văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, November 27, 2013

M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG * Một Thuở… Ngựa Hồng , Trên Đời Thơ Luân Hoán


Đồi 25, đồi 30, “ địa hình “, “ căn cứ “.
Vang rừng chồi xanh ngắt bước quân ca.
Dây tử thần….như tráng sĩ Kinh Kha
Kiêu dũng lắm, đời chiến binh gian khổ
Nung chí trai nơi thao trường nắng gió
Quyết một ngày về nối dãi non sông
Đồi Mẹ Bồng Con ôm ấp trong lòng
Gươm súng khắc ghi lời thề son sắt…”
(Với người môt thuở Cư-An - MHHLP) [1]

Như một cơ duyên không tên gọi, thật tình cờ tôi gặp lại Luân Hoán trên trang Vuông Chiếu của anh cách đây khoảng ba năm, trong khi lang thang đi tìm địa chỉ một người làm thơ trên Blog.

Trước 1975, tôi chỉ là một cô bé con làm thơ tình học trò với đầy ắp mộng mơ, lãng đãng vu vơ bên ngoài khung cửa lớp. Nhưng đâu đó…bên cánh phượng vĩ ép khô cuối mùa, tôi cũng đã từng đọc thơ anh trên những tạp chí, nguyệt san văn học.. cùng với Mường Mán, Trần Hoài Thư, Cao Thoại Châu…

Nhưng người rồi xa, đời rồi qua….
Bao nhiêu năm xứ người, tôi chìm trong một góc riêng lặng lẽ, với sách vở trở lại trường, lãng quên dòng văn học Việt vẫn âm thầm chảy trên nghiệt ngã, nổi trôi của người ly xứ, mà Luân Hoán vẫn không nguôi thở những hơi thơ ấm áp, dạt dào trên Vuông Chiếu cùng bằng hữu.
Và tôi đã đến, ngồi cùng anh trên Vuông Chiếu đó, tưởng chừng như đã đậm tình thân, dù chưa lần gặp gỡ.. trong từng chiếc lá thu phai, giữa mùa đông đến sớm, hay xuân muộn, hạ vàng nắng đỏ đường vui…
Tôi gặp lại tôi qua “Hoàng Tiểu Thư”. Tôi ngậm ngùi tôi với “Thay Trả Lời”. Tôi ướt mắt miên man về một thời tổ quốc điêu linh “Ngao du cùng vũ khí”….
Như một tấm gương soi, tôi nhìn tôi trong đó….

Khi nhận lời viết cảm nghĩ về thơ anh, là lúc tôi vừa trải qua những cơn mộng dữ của thời gian buồn im nhất. Nhưng một chặng đời thơ anh của một Viêt Nam đau thương với súng đạn vô tình để quyết dành từng tấc đất cho lý tưởng tự do đã dỗ dành trái tim tôi đừng khóc nữa…
Theo chân Luân Hoán, ta hãy cùng nhau “Ngao du cùng vũ khí”, trên một chuyến tàu ký ức, nhìn lại một bến bờ tưởng đã nghìn xa…

Xếp áo thư sinh, chàng tuổi trẻ lên đường theo tiếng goi của hồn thiêng sông núi. Những ngày tháng bắt đầu cho quân phong, quân kỷ, nhưng vẫn nghe phảng phất chút hương hoa của người ở lại:

Tìm đâu ra đươc tấm gương
Soi lại mái tóc đời thường vài giây
Hương gì vuốt rối ngón tay
Tình em ủ ấm trong này còn thơm”
( Đêm xuống tóc)

Nắng gió quân trường Tăng Nhơn Phú vẫn nhẹ như mây khi người sinh viên sĩ quan có chút dí dỏm tự trào:

Đồi Tăng Nhơn Phú trọc đầu
Còn tên lính sữa lâu lâu nằm dài.”….
………………………………………..
Đồi Tăng Nhơn Phú chiều vàng
Gió bay mặc gió, lòng hoang mặc người”
(Đồi Tăng Nhơn Phú)

Những bãi tập, sân bắn, dây tử thần, dây tự tin, tụt Giả Sơn… vẫn không làm nao lòng người lính chiến:

Góc ba mươi nhón lấy đà
Buông chân ăn nhịp tay tà tà rơi
Gió lồng khô giọt mồ hôi
Giả Sơn cũng chỉ trò chơi bình thường”
(Tụt Giả Sơn)

Và ngụy trang theo từng bước quân đi:

Khắp người cài giắt lá xanh
Làm cây di động tập hành quân xa”
( Ngụy trang)

Rồi đến giờ địa hình quan trọng, như một dấu mốc căn bản trên đường hành quân, nhưng hơi thơ lục bát của  Luân Hoán nghe ra vẫn có gì nghịch ngợm:

Trước tiên thám thính địa hình
Thử chấm tọa độ xem mình đứng đâu”
……………………………………………
Thật khó học được hờn căm
Ghét người quả thật khó hơn thương người”
(Giờ địa hình)

Chấp nhận lên đường, nhưng tác giả vẫn chưa yên, còn chút chạnh lòng với kẻ thù cùng chung màu da, tiếng nói. Cái tâm của Luân Hoán vẫn ngun ngút tình người trong hơi thở Việt Nam. Anh đã chênh vênh theo những khúc tình ca gọi người về từ bên kia giới tuyến:

Về đây nghe tiếng nhớ thương
Tiếng lòng dân tộc, mở đường tư do..”
(Xót lòng nghe khúc tình ca)

Tôi không nghĩ thơ anh phản chiến như anh hồn nhiên tự nhận khi không thể nào gửi bài đăng ở nguyệt san Chiến Sĩ Công Hòa – tiếng nói của những người lính quốc gia chân chính. Mà hãy lắng lòng nhìn thẳm sâu một Luân Hoán, đã đứng trên những bi thương khi cuộc chiến đã kết thúc với nỗi quặn đau của miền Nam bị bức tử, với tất cả hào hùng của một người cầm súng cho lý tưởng tự do qua hồi ký rời chan chứa yêu thương, quặn thắt về ngôi trường Mẹ đã hun đúc chí nam nhi:

Trường Bộ Binh Thủ Đức thân yêu của tôi, hậu thân của trường Sĩ Quan Nam Định, ra đời năm 1951. Qua bao thăng trầm biến động của lịch sử, đã thật sự khép lại một trang đời anh dũng với gần 70 khóa, đào tạo hơn 55 ngàn sĩ quan trừ bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Là cựu sinh viên sĩ quan, đã biết đổ máu cho chính nghĩa, cho tự do, chúng tôi không dấu những tự hào của mình. Chúng tôi vẫn là những người chiến thắng trong cuộc chiến bảo vệ tình người, bảo vệ nhân phẩm”
(Những ngày đầu quân và thời ở KBC:4100 – LH, Hồi Ký Rời)

Chín tháng quân trường rồi cũng trôi qua, cung kiếm tang bồng mười phương, tám hướng.. Nhưng nghe như tiếng thở dài quyến luyến về một nơi chốn đã rèn luyện chí trai:

Hàng cây, con đường làm thinh
Gió không lên tiếng tiễn mình buồn chưa?”
(Ngày ra trường)

Đề tài trong sinh hoạt quân trường của Luân Hoán rất phong phú, đa dạng. Là một bức tranh phác họa toàn cảnh từ sân bắn, bãi tập, đồi 25, đồi 30, ngụy trang, điạ hình, mặt trận giả, vượt sình lầy, đến nếp sống sinh viên sĩ quan từ trực đại đội đến ngày phép rong chơi phố xá, quân phục đi phép, hình ảnh kỷ niệm với bạn hữu .v.v….

Rất chân tình, với những lời tâm sự đầy kiêu hãnh, sau vài năm từ giã trường xưa:

Viết bao nhiêu cũng không vừa
Một đời giang nắng dầm mưa quân trường
Bốn ngàn một trăm (4100) muôn năm
Ít ra là ở trong lòng của tôi”
(Vài năm sau)

Từ chiến tuyến xa xôi, hồn vẫn hướng về thành đô vào ngày 19 tháng 06. Nơi ấy, trong đoàn hùng binh của Trường Bộ Binh Thủ Đức, chân anh đã từng nhịp bước bên bạn bè vang khúc hùng ca, mừng Ngày Quân Lưc Việt Nam Cộng Hòa  rạng rỡ núi sông.

Muốn bắn vài tràng thay pháo nổ
Nhưng thôi pháo đã nổ trong lòng”
(Ngày Quân Lực 1969)

Tiếng lòng của một người thơ cầm súng nhẹ như sương, hiền như lá, nhưng đong đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ Việt Nam. “ Thơ bỗng thay mình chào núi sông”.

Bước chân quân hành của anh đã đi qua những điạ danh của Vùng I Chiến Thuật và tham dự những trận đánh ở Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Nghĩa Hành, Nghĩa Hưng, Đức Phụng, Đức Hải, Núi Tròn, Núi Ngang, Mộ Đức, Trà Bồng, Quảng Tín,Văn Bâng, Bình Đê, An Mô, Lâm Lộc, Sơn Kim, Phú Sơn….

Tôi chợt nghe mình lặng đi giây lát…Bởi những câu thơ dễ thương nhưng pha lẫn xót xa của  một người con gái Saigon mang tên Ý Quân  gửi về giày saut, áo trận, đóng quân trên miền đất Quảng Tín bé nhỏ, hoang vu một thời nào… vẫn còn đầy trong ký ức…

Em bé nhỏ dưới giày saut anh bước
Đường anh đi thương biết mấy cho vừa?
Mai anh về, trời Quảng Tín có mưa?
Xin hãy nhớ lệ buồn em nhỏ xuống”
(thơ Ý Quân)

Trên đường di quân, trái tim người lính trẻ cũng đã một thoáng xôn xao, như chút ngọt ngào tạm quên đoạn đường chiến binh gian khổ:

Nếu mà không bận hành quân
Tôi đây quyết rủ em cùng ngồi chơi
Kể em nghe chuyện trên trời
Dạy em biết chuyện hai người yêu nhau
Vườn nhà em có sẵn cau
Tôi nhờ chú lính mua trầu về ngay”
……………………………………………..
Má em hồng như trái đào
Hương mưa, hương nắng trộn vào hương môi
Hương em cộng với hương tôi
Thành hương trời đất, hương người biết yêu”
(Thôn nữ Mộ Đức)

Chất lãng mạn đã bay cao hơn khi từ chiến trường nhận thư Xuân của người em gái hậu phương còn vương màu mực tím:

Thư em từng chữ bọc  nhung
Từng câu bọc lụa, khiêm cung thật thà
Ta là “ lính trận miền xa”
Nhưng hồn đang quấn hiên nhà của em.
Chỉ nhìn không dám đọc tên
Đã vang từng tiếng nhịp tim nồng nàn
Đêm nay chắc được mơ màng
Ngay trong phiên gác rừng hoang sao trời
Tên em thật, giả cũng vui
Tình em giả, thật cũng bùi ngùi thương
Tạ tình em gái hậu phương
Cho ta vài phút chợt thương chính mình”
(Thư Xuân em gái hậu phương)

Như một lời khẳng định, người lính Viêt Nam Cộng Hòa trong nhiệm vụ bảo quốc, an dân, chỉ giữ lại chút hương thơm nhẹ nhàng sương khói.

Tôi không là kẻ qua đường
Là người đi giữ bốn phương quê nhà
Gặp em chỉ dám ngó qua
Để vừa đủ nhớ hương xa có gần”
(Hạnh ngộ tình cờ))

 Lục Bát  của Luân Hoán dễ dàng, gần gũi.. nhưng vẫn đậm chất thơ, giàu chất nhạc với lời cám ơn tha thiết, chân tình:

Cám ơn vài mái tóc dài
Cho lòng cư ngụ trổ tài linh tinh
Đi cùng cuôc sống bộ binh
Tôi tha thiết trổ nhánh tình thanh xuân”
(Chỗ cư ngụ thời săn người)

Trở lại chuyên buồn vui đời lính, Luân Hoán nghịch đùa, ta thán:

Cả đời chưa trói con gà
Đá đít con chó, vây mà… cầm quân”
(Tôi thời tác chiến)

Như để diễu cợt chính mình:

Không anh hùng, cũng hiên ngang
Làm người lính trân Việt Nam Cộng Hòa”
(Một lần ngớ ngẩn)

Súng đạn vẫn vô tình… Thời chinh chiến xưa nay đã có mấy người đi trở lại:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
(Lương Châu Từ - Vương Hàn)

Ở một góc rừng nào, trong trận giao tranh, những giọt máu anh đã đổ xuống... Được tải thương về bệnh viện Dã Chiến I, anh vẫn lạc quan, an nhiên diễu đời,  đùa vui, cười cợt về mạng số:

Khi chuyển đến nhà thương
Mang gọn tên Dã Chiến
Ta lận theo lá bài
Bức thư tình mới nhận

Rõ ràng ta đã tin
Bổn mạng mình vững số
Và biết chắc tình em
Không xù dù có cớ.”
(Khi nằm bênh viện Dã Chiến 1)

Với tâm trạng trên, Luân Hoán tự trào nếu may mắn sẽ được thăng cấp trong nến, hoa “ Tổ Quốc Ghi Ơn, Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu”:

Cuộc đời được gọi cuộc chơi
Cuộc chiến một đoạn cuộc đời phù du
Nghệ thuật sống biết ngao du
Coi sinh tử nhẹ nhàng như nhau… là
Vui chơi thơ súng tà tà
Cùng em xinh đẹp trong ta … sống còn
Nếu may… Tổ Quốc ghi ơn
Gắn nhành dương liễu lên lon bất ngờ
Sớm được đưa lên bàn thờ
Công thành danh toại ngoài mơ ước rồi….
(Ngao Du cùng vũ khí)

Cũng tưởng chừng như cái cao ngạo với nụ cười châm biếm của Tú Xương trở về trong thơ Luân Hoán:

Trời kêu ai nấy dạ”
Riêng ta chắc chỉ Ừ
Nên chắc ông Trời ngán
Không thèm gọi thằng hư”
(Làm Dáng)

Tự nhận mình là một người lính trừ bị, nhưng vẫn ưa chuyện chiến trường:

Chỉ là tay súng trong mùa
Động viên nhưng lại rất ưa chiến trường”
(Tôi thời tác chiến)

Và có phải từ đó, mà tác giả bỗng chua chát hơn khi nhận ra nỗi khổ triền miên của người dân quê nghèo trong chiến tranh nghiệt ngã, khi tuổi thơ bị đánh mất, bị tàn phá bởi đạn bom. Nhà đã cháy. Người đã chết.

Trời chẳng động lòng cho cơn mưa đổ
Ta xuôi tay cam đứng tần ngần…”
………………………………………………

Ta quay gót hận mình bất lực
Chiến tranh ơi, máu mủ tương tàn
Đâu ranh giới của hai chiến tuyến
Ai chọn giùm ai một chỗ dung thân”
(Lửa cháy tuổi thơ)

Nhưng vẫn còn chút gì êm ả khi nghe một tiếng hát quen từ thành phố vọng về, như khúc tình ca hàng hàng lớp lớp.  Hình ảnh Đặng Dung hào khí mài kiếm dưới trăng bỗng soi bừng trong trí tưởng:

Lính bố trí quanh khu vườn rộng
Mơ hồ nghe giọng hát Hoàng Oanh
Anh đi chiến dịch“ bi hùng quá
Giòng nhạc trôi cùng ánh mắt xanh”
………………………………………….
Đang nghĩ về em, lòng sao lạ
Nhìn trăng chơt nhớ… tướng Đặng Dung
Đầm đìa hương nguyệt lưng đầu bạc
Hương kiếm mài thơm chí anh hùng”
(Trăng đêm xóm Ngọc Điền)

Chuỗi ngày hành quân, chỉ nhìn thấy đồi núi vây quanh, vẫn không làm phai nhạt mộng mơ của người lính chiến:

Ba ngày trấn giữ Phú Sơn
Đồi cao, núi thấp trên tròn, dưới vuông
Khói lên mây xuống buồn buồn
Nắng vô ra núi ngát hương xuân thì”
(Trấn núi Phú Sơn)

Trên nẻo quân hành gian khổ, Luân Hoán luôn giữ trong ballot  những tạp chí, nguyệt san, mang hơi thở thi ca của những khuôn mặt bạn bè văn nghệ cùng thời.. Lâm Chương, Lê Vĩnh Thọ, Cao Thoai Châu, Trần Hoài Thư… để đồng cảm cùng nhau trên từng ngôn ngữ..
(Thói quen quân hành)

Rừng tiếp nối rừng, những cuộc hành quân không giờ ngưng nghỉ:..

Đâu là Tam Quan Nam?
Đâu là Tam Quan Bắc?
Nơi đâu Mã A Sầu?
Nơi đâu cầu Nước Mặn?
Trước ta xanh nghít rừng
Sau ta sừng sững núi
Tìm môi hường lận lưng
Quả nhiên là quá khó
Hành quân, rồi hành quân
Đế giày không kip thở”
(Hành quân Tam Quan)

Tuy nhiên, vẫn giữ vững một niềm tin tất thắng:

Lội núi chưa bao giờ ta sợ
Hình như ngực mọc sẵn niềm tin
Lá bùa hộ mênh thơm trầm ngãi
Hoa lá mưa mây trộn tiếng chim.”
(Mặt trận Phước Sơn)

Chấp nhận, nhưng không bao giờ lùi bước:

Quyết chẳng thể nào nằm đâu đó
Dù trên đất Mẹ, lòng quê hương
Ta nuôi tổ quốc trong hơi thở
Gắng giữ cho đời có yêu thương
Chẳng dám trách ai gây chiến cuộc
Quê nghèo nhược tiểu, không buông xuôi
Lặng xếp bản đồ cho vào túi
Thắp sáng tự do đứng thẳng người.”
(Muc tiêu)

Cũng có lúc dừng chân trên con sông Trà Khúc nổi tiếng quê em, bỗng nhận ra thân phận lạc loài, nổi trôi theo giòng định mệnh

Ta người lính đang hành quân, được lệnh
Tạm dừng chân bố trí đợi, bất ngờ
Ngồi bên bờ chen cùng hoa cỏ dại
Lòng buồn buồn theo mắt ngó bâng quơ”
(Bên một đoạn sông Trà Khúc)

Nên làm sao không mơ hồ trong hư ảnh:

Nhớ em hôn cái chỗ nằm
Hơi ta còn đọng hương trầm từ em?”
(Thư gởi người tình trăm năm)

Nhưng trên đoạn đường chiến binh mịt mù lửa đạn, cận kề bên nhau, vẫn là tình đồng đội sáng ngời, chia xẻ hiểm nguy, gian khổ.

Mày đừng vội chê tao hiền
Áp dụng chưa tốt cái quyền chỉ huy
Lính trận là phải biết lì
Sớm thành danh một tay chì hành quân”
(Thư gửi đồng đội cũ)

Cùng chung trường Mẹ, lại gắn bó trên bước tử sinh đã là nỗi đau khổ không nguôi khi bâng khuâng nhớ lại sự hy sinh của một người bạn đồng môn.

Bây giờ nói gì nữa?
Mày trả xong nợ đời
Món nợ của tổ quốc
Vay khi chưa ra đời”
(Cũng chỉ vậy)

Ôm xác bạn vài phút trong tay trước giờ trực thăng cất cánh, Luân Hoán ngậm ngùi “ Mày đi nhẹ hơn thơ”

Trước đời sống và nỗi chết chỉ cách nhau một lằn chỉ mỏng, người lính cũng cần có chút men cay. Rượu như một người bạn quý, không thân nhưng dễ gần, cho cảm giác yêu thương hơn đời chiến binh mưa rừng, gió núi.

Hớp một hớp chua chua, đắng đắng
Tu một hơi ngọt ngọt, cay cay”
(Rượu thời làm lính)

Mang chút ngông nghênh “ Uống rượu tiêu sầu “ của Cao Bá Quát, Luân Hoán đảo ngược thơ ca, ngà ngà tỉnh thức:

Kỳ vô phong giống nam vô tửu
Vô tửu rồi bức rức ngồi không
Nhớ mặt trận lòng đầy hậm hực
Bắn vào đâu, đạn đã lên nòng”
(Hớp rượu giữa khuya)

Nhưng vẫn không quên:

Vừa đánh giặc, vừa làm thơ
Vẫn luôn giữ vững ngọn cờ quốc gia”
(Theo câu vịn chữ)

 Và nỗi nhớ nhà đã mênh mông trong thơ Luân Hoán

Núi cao, trời bao la
Oằn ruột nỗi nhớ nhà
Em yêu và cha già
Trước mặt mà xa quá!”
(Hoàng hôn xanh)

Bóng dáng người mẹ rõ nét qua cánh cò trên mặt sông rộng, như một nén hương lòng kính yêu, tưởng niệm:

Thả lòng qua ruộng, qua sông
Thương cánh cò trắng vẫy vùng buồn tênh”
(Đoạn viết ở Thu Xà)

Lời ai ru con theo gió đưa xa, bỗng cho hồn chông chênh, xúc động. Có phải ta chỉ thực sự  là ta khi bên đời ta vẫn còn có mẹ?

Xuống rừng khói đạn chưa nhòa
Chợt quần áo trận thơm hoa bất ngờ
Lời ru mầu nhiệm hơn thơ
Mang ta trở lại đời bao la tình
Vườn nhà cây lá lung linh
Tạ ơn giọng hát ấm tình ru con
Bước chân lựng chựng chưa mòn
Nhờ lòng Mẹ bọc gót son theo đời…”
( Tạ ơn giọng hát ru con bất ngờ)

Đời lính phong sương với núi rừng ngút ngàn, giăng phủ…, nhưng khi được về phép qua phố đông vui, Luân Hoán cũng không khỏi se lòng:

Phố vui làm mình thêm buồn
Thấy em nào cũng thoảng hương học trò….”
(Một lần đi phép thường niên)

Chinh chiến quê hương trải dài trong thơ Luân Hoán, dù anh vẫn ví như mình vào cuộc ngao du vui chơi cùng vũ khí. Và anh đã thực sư vĩnh viễn rời bỏ cuôc chơi, khi một bàn chân trái đã gửi lại cho chiến trường vào mùa xuân 1969.

Giã từ vĩnh viễn cuộc chơi
Giã từ một chặng đời tôi, bất ngờ”
(Rách áo, rời hàng)

Chỉ khoảng hơn hai năm mặc áo lính, nhưng những nét chấm phá trong thơ Luân Hoán, đã cho chúng ta hình dung được cả một tuổi trẻ Việt Nam thật sống động, hào hùng.

Tuy không nói ra, nhưng ta hãnh diện
Đã có chút gì đích thực con trai
Quân sử không tên, chìm vào quên lãng
Một chặng đời thơm suốt cả đời dài”
(Binh nghiệp).

Dưới góc nhìn của môt người cầm bút có suốt tuổi thơ ngây “ đại bác đêm đêm vọng về thành phố “,  tôi thành thật ngưỡng mộ và cám ơn anh – người đã để lại một phần thân thể trên chiến trường cho những người còn sống hôm nay trong hơi thở tự do trên vùng quê hương mới. Tiếng thơ anh sẽ không bao giờ tắt, bởi tự nó đã là những lời tự tình dân tộc. Như bước chân mùa thu âm thầm trong gió. Lặng lẽ trên từng khúc hát yêu thương. Từng mùa,và từng mùa.. Trong chờ mong mênh mang bất tận.

M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG
Washington D.C tháng 11/2013.

[1] thơ M.H. Hoài Linh Phương
Cư An Tư Nguy: tôn chỉ trên phù hiệu của các sinh viên sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
MH Hoài Linh Phương, tên thật Huỳnh Thị Mỹ Hương, bút hiệu khác Sóc Nâu, sinh tại Sài Gòn, ái nữ một tiến sĩ Công Pháp Luật Khoa SG, cựu đại tá QLVNCH. Hoài Linh Phương học Vạn Hạnh và Minneapolis Technical College, USA, Twin Cities Rise  MN, USA .Sau khi định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1993. Bắt đầu làm thơ đăng báo từ năm 1963, có bài trên nhiều tạp chí, thi phẩm đã xuất bản Thơ Hoài Linh Phương (bìa Trịnh Cung).