tranh họa sĩ Rừng |
1.
BỮA ĂN
Trên gương mặt xanh nhợt màu
lá chuối non của người đàn ông, hai chiếc má hóp lại
khiến cho đôi gò má càng nhô cao lên. Một bên mắt không
còn đồng tử trở thành một cái hố nhỏ đọng lại
chút bóng tối của chiều tà. Ông mặc một chiếc áo bà
ba đen bạc màu, vá chồng chất. Mặc dù vậy, bề dày
của nhiều lớp vá vẫn không che kín những mảng da lộ
ra đây đó trên tấm thân thể gầy gò. Cái quần lỡ
ngắn lỡ dài khoảng dưới đầu gối, mép vá rách te tua
tố cáo hình dạng đích thật của nó trước đây là một
chiếc quần dài, bị xé bằng tay mất khoảng dưới. Hai
ống chân lòi ra, xương ống chân cộm lên bao bọc làn da
khô láng, tái nhợt với những sợi gân máu nổi chằng
chịt.
Ông
ta ngồi xổm trên đất, dưới gốc một cây bồ đề
non. Trước mặt ông, một cậu bé khoảng dưới mười
tuổi, tóc hớt ngắn, nhưng đã mọc dài ra tua tủa, da
rám nắng, đôi mắt buồn, yên lặng, chăm chú nhìn thẳng
vào mặt người đàn ông, chờ đợi. Họ ngồi đối diện
cách nhau một vài gang tay. Giữa họ, trên đất, một cái
chén nhựa màu đỏ đã phai màu, méo mó, cáu bẩn, đựng
một thứ nước màu đen. Chất nước sền sệt đọng lại
dưới đáy chén như một lớp váng mỏng. Họ đang chuẩn
bị bữa ăn tối.
Người
đàn ông moi trong túi vải ra một chiếc bánh tráng, xé
làm tư, giữ một phần, còn ba phần cất vào túi. Ông
cuốn mẩu bánh một phần tư như vấn một điếu thuốc.
Ông cầm cuốn bánh bằng cả năm đầu ngón tay chụm lại,
cẩn thận quẹt phớt nhẹ lên mặt chất lỏng đen trong
cái bát nhựa, gạt đầu cuốn bánh-điếu-thuốc vào
thành chén. Đoạn ông ngửa cổ ra, miệng há to như chim
con chờ đút mồi. Đó là tư thế thích đáng để hứng
lấy những giọt nước chấm mà ông sợ chẳng may có thể
rơi xuống. Và tuy miệng ông mở ra rất to, nhưng lúc ngậm
lại rất từ tốn. Những chiếc răng cửa cáu bẩn dường
như không dám chạm đến đầu cuốn bánh. Và cuối cùng
đầu cuốn bánh chỉ bị chạm nhẹ lên hàm răng mà không
hề hấn gì. Như vậy là ông đã ăn một lần. Xong, ông
định đưa cuốn bánh cho cậu bé nhưng rồi ông đổi ý.
Ông muốn tự tay đút cho cậu bé ăn. Cuốn bánh tráng lại
được đưa phớt qua trên mặt chất nước màu đen. Và
trong khi cậu bé đã há hết chiếc miệng ra chờ, bàn tay
cầm cuốn bánh của người đàn ông thoáng chút rụt rè.
Hai lần cậu bé ngậm miệng lại, vì tưởng thức ăn đã
được để vào, nhưng cậu chỉ ngậm lại miệng không.
Một
dòng nước miếng tràn ra khoé môi, chảy xuống chiếc cổ
ngẩng. Đến lần thứ ba, cậu bé sửa đổi thế ngồi
thật vững vàng trong tư thế chực sẵn, người hơi rướn
tới trước. Trong tư thế sẵn sàng đó, trông cậu giống
như một con thú nhỏ rình chờ đớp mồi. Cậu đã thu
ngắn lại khoảng cách giữa cuốn bánh tráng và miệng
cậu. Nhưng rồi dự tính của cậu chỉ thành công một
nửa. Khi người đàn ông đưa cuốn bánh vào miệng cậu
lần thứ ba, đầu cuốn bánh chỉ vừa chạm vào môi cậu.
Chất nước chấm ít ỏi thấm qua làn da môi và chiếc
lưỡi của cậu bé lẹ làng như lưỡi rắn, lè ra quét
sạch. Tức thì, sự kích thích mạnh mẽ của vị giác
làm cho nét mặt cậu sáng lên và đôi mắt trở nên lanh
lợi. Bất ngờ, như một hành động tự hiến vượt
ngoài ý thức, một cử chỉ hăng hái có phần mù quáng
lẫn ân hận, bàn tay người đàn ông đưa tới. Nhẹ
nhàng không hay biết, hai bàn chân cậu bé nhích tới hai
bước. Hình như kết quả hoàn toàn do bất ngờ, cuốn
bánh tráng lọt sâu vào miệng cậu bé. Nhanh nhẹn, miệng
cậu ngậm chặt lại. Nhưng rồi hai hàm răng như hai gọng
kềm sắp sửa cắn đứt lìa – ít ra là phân nửa cuốn
bánh tráng dài hơn một lóng tay – vội mở ra khi cậu
bắt gặp vẻ hoảng hốt và bối rối trên con mắt còn
lại của người đàn ông. Và lợi dụng ngay tình thế
đó, ông ta lập tức rút cuốn bánh ra khỏi miệng cậu
bé thoáng vẻ mừng rỡ lẫn ân hận. Song cũng nhanh nhẹn
không kém, cậu đã hối hả cắn nhẹ một chút đầu
cuốn bánh tráng, cậu nhai nhóp nhép như đang nhai một
miếng gì to.
Hai
người nhìn nhau, cười bẽn lẽn.
Tới
phiên người đàn ông ăn. Ông ta cũng lập lại lối ăn -
như - sợ - làm - cho - cuốn - bánh - tráng - đau - đớn
lần đầu.
Nhưng
sự ăn mòn dầu là nhỏ nhoi và chậm chạp cũng đến lúc
làm cho vật bị ăn tiêu tán. Họ ăn hết cuốn bánh tráng
thứ nhất. Người đàn ông, rất thong thả, mở bị xách
lấy ra phần thứ hai, cẩn thận cuốn tròn lại... Rồi
phần thứ ba và thứ tư. Vừa đúng khi tiếng kẻng báo
giờ tập họp điểm danh tối trong trại tù vang lên,
người đàn ông giật nẩy mình như tỉnh ra từ một cơn
mộng, hối hả đứng dậy.
Trong
vòng vài phút còn đứng lại dưới gốc cây bồ đề
non, người đàn ông nhiều lần vét như lau vào lòng chén
rồi đưa ngón tay vào miệng mút. Chiếc chén hầu như
được rửa sạch. Ông ta mở túi xách cất chén vào, bước
hối hả về phía khu giam tù chánh trị. Đứa nhỏ cũng
rảo bước về khu giam trẻ vị thành niên. Trong ánh nắng
quái vàng rực của chiều hôm, bóng hai người ngã dài ra
hai phía.
Tại
chỗ bữa ăn diễn ra, một chú ruồi xanh đánh hơi muộn
mới bay đến. Nhưng chú ta, như một chiếc máy bay trinh
sát vừa phát hiện “có dấu hiệu địch”, nhưng khi
đến nơi địch đã hoàn toàn biến mất, thậm chí không
để lại một dấu vết cỏn con. Chú đảo một vòng vô
vị trên mục tiêu đường kính không quá hai gang tay, hoàn
toàn an ninh, rồi xẹt một lằn, chú ruồi xanh biến mất
trên ngọn cây bồ đề non, những chiếc lá nhuộm vàng
ánh nắng quái.
2.
GÓC PHỐ
Chiều
cuối tuần. Ngay trên lề phố, những quán hàng bày bán
đủ các món ăn nhậu. Cháo lòng heo, gà, vịt... Khách
hàng ngồi ăn đông đúc. Họ đưa cả gia đình ra phố,
áo quần tươm tất. Họ ăn uống tận tình. Nhai ngồm
ngoàm, húp xì xụp, nuốt ừng ực.
Phương
tây đùn lên những cụm mây đen. Khí hậu trở nên oi
bức. Ánh sáng mặt trời chiều lọt qua kẻ mây bắn
những chùm tia vàng xuống thành phố. Thỉnh thoảng một
cơn gió mang theo hơi nước bất ngờ thổi tới làm
dậy lớp bụi đỏ trong các đường phố hẹp.
Tôi
cũng là một thực khách. Tôi đã ăn một đĩa xôi
gà, một tô cháo tim cật và uống một chai bia lớn. Tâm
hồn sảng khoái.
Trên
đường về, tôi gặp gia đình đó chỗ góc phố. Bọn họ
gồm người cha và ba đứa trẻ. Tôi đứng lại nghe ông
kể chuyện. Vợ ông vừa chết trong chiến cuộc. Ông ta
đang bồng tựa vai đứa trẻ gái yếu quặt khoảng năm,
sáu tháng tuổi. Dưới chân ông, ngay trên vỉa hè, hai đứa
con khác của ông, một trai một gái. Đứa lên hai, đứa
lên một, trần truồng nằm tênh hênh trên một tờ giấy
báo cũ. Chúng đang gải những mụn ghẻ lở mọc lấm tấm
trên làn da bọc xương xanh nhợt. Chúng khóc nho nhỏ, như
tiếng kêu rên ư ử. Từng chập, nín lặng mở to mắt
nhìn lên những khách đi đường. Trông chúng như hai con
vật nhỏ được bày bán lâu ngày, trở nên cũ kỹ, mệt
mỏi. Người đàn ông mặc một bộ đồ lính mới toanh,
nhưng chiếc mũ nhựa ông đội sùm sụp trên đầu thì
màu trắng đang biến dần ra màu xám, bị thủng vài lỗ
nhỏ bằng đầu ngón tay. Đứa trẻ gầy gò mà ông cố
giữ lại, đang nẩy người, khóc thét lên. Chắc nó đang
khát sữa. Vỗ vỗ bàn tay thô kệch vào mông trần đứa
bé, người đàn ông hát ru nho nhỏ, ngập ngừng, như ông
mắc cở sợ những người qua lại nghe được. Khách qua
đường dừng lại xem. Thỉnh thoảng có những người
bỏ đồng tiền kẽm vào chiếc thau nhựa màu xanh đóng
bợn. Tôi bắt gặp những ánh mắt động lòng trắc ẩn,
chịu để tâm hồn mình chia xẻ. Cũng có những ánh mắt
ái ngại nhưng trong đó tôi đọc thấy ý nghĩ: “Đâu
có phải một mình gia đình ông khổ. Đất nước
chiến tranh loạn lạc hàng chục năm rồi. Gia đình ai
cũng kẻ mất người còn. Chúng tôi đây cũng có sung
sướng gì. Làm quần quật từ sáng đến tối mới
có cái cho vào miệng”. Họ bỏ vào chiếc thau những
đồng tiền lẻ, vẻ ngượng ngập. Tôi cũng bắt
gặp những ánh mắt hoàn toàn dững dưng trên những gương
mặt lạnh lùng. Họ chỉ nhìn thoáng qua rồi đi thẳng
như họ không hề trông thấy cảnh đó.
Tôi
cũng là một khán giả của hoạt cảnh. Trong những tiếng
động hỗn tạp của thành phố, tôi nghe tiếng khóc của
đứa bé vượt trội hẳn lên. Và mỗi lần nó nẩy người
khóc thét lên, tiếng khóc của nó như một mũi tên bắn
vào tim tôi. Tôi không rõ bạn có cùng một cảm giác với
tôi như vậy không khi bạn được mục kích cảnh đó
(một đứa bé không phải là con bạn, đang khát sữa).
Nhưng nếu bạn có một đứa con, khi nó đói mà bạn
không có tiền để mua sữa cho nó bú, tiếng khóc của nó
sẽ xé nát lòng bạn.
Rồi, không hẳn vì bị tiếng
khóc của đứa trẻ lôi cuốn, cũng không phải hoàn toàn
là phản ứng tự nhiên, tôi móc túi lấy ra hết số tiền
định bỏ vào trong chiếc thau nhựa – trong đó đã có
một ít tiền. Nhưng bỗng nhiên tôi lại khựng lại. Cầm
chặt tiền trong tay, tâm hồn tôi tràn ngập một sự xấu
hỗ và ăn năn. Với mớ bạc lộn xộn của tôi nắm gọn
trong bàn tay thì có thay đổi gì được cuộc đời họ
và tương lai những đứa trẻ? Trong một tâm trạng bàng
hoàng, tôi định bỏ đi. “Nhưng trong một xã hội mà
những con người như thế bị bỏ rơi, nếu không có
những tấm lòng từ thiện thì họ lấy gì để sống?”
Ý nghĩ đó níu chân tôi trở lại. Tôi đứng bên cạnh
hai đứa bé, dưới chân tôi là chiếc thau nhựa. Tôi chỉ
cần hơi cúi người xuống bỏ tiền vào đó, thế là một
hành vi từ thiện đã được làm xong. Và với số tiền
ít ỏi đó cùng với tiền của những người khác đứa
bé sẽ có sữa bú. Cha con họ có thể sống qua ngày.
Nhưng tôi đã không làm nổi. Có một sức mạnh tăm tối
giữ chặt tay tôi lại.
Tôi quay quắt bỏ đi, tâm hồn
tan nát vì cơn phẩn nộ. Cơn đau dạ dày nổi lên. Bụng
tôi cồn cào, miệng chảy nước dãi. Tôi muốn nôn. Nhiều
lần tôi cố nôn ra nhưng không có gì ngoài một ít chất
nhờn. Cuối cùng tôi chỉ có thể đi tiểu được. Tôi
tiểu ngay giữa đường và nước tiểu chảy ngoằn ngoèo
xuôi xuống một con dốc, mất hút, như đường trườn
của một con rắn quái gỡ. Còn đĩa xôi gà và tô cháo
tim cật bộ phận tiêu hóa đã làm xong nhiệm vụ, bắt
đầu biến thành máu nuôi thân thể tôi.
Tôi
rùng mình gài lại quần. Trời nổi gió. Cơn mưa ập đến
như xối nước. Roi mưa quất vào mặt tôi túi bụi. Tôi
dầm mình đi trong mưa. Một tiếng sét nổ, tôi bị vất
vào bụi rậm. Không khí khét lẹt. Tôi lồm cồm bò. Cơn
mưa mù mịt còn tiếp tục úp chụp lên thành phố.
3.
NUỐT LỐN
Họ
là hai người đàn ông đi làm thuê. Họ từ miền quê lên
và đã nhiều ngày không tìm ra việc làm ở thành phố.
Màu da trên mặt họ và tay chân họ bóng lên màu đồng
hun. Màu nắng nung cháy suốt bao ngày trong đời họ. Họ
mặc áo ngắn tay, không rõ màu gì, phong phanh hở cả da
thịt, quần đùi đen sát đến tận háng. Mồ hôi thấm
đẫm dán làn vải mỏng vào da. Người họ toát ra một
mùi cháy khét. Họ là những người sống bằng nghề
nông, nhưng họ phải từ bỏ ruộng vườn vì hạn hán và
vì chiến tranh tàn phá mùa màng, đe dọa mạng sống, họ
phải tha phương kiếm sống. Hai người đội hai chiếc
nón lá thô sơ mà hình thể ban đầu đã biến dạng.
Chiếc nón rách đã bị cắt nhiều lần bây giờ chỉ còn
vừa đủ che mái đầu của họ với cái chóp nhọn như
món đồ chơi trẻ con.
Khi
ghé vào nhà tôi, họ đã mệt lã. Cái nắng tháng năm và
gió Lào miền Trung vắt kiệt sinh lực họ. Họ ngồi bệt
ngay xuống mái hiên xin nước uống. Nhà tôi có một ít
gỗ vụn. Họ khẩn khoản xin mẹ tôi để họ chẻ ra
thành củi và “chỉ xin bà vài bát cơm nguội thôi”. Họ
thú nhận hai ngày qua họ chưa có bát cơm nào vào bụng,
chỉ ăn rau nhặt ngoài chợ và uống nước phông tên.
Thoạt tiên, mẹ tôi từ chối, nhưng sau khi biết tình
cảnh họ mẹ tôi bằng lòng. Họ xin mẹ tôi cho họ được
ăn trước cho có sức khỏe vì họ đang rất đói. Lúc ấy
vào khoảng xế chiều, nhà chưa nấu cơm. Mẹ tôi đem ra
cho họ khoai lang luộc. Họ ăn hối hả. Mỗi củ khoai, họ
chỉ cắn ba bốn miếng là hết. Họ không nhai, chỉ lấy
lưỡi đánh qua lại vài lần cho trơn là nuốt. Miếng
khoai trôi qua cổ họ vồng lên như rắn nuốt nhái. Thấy
tôi trố mắt nhìn, một người giải thích đó là “nuốt
lốn”. Ông ta nói: “Nuốt lốn có cái lợi là thức ăn
lâu tiêu và lâu đói lại”. Tôi đem bài học về tiêu
hóa ra nói với họ, khi ăn cần nhai kỹ để giúp cho sự
tiêu hóa được dễ dàng, giúp vệ sinh cho bộ phận tiêu
hóa như bao tử, ruột... Một người trả lời: trong
hoàn cảnh của họ càng lâu tiêu càng tốt, tiêu hết
không có gì để vào bụng lại.
Loáng
một cái, đĩa khoai hết nhẵn. Họ kể chuyện – làng
chúng tôi đã có nhiều người chết đói. Có người ăn
cây xương rồng và chết vì ngộ độc./.