệt vốn cô đơn

Ta vẫn sống nồng nàn và hào sảng
Mắt em không chứa hết bóng ta đâu
Dù thơ ta có chút gì lãng mạn
Không giúp em khuây khỏa một cơn sầu

Thời loạn
          Người Làm Thơ trở thành tên tiểu tốt
Lời hay ho không đủ để đời tin
Em vẫn nghĩ ta điên rồ dại dột
Sống lạ lùng bên cạnh đời em

Buổi chiều hành quân về
                           uống la-ve trong quán
Súng vất dưới chân
                   Mũ sắt dưới bàn
Lắc cục đá trong ly
 mỉm cười khinh mạn
Đời đang hắt hủi một thi nhân
  
Người chẳng yêu ta
cũng không chống đối
Chỉ làm ngơ như cây cỏ vô tình
Ơi hỡi Kiều Phong
 Ngươi đừng chết vội
Ngươi có A Châu
                   Ta chỉ một mình!

Thiếu Khanh 

TẠ TỴ * Du Tử Lê Nhà Thơ Của Khám Phá

Thơ Du Tử Lê là một sợi giây nối dài từ Việt Nam, quê hương yêu mến qua nước Mỹ, mảnh đất tạm dung. Nói đến thơ Du Tử Lê là nói đến khám phá, trong mỗi từ, mỗi ý.
Khen hay chê đã vượt  khỏi mức của một tài hoa phong phú, trong một con người  đa dạng.

Những vần Lục bát hoặc những câu thơ Tự do từ năm 1960, nó không còn ở ngoài chúng ta nữa. Đích thực nó đã thẩm thấu vào tâm hồn chúng ta rồi vượt thoát, nó lang thang bay bổng như mây trời trên cao, theo gió phiêu du về những chân trời mới trong lòng vũ trụ.

Tôi đã đọc thơ của Lê nhiều, thật nhiều,nhưng thơ của Lê đã bỏ xa thơ Lê những năm về trước, để khoan thai bước vào một tòa lâu dài uy nghi và tráng lệ, ở đấy đã có những khát  vọng và ngưỡng mộ chào đón. Không một ai có thể đoán trước được  những dài rộng của những kẻ có  thực tài và có một tâm hồn hiến dâng cho cuộc đời những giá trị hằng cửu của từng dòng thơ rớt xuống tự trời cao.

Thơ của Du Tử Lê hôm nay như con chim đại bàng đang soải cánh đo không gian và đo cả chiều dài của thơ mình trong lòng những người mến mộ Du Tử Lê.
Nhưng muốn được như vậy không phải dễ, một sớm, một chiều ta có thể tóm bắt được những gì ta hằng mơ ước. Nó phải phấn đấu, phải tự vượt, phải tự tra khảo mình để tìm kiếm chất liệu của thơ đang bay lượn, ẩn ấp đâu đó, để hiến dâng cuộc đời, chẳng mong được sự trả ơn, mà chỉ mong người đời hiểu được những ý nghĩ thầm kín ấp ủ sau hàng chữ làm nên vần điệu siêu thoát. Hai chữ  thi nhân nó là cái nghiệp, chẳng phải ai muốn cũng được. Chỉ có những người mà định mệnh bắt phải kết duyên với nàng Thơ, mới có được cái ân sủng đó thôi! 
 
Làm thơ không khó, nhưng làm thơ hay quá khó. Nó không phải là sự lựa lời chọn chữ để ghép câu, hoặc tự do phóng túng bày tỏ những gì mình muốn nói, muốn bày tỏ cùng kẻ khác cái tâm sự đa đoan phơi bày trên lòng giấy trắng. Không, thơ không như vậy. 

Mallarmé, nhà thơ Pháp ở cuối thế kỷ 18, thuộc phái Tượng Trưng nói: Làm thơ là sự kết hợp giữa trí tuệ và ngôn ngữ. Chữ nào được tôi dùng trong thơ, trước hết, chữ đó phải có tính chất Thơ. Ai đọc thơ của Mallarmé cũng kêu khó hiểu, nhà thơ cho rằng thơ của mình không khó hiểu, chỉ tại quý vị yêu thơ, đọc thơ  ít chịu suy nghĩ  để tìm hiểu đấy thôi! Cũng như Appollinaire đã chuyển hướng thơ của mình từ phái Tượng Trưng qua trường Siêu Thực (Surréalisme) do tiến bộ đòi hỏi. Nhưng xét cho cùng, dù thơ thuộc loại nào, trường phái nào đi nữa,trước hết thơ phải có tính truyền cảm và gợi  lên ở trong  trí tưởng những hình ảnh mà cuộc đời đã in dấu vào hồn mình, không cách gì chối bỏ! Mình phơi bày trên giấy trắng với ngòi bút những ăn năn cùng những nỗi ám ảnh không sao xóa bỏ trong lòng!
Nói cho đúng thơ Du Tử Lê không quá khó hiểu và cũng chẳng dễ dàng tiếp nhận. Muốn tiếp nhận những vần thơ làm theo thể tự do, người đọc phải kiên nhẫn gỡ từng mối chỉ rối, vì cố ý, người thơ đã trộn lẫn vào nhau để tìm sự hòa hợp cho ý nghĩ. Một khi mối chỉ đã gỡ xong, người đọc thơ cũng đã góp phần vào công việc sáng tạo.

Từ vạn cổ, người làm thơ luôn luôn cô đơn, mình làm thơ cho người khác đọc, tiếc thay, phần đông những người đọc thơ chỉ muốn đọc những gì mình có thể nhận biết ngay sau khi đọc, còn chiều sâu của thi ca là vấn đề của tác giả hoặc các nhà phê bình văn Học! Như vậy thiệt thòi qúa, thiệt thòi cho cả người làm thơ lẫn người yêu thơ. Thi sĩ làm thơ chẳng để ngâm nga một mình cho vui miệng. Không, không phải như vậy. Chính thực thi nhân phải mở trái tim mình ra để cho nguồn cảm thức rung động theo nhịp trái tim làm nên những vần điệu dù mơ hồ bóng gió, hay tỏ bày trực tiếp những nỗi niềm dù nhẹ nhàng hay cay đắng, nó là tinh túy của chất thơ tạo bằng sự thành thực nhất, sự dũng cảm nhất mà thi nhân có thể có được.

Thơ Du Tử Lê hôm nay, một mình một cõi,không chịu ảnh hưởng của ai. Nó như  ngọn núi sừng sững giữa trời cao, gió cả, mặc cho mưa gió, bão tố dập vùi. 
 
Thơ Du Tử Lê thật đáng yêu, nhất là ở những bài thơ tình. Cái tình yêu ấy không đơn thuần giữa đôi nam, nữ vừa bắt gặp đã quấn quýt hay đã đứt đoạn, chia lìa. Biệt ly nào mà chẳng buồn... Định mệnh đã bắt như vậy, Những kẻ yêu nhau phải cúi đầu chịu tội. Du Tử Lê lại có qúa nhiều duyên nợ với tình, mà cuộc tình nào trước sau gì cũng phải trả nợ bằng nước mắt, nó làm cho cuộc đời của thi nhân biến thành bi kịch.  Nhưng Lê là con  người gan lì, chẳng bao giờ chịu bỏ cuộc chơi. Tuy thế, Lê vẫn yêu quê hương với lũy tre, bụi chuối, yêu tiếng khóc, câu cuời của mẹ già, nơi chốn cũ, nơi Lê thường lui tới tìm về kỷ niệm:     
         lòng già sớm bạc cơn mong
       sáng, vun chân mộ, chiều, trông nhang tàn
       mẹ ngồi một cõi chia tan
       óc moi xác những đứa con đã vùi
       lưng đeo đá nặng một đời
       bảy mươi năm đó còn hoài giọt, sương...

       (Đêm mưa về Chí Hòa Thăm Mẹ, trích Thơ Du Tử Lê 1967-1972, tái bản tại Hoa kỳ, 1983.)   

Nhưng tình mẫu tử với Du Tử Lê cũng như một thoáng qua, nó có đó rồi tan đi như cây nhang đã cháy hết phần của nó, vì Lê còn nhiều nhớ thương khác.
Những chuyện tình luôn luôn làm xáo trộn đời Lê. Nhưng Lê không có can đảm từ chối..., trừ trường hợp đặc biệt đối với Donna, một cô gái Mỹ rằng, không bao giờ Lê
quên, hoặc rời bỏ Việt Nam bất cứ vì lý do nào: 
         không bao giờ đâu Donna
       dù anh có yêu em
       hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ
       thì anh cũng vẫn trở về
       quê hương anh với cả trăm ngàn khốn khó
       nơi anh sống chui rúc như chuột
       trong một căn nhà tôn vách ván
       nơi người yêu anh đang từng giây mong đợi
       (nàng cũng có một mái tóc dài thả xõa như em
       nàng cũng có đôi mắt mở to sáng trong nhẫn nhục
       tất nhiên tóc và mắt của nàng thì đen)
       không bao giờ đâu Donna, Donna
       dù anh có yêu em...

        (Vỡ Lòng Cho Một Người Con Gái Mỹ, sdd...) 

Như vậy, Du Tử Lê đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau, Lê từ chối mọi ân tình ngoài ân tình với quê nghèo đói và đôi mắt với dòng tóc đen. Có lẽ nó là ý muốn cuối của một người Việt Nam yêu quê hương, bằng lòng từ bỏ mọi ân sủng do cuộc đời ban phát!

Bài thơ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển, theo thiển ý, bài này có một giá trị nghệ thuật không thua gì bài thơ Chờ Anh Em Nhé của Simonov, Nhà thơ Nga, làm trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, do Tố Hữu dịch. Đại ý bài thơ nói với người tình (hay vợ) hãy cố khắc phục gian khổ, khó khăn, đợi anh về, sau khi chiến thắng quân thù! Một đằng, dù thân xác lưu vong này chẳng may có chết nơi đất lạ, quê người, thì xin hãy đưa xác  tôi ra biển, vì biết đâu nước biển chẳng đưa đẩy xác tôi trở lại quê nhà: 
         khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
       đời lưu vong không cả một ngôi mồ
       vùi đất lạ thịt xương e khó rã
       hồn không đi sao trở lại quê nhà 

        khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
       nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi
       bên kia biển là quê hương tôi đó
       rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì 

        khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
       và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
       cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
       biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi 

        khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
      đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
      những năm trước bao người ngon miệng cá
      thì xá gì thêm một xác cong queo 

       khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
      cho tôi về gặp lại các con tôi
      cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
      từ những mắt đã buồn hơn bóng tối 

       khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
      và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
      ôi lâu quá không còn ai hát nữa
     (bài hát giờ cũng như một hồn ma) 

      khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
     đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn. 


     Tạ Tỵ

Friday, May 6, 2011

PHAN BÁ THỤY DƯƠNG * Trên Nỗi Tình Người 4


tranh Trương Thị Thịnh

              
cho Lá Thắm 
 
mấy ngàn dặm hai khung trời cách biệt
em một phương
và ta ở một phương
trăng tuyết ở đây sao cũng dị thường
như khơi động nỗi niềm người viễn xứ
 
lỡ mai mốt em về qua xóm cũ
- ta lạc lòai từ thuở dấy đao binh -
đường xưa em đi cô lẻ một mình
ôm khắc khỏai thẩn thờ trong dư ảnh
 
mưa bên ấy chắc làm em thấm lạnh
gió Hạ buồn có làm tóc em bay
trời đất mang mang sông bể vơi đầy
ai đếm được con nước ròng - nước cạn
 
thôi nhé em -
góp chi từng sợi nắng
nuối tiếc gì bụi khói đã trôi xa
nhớ nhung nào năm tháng chẳng phôi pha
mà chợt khóc –
chợt cười trong ảo mộng
 
đốt lửa lên em –
hâm thêm rượu nóng
để mình say quên bão táp vô tình
sao mắt em buồn như giọt sương đêm
tìm bàn tay –
bàn tay chưa đủ ấm
 
biết về đâu ta nửa đời phiêu lãng
dấu u tình trong cổ mộ hoang sơ
có còn chăng bèo bọt với mây mờ
và ủ ấp bóng người trong lặng lẽ
 
sóng biển hởi -
xin vỗ về thật nhẹ
cát vàng ơi –
thôi xóa dấu hài hoa
sỏi đá nào dòng nước đã trôi qua
sao hiu hắt muộn phiền như rêu cỏ
 
gác chuông Bắc ta treo hồn trên đó
đợi em về hong tóc gọi đêm Thu
cho mưa nguồn giăng lá thắm sa mù
rồi em cất tiếng ru ta ngàn kiếp.