Hôm ông cựu thiếu
tá Trang tổ chức lễ sinh nhựt cho ông đại tá Bill, sau
khi ăn uống no say, tặng quà cho ông Bill xong thì đến
phần phụ diễn văn nghệ. Nói cho xôm trò như thế, nhưng
“phụ diễn văn nghệ” có nghĩa là ai biết hát thì lên
hát. Phòng SB có cây đờn ghi-ta của ai đó, ai biết thì
cầm đờn phụ họa, ai không biết đờn thì cũng có
người đánh xịch xèng hòa theo. Ai may mắn thì được
ông Hải Quân thiếu tá Nguyễn Thìn, tức nhạc sĩ Trường
Sa, phụ đàn cho.
Ông cựu thiếu tá
Cao Dai, hát một bài tiếng Tây quen thuộc, hồi xưa rạp
Tân Tân ở đường Trần Hưng Đạo Huế hay cho phát trên
loa, trước giờ “vô phim”. Có lẽ hồi đó ông cựu
thiếu tá Cao Dai còn là học trò, dạo phố hay đi học
ngang qua đường Trần Hưng Đạo, nghe riết thành quen hay
ông tập tành bài hát nầy vào một dịp nào đó, riết
thành quen, ai mà biết.
Không bàn hát hay hay
dở, nhưng thường thì không những dở mà lại còn là dở
ẹt, khi hát, ông cựu thiếu tá Cao Dai hướng mặt về
phía ông đại tá Bill, ngồi bên cạnh ông cựu thiếu tá
Trang. Đó là lịch sự. Ông Dai hát chào mừng sinh nhựt
ông Bill thì mặt ông ta hướng về ông Bill. Còn ngoài ra,
vì vui mà hát, hay hát để bốc thơm ngày sinh ông Bill một
chút, như người ta thường hát để “ca ngợi ngài giáo
tổ” trong ngày Phật Đản hay ngày Chúa Giáng sinh, ai
biết được.
Có điều, tôi ngồi
với ông cựu đại úy Cảnh Sát Tống Văn Thừa, ông kỹ
sư Bửu Tộ, ông kỹ sư Nguyễn Dương Hảo và ông cựu
trung úy Hồ Đắc Liệu, - thường bị tôi đùa, gọi trại
là “lẹo” -, phía sau lưng ông Cao Dai, thấy rõ ông Cao
Dai vừa hát vừa run. Ông Bửu Tộ chỉ vào cái chân co
của ông Cao Dai cho chúng tôi thấy mà cười. Không cười
sao được! Cái chân ông Cao Dai lẩy bẩy như cái càng con
châu chấu bị ngứt đầu như người ta thường làm để
đút cho con sáo con ăn vậy.
Còn nhạc sĩ Trường
Sa, vốn là nghệ sĩ đa cảm đa tình, thấy người ta tiễn
nhau đi định cư ở cầu tầu jetty, là nơi tầu “Suma
Tăng Cát” đến đón người đi, mà viết một bài hát
mới, nhan đề là “Tiễn Em Ra Cầu Nhung Nhớ”. Nhạc
Trường Sa thì hay, nhưng giọng ông Trường Sa thì ồ ề,
nên trước khi hát, nghe ông giới thiệu bài ca mới sáng
tác, mọi người ai nấy vỗ tay hoan hô dữ lắm, nhưng
khi nghe ông ta hát, ai ai cũng thất vọng. Giọng hát ông ồ
ê, tôi gọi đùa là “giọng độ-ma-jờ”, hát hỏng cái
gì được!
Mấy bữa trước,
sáng tác xong, ông kêu tôi giới thiệu bài hát mới, tôi
đã nói với ông ta rồi: “Nhạc anh hay lắm. Cần giới
thiệu, anh nhờ cô Lệ Thu hát cho. Anh hát, không những
không hay mà người ta còn cười đấy.” Lệ Thu mà hát
nhạc Trường Sa thì cũng giống như Khánh Ly hát nhạc
Trịnh Công Sơn. Có lẽ nhạc sĩ Trường Sa cũng biết vậy
thật đấy, nhưng ở trên đảo Bidong nầy, kiếm đâu ra
cô Lệ Thu. Có thể có một Lệ Thu nào đó ở đảo, gốc
là thị Mít, thị Xoài nào đấy, biết ca cải lương hơn
là biết hát nhạc cải cách. Khi đến đảo, cô Mít, cô
Xoài bỗng thấy mình lột xác, bèn đặt cho mình một cái
tên mới, Lệ Thu hay Lệ Xuân, cũng có thể là Thanh Lan,
Thanh Điệp. Tên thì giống nhưng mà hát thì làm sao giống
danh ca được. Tiếng con chim quạ, đâu phải đầu hôm
sớm mai mà thành con chim hoàng oanh.
Bây giờ tới phiên
ông cựu thiếu tá Trang đứng lên trổ tài mừng sinh nhựt
ông đại tá Bill. Ông làm ra dáng vẻ một nghệ sĩ, tay
ôm đàn, gục đầu xuống, cất giọng: “Ngày xưa có
kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng...”
Vốn tính hay đùa,
mới nghe chừng đó, ông Bửu Tộ lên tiếng: “Ở đây
không có động như ở Ngã Ba Chú Ía. Ông Trang lên núi
Bidong.”
Ông Liệu lại chen
một câu khác:
- “Rán mà hát cho
hay, bắt giò cho chặt, hát dở, ông Bill hỏi tại sao
thiếu tá mà cải tạo mới có 4 năm rưởi mà đã được
tha về, bỏ mẹ luôn! Mục đảo như không!”
Liệu nói thế vì
theo “tiết lộ bí mật” của ông Hảo, - bí mật nhưng
mà ai cũng biết -, rằng ông Trang khóa 18 Đà Lạt, phó
phòng 3 Sư Đoàn Dù, tù cải tạo chỉ có 4 năm rưởi thì
được tha.
Hảo khoe với tôi:
“Em là vua thuốc Tây chợ trời Saigon. Mỗi sáng em ngồi
ở quán càphê mà định giá thuốc cho ngày đó. Thằng
nầy (tức là ông cựu thiếu tá Trang), mỗi sáng chạy
cái xe Yamaha Dame ra ngồi xớ rớ gần chỗ em họp. Chờ
em ra giá xong, báo cho y biết. Y chạy đi thông báo kiếm
chút tiền còm về nuôi vợ con. Nó vượt biên với thằng
Khoai, đại úy Dù, thằng nầy lại không đi cải tạo, về
xứ sở tổ chức vượt biên ở “quê hương Đồng Khởi”
đấy. Mẹ vợ bé của ông cựu thiếu tá Trang là thiếu
tá Công An Dziệt Cộng nằm vùng. Tôi nói: “Hèn chi thấy
ông qua đây, nó gọi ông lên làm phòng SB để trám miệng
ông.” Hảo kéo thêm hai người bạn cùng vào làm SB, một
là Bửu Tộ, ông kia là ông Liệu. Hai ông Tộ và Hảo đều
là kỹ sư Canh Nông làm cho bộ Canh Nông trước 1975. Cựu
trung úy Hồ Đắc Liệu là bạn học cũ của ông Hảo hồi
ở trường Quốc Học Huế.
Nghe ông Trang hát
xong, tôi nói: “Ông ta hát có cảm xúc đấy!”
Tộ lại cười: “Lý
thuyết và thực tế không đi với nhau. Nhiều ông thầy
chùa giảng “đời là hư vô”, nhưng ông nào ông đó
vàng tính bằng cây. Tài sản đất ruộng ông Ngô Đình
Thục ở Saigon, ở Vĩnh Long nhiều lắm. Hát “Lên non tìm
động hoa vàng” nhưng tranh nhau cái chức trưởng phòng
SB.”
Tôi
cũng tin ông Tộ nói đúng. Ông Tộ người Huế. Ở Huế
người ta biết tài sản ông Thục gồm những gì. Chỉ
một cái lầu Jira (?) mà thôi, người ta cũng đã ngán cho
một vị tu hành. Tộ cũng phụ trách việc truất hữu
chính sách “Người cày có ruộng” của “tông tông”
Thiệu, ông ta phải biết chủ điền là những ai chứ! Ở
Vĩnh Long “đức cha” cũng có ruộng vậy!!!
Sở dĩ Tộ nói câu
“tranh nhau cái chức trưởng phòng SB” là vì mấy hôm
trước, tôi kể cho cả đám ông Hảo nghe rằng hôm ông
Trang gọi tôi lên phỏng vấn để nhận vô làm phòng SB,
ông Trang tự giới thiệu: “Tôi là trưởng phòng.” Tôi
hỏi: “Còn ông Khánh sao?” Ông Trang trả lời: “Ông
Khánh cũng trưởng phòng.” Vậy là phòng SB có tới 2
trưởng phòng. Đời thuở nhà ai có chuyện lạ đời
không?!
Ông Khánh cũng lên
hát một bài. Dĩ nhiên, ông Khánh cũng như mọi người
hát không hay, nhưng tôi để ý câu sau đây, khi hát, trông
ông có vẻ buồn lắm: “Nếu ngày ấy mình đừng quen
nhau thì ngày nay có đâu buồn đau...”
Tiệc tùng xong, tôi
tính đi tắm. Ở phòng SB, có nước ngọt, tắm “thả
dàn”, nhưng vì hôm đó tập trung ăn tiệc nên khi tiệc
xong, nhiều người cùng đi tắm nên phòng tắm kẹt. Tôi
ôm khăn áo, ngồi chờ trên cái ghế đặt ngang hai gốc
dừa ở phòng chờ. Phòng chờ là một cái sàn hơi cao, có
mái che, không có vách, rộng bằng nửa cái sân bóng
chuyền.
Giữa hai gốc dừa
nầy, hình chữ V., ai đó đóng một tấm ván ngang làm chỗ
ngồi. Chỗ ngồi nầy khá thoải mái, vì lưng thì dựa
vào thân dừa bên nầy, chân gác vào thân dừa bên kia,
ngó mông ra biển. Xa xa, bên kia biển là rặng núi xanh
xanh, xương sống của bán đảo Mã Lai, giống như khi tôi
còn trẻ, ngồi bên bờ sông Thạch Hãn hay sông Hương mà
ngó lên dãy Trường Sơn vậy.
Cái tấm ván làm chỗ
ngồi được nhiều người chiếu cố, láng bóng lên. Ông
Khánh đang ngồi trên đó, nhìn bâng khuâng ra biển xanh.
Tuy tôi không có chỗ
ngồi thoải mái như ông Khánh, nhưng cái ghế tôi ngồi
bên cạnh ông cũng có lưng dựa. Tôi cũng dựa lưng vào
ghế, ngó mông ra biển.
Bắt
chuyện, ông Khánh nói với tôi:
-
“Anh Hải thấy biển đẹp không?”
-
“Biển khi nào cũng đẹp, nhưng tôi không thích biển
buổi chiều, gió lộng, sóng dữ lắm. Biển hay làm cho
người ta nhớ. Trịnh Công Sơn viết “Biển Nhớ” là
nói nỗi nhớ mênh mông như biển hay biển làm cho người
ta nhớ...” Tôi nói
-
“Nghĩ sao cũng được, cũng có lý cả. Nhớ là quay về
dĩ vãng.” Ông Khánh nói.
Tôi
nói:
-
“Hồi nãy, anh hát “Nếu ngày ấy...” thì cũng là nhớ,
là quay về dĩ vãng vậy.”
-
“Anh tinh thật.” Ông Khánh khen tôi. “Cải tạo về,
tôi đạp xích lô kiếm ăn, thấy người ta chở vợ mình
trên xe “Dream”, qua mặt mình, vợ mình ôm eo người ta,
tôi tưởng như tôi có thể gục xuống ngay trên chiếc xe
xích lô. Đau lắm anh ơi!...”
Tới
phiên, tôi chào ông Khánh mang khăn áo đi tắm...
&
Bị
ám ảnh bởi cái câu “Đau lắm anh ơi!...” nên mấy
ngày sau, sau khi phỏng vấn xong một “kê” (case), tôi
nghỉ mấy phút, ra ngồi ngoài phòng chờ cho thoáng mát,
vừa cầm ly càphê vừa hát... cho tôi nghe. Dĩ nhiên, tôi
hát dở ẹt, nhưng tôi lại là người hay hát. Sợ người
ta chê hát dở, tôi thường tự an ủi “Hát hay không
bằng hay hát”. Vậy là tôi cứ cái bài ông Khánh hát
hôm mừng sinh nhựt ông Bill mà ngâm nga: “Nếu ngày ấy...
mình đừng quen nhau.”
Lại
cái ông Tộ “nhiều chuyện”:
-
“Anh bị con nhỏ nào đá chưa mà cứ “nếu ngày ấy...”
hoài vậy.
Tôi
cười:
- “Bồ
đá đâu có quan trọng! Ông có nghe bọn con gái Huế nói
không? “Chẳng thà bồ đá, không bằng hỏng thi.” Tui
cũng vậy. Tui con nhà nghèo, “cơm đùm gạo bới” mà đi
học. Thi đậu mới là gay, còn em nào cho đi “tàu bay
giấy” thì mặc cha nó.”
Nói
xong, bỗng tôi nhớ tới việc Tộ bị vợ bỏ. Anh ta là
kỹ sư, làm giấy tờ bồi thường truất hữu cho một
ông chủ điền. Ông chủ điền cám ơn, gả con gái cho,
lại cho thêm mấy triệu. Vậy mà sau 30 tháng Tư, anh ta bị
vợ bỏ, buồn tình, anh vượt biên. Ở đảo, tính tình
anh ta đôi khi hơi “điện chạm”. Nghĩ chuyện Tộ, tôi
nói với anh ta:
-
“Tui nói thiệt ông! hồi trẻ tui cũng có mấy con bồ.
Khi bị con nào đá, tui cũng buồn sơ sơ. Bây giờ, nhớ
lại, đôi khi lại cho là may. Giả thử như tui lấy con
đó, mà không lấy vợ tui, chắc đời tui cũng tơi tả
lắm!”
Vậy
rồi tôi kể lại cái “Đau lắm anh ơi...” của ông
Khánh cho ông Tộ và ông Hảo nghe. Khi đó, ông Hảo cũng
vừa tới hóng chuyện. Hảo cười, nói to:
-
“Người ta đã nói rồi. “Tái ông thất mã”. Chuyện
đời biết sao được mà lo!”
Mấy
hôm sau nữa, tôi phỏng vấn mọt “kê” xong hơi trễ,
chỉ còn ông Trần Quốc Phụ, trưởng ban, chờ tôi giao
hồ sơ lại đem cất, và tôi mà thôi, sau khi tôi cho “đối
tượng” ra về rồi.
Khi
tôi đi ra sân trước thì ông Khánh đang ngồi ở cái ghế
giữa hai gốc dừa. Ông Khánh nói với tôi:
- “Có
lẽ tôi đi sớm. Hồ sơ USCC bên Mỹ xong rồi.”
Ông
Khánh, tới đảo trước ngày “cut off date”, nôm na
thường gọi là ngày “đóng cửa đảo”, khỏi bị
“thanh lọc”, được định cư sớm. Phái đoàn Mỹ nhận
cho đi Mỹ rồi, chỉ cần cơ quan USCC tìm người bảo trợ
mà thôi.
Thấy
tôi đứng lại nói chuyện với ông, ông Khánh rời khỏi
ghế, nói với tôi: “Anh rảnh không? mình ra ngoài kia
ngồi chơi.” Tôi “ừ” rồi đi theo ông Khánh. Ra khỏi
hàng rào B-40 của phòng SB là tới cái sân trước nhà máy
đèn. Ở đó có cái băng dài. Ông ta ngồi xuống một
đầu. Đầu kia, ông đưa tay chỉ, ý muốn bảo tôi ngồi
xuống.
Tôi
nói, như một lời cuối, trước khi chia tay ông ta, về
câu chuyện “Đau lắm anh ạ...” của ông:
-
“Anh sắp đi rồi, tôi mừng cho anh, làm lại cuộc đời.
Mọi việc rồi cũng sẽ nguôi ngoai, sẽ qua đi.”
Ông
Khánh nói:
- “Từ
lâu, tôi đã cố quên đấy chứ. “Đành quên đi! Thôi
còn thương tiếc làm gì!” Anh biết bài hát đó chứ,
nhưng mà đêm đêm, nằm chờ ngủ, nhắm mắt, cố quên
mà không quên được anh à.”
&
“Trước
khi về Lực Lượng Đặc Biệt, tôi phục vụ trong đại
đội Trinh Sát Sư Đoàn.” Khánh kể. “tôi đánh nhiều
trận căng lắm, “loon” của tôi, hai lần “đặc cách
mặt trận.”
“Giữa
năm 1965, một trung đoàn Việt Cộng chiếm một phần chân
núi Bà Đen. Phía đó, chúng nó có thể quan sát chợ Long
Hoa và đường vào “tòa thánh Tây Ninh” rất rõ. Mấy
ông “chức sắc” sợ, kêu cứu sư đoàn. Phe ta điều
hai tiểu đoàn tới, đánh ba ngày chưa xong.”
-
“Mình ở dưới, chúng nó trên, bất lợi.” Tôi góp ý.
-
“Vậy thì mình phải trên đánh xuống. Lúc đó, tôi,
“loon” thiếu úy mà làm đại đội phó, vì đánh giặc
“chì” lắm. Ông tướng gọi tôi tới, hỏi tôi có đủ
gan để chỉ huy một trung dội nhảy trực thăng, từ trên
đánh xuống không? Tôi ừ liền. “Dzụ nầy dễ ẹt”.
Tôi trình với ông tướng. Vậy là tôi có mấy chiếc
H-34. Hồi đó mình chưa có HU-1B.
“Sau
một đợt của 2 chiếc Skyraider, trực thăng xuống thấp
trên sườn núi đá dốc đứng. Làm chi có bãi đáp!!!
Trong
khi 2 chiếc Skyraider đè chúng xuống, không cho ngóc đầu
lên, 28 người chúng tôi xuống bằng dây. Tới đất, tìm
chỗ ẩn núp xong là quan sát. Bọn chúng tôi chỉ xài lựu
đạn. Tên nào ngóc đầu lên, bắn lóc cóc là dộng cho
nó một lựu đạn. Bây giờ thì tôi lợi thế hơn. Sườn
núi dốc bảy tám chục độ, cứ lựu đạn thảy xuống
là ăn, ngọt như đường. Bọn tôi xuống lúc 10 giờ, quá
12 giờ trưa, tui cho lính nghỉ xã hơi. Sau một giờ trưa,
chơi tiếp đợt hai. Hai tiểu đoàn của mình ở dưới
chân đồi cũng chẳng thèm nổ phát súng nào. Chiều lại,
mặt trời hơi nghiêng nghiêng, ông tướng gọi tôi đầu
máy: “Lựu đạn xài bao nhiêu? Cần thêm nữa không?”
Tôi đáp: “Trình chuẩn tướng, còn đủ. Sáng mai còn
chơi một trận nữa, xin thêm. Đêm nay chúng nó rút, chịu
không nỗi đâu!”
“Tụi
tôi gần ba chục đứa, mỗi đứa dộng cho tụi nó gần
chục quả. Nội một ngày hôm đó, tụi nó chịu bao nhiêu
lựu đạn của chúng tôi, mà trái nào trái đó quăng
xuống, chắc như bắp? Chịu không nỗi, đêm đó chúng nó
rút thiệt. Sáng hôm sau tình hình êm ru, ngó xuống dưới
chân núi, tưởng như súng đạn chưa từng qua nơi nầy.
-
“Anh lên đặc cách?” Tôi hỏi.
-
“Không những thêm một mai vàng, ông tướng còn cho tôi
mười ngàn, cho 3 ngày phép, du hí Saigon. Thế là tôi đến
trường đón cô ta.”
Tôi
nói chen vào: “Đón em tận cổng trường.”
“Vâng!
Đón em tại cổng. Rồi chúng vào ăn nhà hàng Lệ Hoa ở
Tổng đốc Phương, nhảy đầm ở Crystal. Vào tới nhà
hàng nầy, một cô “tài pán” đến lễ phép hỏi tôi:
“Trung úy chọn em nào không?” Tôi cười: “Tôi có đào
của tôi rồi, số một đây.” Và tôi chỉ cô ấy. Cô
“tài pán” lại chào cô ây rất lịch sự.”
“Anh
biết sao không? Đi chơi với cô ấy, đi ăn, đi dạo phố,
đi nhảy đầm, bao giờ tôi cũng phải mặc đồ nhà binh.
Ý cô ấy muốn vậy.
-
“Thần tượng. Thần tượng xã hội. “Xã hội quan văn”
qua rồi với cái chết của cụ Ngô. “Xã hội quan võ”
lên hương.”
-
“Đúng vậy!” Khánh nói. “Người con gái thấy anh nhà
binh hào hùng hơn. Thiên thần mũ đỏ, mũ nâu... Thành ra
tôi có một “bộ đồ vía nhà binh”, vừa vặn, ủi
thẳng, ủi hồ phẳng, huy chương, huy hiệu, lon lá không
phải rực rỡ mà rõ ràng để đi phố với bồ, tôi cũng
cứ mang “loon” đen, giày “saut” bóng, gỏ chân cồm
cộp.
“Tới
khuya, gần giới nghiêm, tôi bảo đưa cô ta về. Cô ta
không chịu về. Tôi sững sờ! Con gái nhà lành, nề nếp,
giàu có, lại hoa khôi của trường, bà mẹ đang chờ kỹ
sư, bác sĩ đến hỏi...Tương lai tươi sáng đang chờ,
sao lại đi đêm với trai, một anh sĩ quan quèn, súng đạn
không chừng đâu biết được, biết có về được hay
“bại tướng cụt chân”.
“Bà
mẹ biết tôi và cô ta yêu nhau, bà cấm cửa. Vậy mà đêm
nay, cô ta dám đi suốt đêm với tôi. Cô ta nói: “Em phải
là vợ anh. Em không thể xa anh được. Em liều với anh.
Mẹ không chịu cũng phải chịu...”
“Tôi
cười: “Em trao cái cán dao cho anh, mẹ cầm đầu lưỡi.
Sao em liều vây?”
“Cô
ta đáp, bình tĩnh: “Em không dành cái đẹp nhất của
đời em cho một người hùng thì em dành cho ai?”
“Chúng
tôi cười rúc rích và ghé qua đêm ở một khách sạn
hạng sang trên đường Nguyễn Trung Trực.
“Tôi
đánh vài trận nữa, không thiếu nguy hiểm và cũng ngon
lành, một năm sau, lại thêm một mai và cưới cô ấy. Bà
mẹ không cho cưới cũng không được. Ý chí cương quyết
của cô ấy và, và... cái bụng lùm lùm!
“Bấy
giờ thì tôi thấy ngại cho đời lính. Vợ đẹp, con
ngoan, cầm chân mình lại. Tôi chuyển qua Lực Lượng Đặc
Biệt, nhưng bấy giờ, loon lá như tôi, trận mạc nhỏ
cũng ít đi. Tôi chỉ tham dự những trận lớn. Trận lớn
thì tính mạng mình cũng ít ngại hơn. Thế rồi 30 tháng
Tư, tôi đang mang “loon” thiếu tá.
-
“Anh không có bỗng lộc gì nhiều?” Tôi hỏi.
-
“Không anh à. Moi đâu ra tiền? Chúng tôi sống nhờ đồng
lương. Gạo, đường, sữa mả thì nhờ Quân Tiếp Vụ.
Mẹ vợ tôi qua đời đột ngột, anh em ai có đời nấy,
cho nên đến ngày đi tù, tôi không biết vợ tôi lấy gì
nuôi con. Học trò xuất thân, vui chơi rồi chăm sóc chồng
con… suốt một đời. Khi còn trẻ cũng như khi lấy
chồng, cô ấy không biết xoay xở, không biết buôn bán,
sống nhờ vào đồng lương của chồng. Cuối cùng, hai
đứa con tôi, cô ấy cũng cho được đứa con trai vượt
biên, còn chị nó, về ở với bà nội. Cô ta đi lấy
chồng.”
Tôi
hỏi:
-
“Anh trách ai?”
-
“Trách ai? Tôi biết trách ai? Trách ai bây giờ? Trách ông
Thiệu? Ổng nói rồi mà: “Mất đất nước, mất tất
cả.” “Tất cả” là có vợ con mình trong đó. Tôi
trách vợ tôi được không?”
- “30
tháng Tư, miền Nam đã chết. Anh em mình chết trong trại
cải tạo. Chết liền hay chết dần mòn, cũng là chết
vậy.” Tôi nói.
-
“Tôi nghĩ nhiều khi người đàn bà đáng trách. Lấy
chồng là lấy ông sĩ quan, có xe Jeep, có tài xế, có
tà-lọt. Ai chịu lấy một thằng tù ở tận đáy xã hội.
Đối với người đàn bà, bên cạnh bao nhiêu cái cạm
bẫy của đời, lại còn sách lược của chúng nó nữa.
Không những cướp tài sản của “thằng ngụy” mà còn
phải xé nát gia đình của “thằng ngụy” ra. Dù không
giết nó, không “tắm máu” thì cái “thằng ngụy gia
đình tan nát” ấy, chống phá cách mạng được cái gì,
bằng cách nào? Trong cái sách lược ấy thì người đàn
bà là mục tiêu của chúng nó, có muốn yên thân thì yên
được hay sao? Rồi còn cơm gạo, rau cá… Họ cũng phải
sống chứ. Chúng ta ở “tù trong”, có “nhà nước”
lo, dù khoai mì, khoai lang, cũng đủ ngày ba bữa, năm một
bộ quần áo. Họ là “tù ngoài”, - như bọn Công An thú
nhận như vậy -. Họ là “tù ngoài”. Họ được cấp
khoai lang, khoai mì hay tự kiếm lấy. Vậy là quỵ, ngã
quỵ. Hộ khẩu là xiết bao tử lại, là người dân không
có con đường nào khác. Đàn bà con gái không làm vợ bé
cán bộ thì cũng làm đĩ. Cái kinh khiếp của chế độ
Cộng Sản chính là ở chỗ đó. Cả cái miền Nam nầy
ngã quỵ xuống, tan nát, có riêng gì một mình vợ anh hay
vợ một ai khác!!!???” Tôi nói tiếp.
-
“Tôi biết anh à, tôi biết anh à! Nhưng làm sao quên được
người vợ cũ để khỏi đau lòng?” Khánh than thở.
-
“Yêu nhau là tình, vợ chồng là nghĩa. Càng mất cái
nghĩa, anh càng chua xót cho cái tình. Đời vậy thôi! Lý
thuyết thì vậy, thì hay, nói thì dễ, quên đi một chuyện
tình, một quãng đời lứa đôi hạnh phúc, đâu có dễ
gì!!!
Một
lúc sau, tôi hỏi:
“Có gặp nhau
lần nào nữa trước khi đi?”“Đau lắm. Nhà
tôi ở trong hẽm. Tôi ở nhà mẹ tôi. Nhà tôi trong cư xá quânđội bị lấy mất rồi. Nhà cô ấy, do anh chồng lấyđược một cái villa của một ông dân biểu chế độ cũ đầu hẽm. Mỗi ngày mấy lần tôi đạp xích lô ngang nhà cô ấy, ban đầu còn thoáng thấy. Về sau cô ấy tránh mặt. Chỉ một hai lần thấy ông cán bộ chở bà trên xe Dream, tôi đã đau lắm rồi! Sau nầy không thấy nữa. Côấy muốn tránh cái đau cho tôi hay sao? Tôi không biết.”
“Vậy thôi.”
Tôi hỏi.
“Gay cấn là hôm
đám cưới con gái tôi. Nó buộc tôi và cô ấy phải có mặt, bên cạnh vợ chồng nó. Nó không mời ông cán bộ, nhưng ông ta vẫn đến dự. Khi chụp hình, con rể và con gái tôi đứng giữa. Tôi bên nầy, cô ta bên kia. Và… cô ấy khóc, lấy tay áo lau giọt nước mắt, hình như cố nín. Lòng tôi như xé ra!!! Vậy rồi thôi. Tôi cũng cố tránh người cũ! Gặp nhau nữa mà làm gì?
Tôi
hỏi:
“Anh
có khóc không?”
“Khóc
à?” Khánh nói. “Không biết hồi nhỏ tôi có
hay khóc không nhưng từ khi khôn lớn thì không. Tôi cứ nghĩmình làm mình chịu, tại sao lại khóc? Hồi Mậu Thân,đụng một trận ở ngã ba Cây Thị, tôi nghĩ là tôi có thể khóc mà không khóc được. Một trái B-40 nổ ngang tầm chân phải tôi, tôi tưởng như chân tôi đã cháy thành than, nóng kinh khủng. Tôi nằm lại, không di chuyểnđược. Trước mặt là xác hai thằng lính của tôi, sốcòn lại rút đâu mất tiêu. Dziệt Cộng đang tấn công, chạy qua chạy lại trước mặt. Chúng nó tưởng tôi chết rồi, không bắn. Tôi muốn khóc, không phải khóc vì sợmà vì cái chân đau quá. Vậy mà tôi không khóc. Sau đó, tôi được cứu thoát. Khi đó, thì mặc dù chân còn đau, nhưng tôi lại cười.
“Thế
khi ở trong trại tù?” Tôi lại hỏi.
“Trong
tù, một thời gian dài, khoảng hơn hai năm,
tôi nằm gần một ông “Thông Thiên Học”. Ông nầy giảng cho tôi nhiều cái hay lắm anh à. Tôi học ở nhà trường,ở đời, ít thông suốt nhiều vấn đề như khi ở với ông. Vì dụ như ông ta nói về đời, cái nhìn rất khoa học.”
Tôi
đề nghị:
“Anh
giải thích đi.”“Ông
ta nói con người có số phận, nhưng cái số phậnấy do tự mình định đoạt ra, không phải do một đấng thiêng liêng nào định ra cho ta cả. Đó là cái mâu thuẫn trong truyện Kiều. Nguyễn Du nói: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhưvậy thì phong trần hay thanh cao đều do ông trời địnhđoạt ra cả. Nhưng Nguyễn Du lại viết về cô Kiều “Cứtìm những chốn đoạn trường mà đi.” Vậy thì cáiđoạn trường là do cô Kiều tự tìm đến. Cô ta có thể đến, cô ta có thể tránh đi được. Như thế thì phong trần là do ông Trời định đoạt thế nào được chứ?”
Tôi
nói:
“Tui
học Kiều, dạy Kiều, đọc nhiều sách về Kiều, nhưng nhận xét về truyện Kiều như anh là mới lạ đấy. Nó gần với nhân quả như trong lời tựa của cụ Trần Trọng Kim.”
“Vâng.
Khổng tử bảo là “Khôn chết, dại chết, biết sống.
”Vậy thì con đường đời chúng ta đi là do chúng ta tự vạch ra, trên cái nghĩa “khôn”, “dại”, “biết”như Khổng tử nói, chứ có ai vạch ra cho mình đâu? Ông bà ta cũng nói vậy: “Khôn sống, bống chết”. Thành ra, tạo hóa chỉ cho chúng ta có một điều: Sự sống. Còn ngoài ra, sống như thế nào, là do cho chúng ta tựvạch lấy. Cái số phận, theo nghĩa đó, là chúng ta tựvạch lấy, do cái “khôn”, cái “bống” hay cái “biết”của chúng ta. Thượng đế có đày đọa hay cứu giúp gì chúng ta đâu?! Cái việc tin vào Thượng đế cho ta sốphận là do chúng ta tự vẽ vời ra.”
“Anh
có ứng dụng lời nói của ông thầy “Thông thiên học” vào đời sống của anh không?” Tôi hỏi.
“Có
chứ sao không? Tôi lấy vợ, chúng tôi yêu
nhau, sống với nhau, tôi đi ở tù, vợ tôi bỏ tôi là do tựchúng tôi cả.”
“Vậy
anh chỉ trách vợ mà thôi?” tôi hỏi.
“Cũng
không nốt. Cái mình tự vạch ra cho mình, hay một dân tộc vạch ra cho dân tộc đó, trở thành cái nạn chung. Nhân loại nầy rồi cũng vậy anh à. Nhân loại sẽsống chung với nhau trrong hòa bình, hay giết nhau để sinh tồn, là do tự cái nhân loại nầy định đoạt lấy. Chẳng có ông Thượng đế nào nhúng tay vô đây cả.”
Ngoài
kia, trời đã tối. Chúng tôi vừa thoát qua khỏi một
đoạn đời đầy gian nan, nhìn lại, mặc dù nhân loại
ngày nay có hô hào nhiều nhân đạo hơn nhân loại ngày
trước, xem ra cũng chưa thấy có một tương lai sáng lạn
gì!
Chưa
đầy một tháng sau, Khánh đi định cư. Tôi và vài anh em
nữa làm việc ở phòng SB, tiễn ông Khánh ra cầu jetty.
Đứng bên cạnh cựu Hải Quân thiếu tá Nguyễn Thìn, tức
nhạc sĩ Trường Sa, hôm ấy cũng tiễn ông Khánh, tôi hỏi
đùa:
“Cây cầu nầy
là cầu của anh đây phải không?”
Nhạc
sĩ Trường Sa ngạc nhiên:
“Sao cầu nầy
là cầu của tôi?
Tôi
cười: “Đưa Em Ra Cầu Nhung Nhớ”, không phải cầu nầy của anh thì còn của ai?”
Nghe
nói đùa, nhạc sĩ Trường Sa cười hề hề, như cái cười
muôn thuở của ông ta, trong khi ông Khánh đưa tay ra bắt. Có lẽ ông Khánh cũng không hiểu tại sao ông Thìn lại cười hề hề khi hai người bắt tay nhau như vậy!
hoànglonghải