văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, October 1, 2012

TƯỜNG LINH * Khúc Ca Quy Ẩn & Bài họa của Võ Thạnh Văn






TƯỜNG LINH * Khúc Ca Quy Ẩn

Bạch diện qua rồi, vẫn trắng tay
Thư sinh buổi trước, gã cuồng nay
Lạc đường quay ngựa, vương tình bút
Xa ruộng, lìa quê, nhớ luống cày ....

Ðọc sách nửa đời chưa sáng ý
Bão bùng tơi tả cánh mơ bay
Nghìn câu nguyện ước tan theo mộng
Ráng đỏ mây phai nắng cuối ngày

Hiên vắng ta ngồi đêm nguyệt tận
Mắt buồn người hiện giữa cơn say
Khúc thu người tiễn ta chiều cũ
Dương liễu đầu sông lá rụng đầy

Không chén trường đình mà lảo đảo
Không màng sự nghiệp cũng ngây ngây
Sông Thu nào phải là sông Dịch
Hai phía thầm đau nhạn lạc bầy

Ta đã hẹn người ngày tái kiến
Hội Xuân đời ghép hội rồng mây
Người không còn nữa, ta phiêu dạt
Trở lại còn ai gặp nữa đây ?

Quê cũ, cổng làng ai đứng đợi ?
Chiều Xuân lạnh chiếu rượu xuân bày
Sông xưa lở cả đôi bờ đẹp
Hoang vắng, đò thôi cập bến này

Trời mênh mông quá, vô tình quá !
Không hận nhưng lòng tiếc lắm thay !
Vốn nặng cưu mang tình cố lý
Về nhìn hiên cúc gió thu lay

Ta ngâm khe khẽ bài tương biệt
Người trách thầm qua nét nhíu mày
Nhân ảnh mờ chìm trong đáy cốc
Rượu chiều sóng sánh bởi heo may

Ta chờ nghe tiếng thân thương cũ
Người gửi riêng ta thuở đọa đày
Chiều bỗng tuôn mưa, trời nổi sấm
Chén buồn còn lại chất men cay

Bóng người mãi mãi là hư ảnh
Mưa suốt đêm trường, gió lạnh vây
Rượu rót chờ người không hiện nữa
Bài thơ chiêu niệm ý hao gầy

Cố nhân ! Ta gọi tên bằng hữu
Vạn nẻo trầm luân mất dấu giày
Ta ngó lên nguồn, trông xuống biển
Hỏi cùng nam bắc, hỏi đông tây ...

Lặng im xẻ nghé tan đàn hết !
Tiếp những mười năm hẹn đã chầy
Mồ bạn lạc loài bao cõi lạ
Nén hương chưa đốt tỏ lòng này

Tri âm, tri kỷ như sao sớm
Chút nghĩa kim bằng cũng hiếm thay !
Cuối cuộc viễn hành đơn độc quá
Bơ phờ cánh hạc khép đường bay

Gẫm bao chí lớn trong thiên hạ
Chẳng được còn xanh với cỏ cây
Thì ta một chấm nhân sinh nhỏ
Mong mỏi gì hơn ở kiếp này ?

Cũng chẳng tính chi còn với mất
Càng không than vãn chuyện riêng tây
Ðàn xưa trỗi lại bài lưu thủy
Lắm nỗi niềm trao với nước mây

Khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp
Khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy
Vang mãi dư âm triều hệ lụy
Thơ chào tuyệt tích gửi ai đây ?

Tường Linh
Tân Tỵ 2001
Bài họa của Võ Thạnh Văn
NỬA ĐỜI LÂM LỤY

Cuộc diện xoay vần, hề! Tang hải
Nước non dâu bể buổi hôm nay
Chiến chinh Đất Mẹ, hề! Phế tích
Binh lửa can qua nát luống cày

Nấu sử một đời, hề! Khói trắng
Sôi kinh nửa kiếp mộng vờn bay
Nam Kha tròn giấc, hề! Gươm lạnh
Tê tím hoàng hôn ráng cuối ngày

Bao đêm nguyệt tận, hề! Hoang vắng
Bình thủy tương phùng cạn chén say
Đôi bờ vực lở, hề! Đồng điệu
Bá Nha, Chung Tử… hận vơi đầy

Bến nước Sông Thu, hề! Linh địa
Mộng lớn buồm căng chí ngất ngây
Càng khôn dị dị, hề! Khoái hoạt
Khuây khỏa Tề, Di… nhạn kết bầy

Đã hẹn một chiều, hề! Tương ngộ
Hàn Giang sông nước tụ hoa mây
Mài dăm giọt mực, hề! Khai bút
Bên trời lận đận kể từ đây

Bèo hoa tan hợp, hề! Tương biệt
Người đi kẻ ở tiệc chi bày
Thì thôi lãng đãng, hề! Mệnh nước
Hoành gươm thổi sáo tống ưu nầy

Tâm tình hảo hán, hề! Trăng tỏ
Nghĩa khí trượng phu hiếm vậy thay
Sục sôi máu cuộn, hề! Tinh huyết
Phế thành cờ lộng gió thu bay

Quê Cha vạn dặm, hề! Tần Lĩnh
Lắng sâu đáy cốc sợi lông mày
Rượu đắng trường đình, hề! Dịch Thủy
Mai về Dĩnh Thủy rửa cơ may

Giang đầu Thủy Bạc, hề! Mờ mịt
Bến nước Kim Sa khói đọa đày
Người lỡ vận trai, hề! Ẩm hận
Ta cam mất nước uống nồng cay

Mịch La ngày ấy, hề! Khói sóng
Gió dập mưa vùi bủa tứ vây
Đành ngắm trăng suông, hề! Thế sự
Đổi thơ lấy rượu chuốt thân gầy

Bằng hữu Yên Tần, hề! Chung Thủy
Một thoáng mù khơi nhớ dấu giày
Ngậm ngải tìm trầm, hề! Chí cả
Vẽ mình mò ngọc biển Trời Tây

Rồi mai quay gót, hề! Cố quận
Ca hát nghêu ngao hết tháng chầy
Bạc thếch chinh y, hề! Vuốt mặt
Ngâm khúc Ly Tao tỏ dạ nầy

Hồng nhan tri kỷ, hề! Trích địa
Chút nghĩa kim bằng quý lắm thay
Cuối nẻo trầm luân, hề! Thành bại
Sương đồng hạc nội chập chờn bay

Trải bao hưng phế, hề! Kim cổ
Gom chút tà dương bón cỏ cây
Hạt bụi truy tầm, hề! Nguồn cội
Tắm lại đầm sen Vân Trạch nầy

Gác chuyện công danh, hề! Phiêu lãng
Đánh giấc bên đồi trăng xế tây
Cung xưa lỗi nhịp, hề! Phiêu giạt
Lưu thủy hành vân rợp bóng mây

Khúc Ca Quy Ẩn, hề! Kiêu bạt
Bỉ sắc tư phong bút mực gầy
Khúc ca lâm lụy, hề! Hào sảng
Vần thơ trác tuyệt vẫn còn đây

Phù hư dật sĩ
Võ Thạnh Văn

Phù Hư am, Vùng Bắc Vịnh
2005

PHAN * Bông Cúc Vàng

 

Sáng đầu thu mát rượi, ngồi ngoài quán vỉa hè Quê Hương ở Saigon Mall. Ngồi nghe gió thu về hanh hao giậu cúc trong nỗi nhớ mông lung. Tất cả từ bông cúc vàng trên cái kẹp tóc của cô bé theo mẹ đi chợ. Có cô bé nào không theo mẹ đi chợ để trở thành bà mẹ dắt con đi chợ sau này. Cũng như những chú bé đã từng theo cha đi câu, đi ta bà thiên địa-không cho mẹ biết… đang ngồi quán cà phê kể lại những kỷ niệm thật đẹp. Và chiều nay sẽ có những người cha dẫn con trai nhỏ đi câu cá, đi đá banh… Người cha Việt cũng không khác gì những người cha Mỹ to lớn, thật khó khăn cho ông ta ngồi xổm để mặc đôi giày trượt băng cho cô con gái bé tí trong sân trượt băng ở những trung tâm huấn luyện mà tôi đã thấy.

Có người cha đã già đang ngồi quán nói rằng, khi con cái còn nhỏ thì con trai thân vơi mẹ hơn vì nhu cầu lương thực, và con gái thân với cha hơn vì nhu cầu thích được nuông chiều… nhưng khi trưởng thành thì đổi lại cho cùng hệ. Bởi con trai có thể ngồi uống chai bia, coi đá banh, football với ông già tía; con gái thích tỉ tê với mẹ về thời trang, kiểu tóc, kem dưỡng da…

Chuyện ngoài quán cà phê, hiếm ai bất bình với vợ con trong gia đình hạnh phúc của mình. Chỉ khi chiều tà, từ Quê Hương chuyển qua Năm Hứa, trong quán bia thì mỗi ngài đều ngán ngẩm đường về nhà xa lắc lê thê với lắm cảnh sát. Nhưng cũng không khó bằng về tới nhà, phải đối diện với một nửa mà ban sáng nói khác bên quán cà phê Quê Hương. Suy ra rượu bia làm đứt dâu thần kinh thẹn của đàn ông, sáng nói một đàng chiều làm một nẻo. Người cha nọ nói xong bỏ chạy, không cho ai góp ý kiến gì hết. Thật ra, ông tới giờ đi đón cháu ở nhà trẻ.

Nhưng bông cúc trên cái kẹp tóc của cô bé theo mẹ đi chợ lại vàng hơn nắng đầu thu khi hai mẹ con trở ra parking để về. Một lão lụi ngồi quán nói về trà cúc sai bét. Lão không nói thì cũng không ai nói lão câm. Nhưng lão ngồi yên thì ai biết con nít sống lâu năm cũng có tóc bạc. Không chừng Quê Hương đóng cửa vì lão không được nói ở nhà nên mới ra đây! Xin Quê Hương đừng khó khăn với người thích nói.
Rồi một lão ông khác, ngẫu hứng chuyện rù rì của lão thì không ai hay. Chỉ thấy lão thở ra hơi thu mới đậm đà, “hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình”. Chắc chắn là Tố Như tiên sinh không thể ngờ được là thơ của tiên sinh bay sang tới Mỹ. Tiên sinh chỉ thở dài, “Bất tri tam bách dư niên hậu/ thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Dù sao quán sáng cũng dậy lên mùi nhớ, không nhất thiết là mùi hương sang cả vì đời người di dân mấy khi được tiếp xúc. Mùi hương sáng đầu thu nơi viễn xứ dạt trôi của người Việt tha hương ngộ cố tri lẩn quẩn trong mùi ẩm thực nhiều hơn mùi hoa bưởi hoa nhài, hoa cau… Vì thế có người kể chuyện mùi bún mắm nghe chop đậm đà.

… Tôi có thói quen dậy sớm-dù cuối tuần. Cái thú rảnh rang ám ảnh người hưu trí nhưng hấp dẫn người đang đi làm thì ai cũng đã biết! Cuối tuần, tôi vẫn dậy sớm, tận hưởng cái thú pha ly cà phê không phải nhìn đồng hồ, không việc gì phải chịu nóng mà bưng ly cà phê ra xe để đổ lên đổ xuống trên đường tới hãng. Tôi thích nhâm nhi ly cà phê sáng cuối tuần, khi trời còn mát mẻ. Ngồi đọc báo khi chưa có tiếng kêu ông ơi; ba à! Là những giây phút bình yên…

Tôi thường hết ly cà phê và đọc tờ báo tôi thích thì đi cắt cỏ (xen kẽ với tuần rửa xe). Tuần đó tôi đang cắt cỏ thì anh bạn hàng xóm người Mỹ bước qua chào hỏi và nói: “Chiều nay, nhà tôi có tiệc. Là tiệc cưới của tôi. Tôi mong ông cho phép khách mời của tôi được đậu xe trước nhà ông vì chiều nay bạn bè tôi tới đông.”

Dĩ nhiên là tôi đồng ý ngay và chúc mừng hạnh phúc cho người hàng xóm. -Dù trong lòng tôi rất hoang mang… Thấy họ là hai vợ chồng, hai vợ chồng người Mỹ đông con vì hai trai, hai gái. Tuổi từ 16 tới 21. Tôi đoán thế! Rồi lòng tò mò nên sau cắt cỏ, tôi hỏi con tôi về nhà hàng xóm vì nó rành hơn mình. Thằng nhóc nhà tôi cho biết, “Ông, là cha của hai anh, đã ly dị vợ. Bà là mẹ của hai cô, đã ly dị chồng. Chiều nay ông bà làm đám cưới với nhau. Họ có mời con sang dự tiệc b.b.q chiều nay…” Nghe hết hồn với thằng nhóc la cà không thua mình hồi nhỏ.

Tôi cắt cỏ xong, cơm trưa xong trước 12 giờ để coi game football. Vậy là tôi ôm cái tivi miết. Có nghe tiếng nói cười của đông người nhà bên, họ ăn thịt nướng, uống bia và trò chuyện… nhưng sự việc biết rồi thì hơi đâu thắc mắc chi nữa. Cha con tôi cũng hò hét, la ó với Dallas Cowboy thì bà cụ sinh ra mấy đứa con tôi xuất hiện, la rầy… “lớn tiếng quá! Nhà bên hôm nay có đám cưới đó. Lịch sự với hàng xóm chút đi.”

Tôi với con tôi bớt ồn cho phải phép, tưởng bà cụ vô phòng luyện phim Hàn tiếp. Ai dè bà cụ đi nấu bún mắm ngoài patio để chiều nay đãi bạn. Trong khi tôi hết hiệp 3, thời gian chờ đợi hai đội chơi hiệp cuối thì đi lấy thơ cho kịp trả biêu (bills). Ra khỏi cửa nhà, tôi không biết mùi gì lan tỏa hết không gian rộng lớn của cả xóm. Thế là lấy thơ cho mau, về bẩm báo cụ bà xem nhà Mỹ kia ăn đám cưới món gì mà khiếp quá!...

Ai dè, nồi bún mắm của bà cụ nhà mình từ patio đã bốc mùi khắp không trung, gởi gió cho mây ngàn bay thênh thang chiều gió lộng… làm đám cưới bên kia giải tán.

Tôi nhớ hoài, nhớ hoài… gương mặt người hàng xóm nhìn tôi sau đám cưới. Tôi đoán, ông ta nghĩ tôi không phải người tốt vì buổi sáng thì vui vẻ nhận lời cho đậu xe, chúc mừng hạnh phúc… nhưng chiều phá đám người ta. Ông hàng xóm không thèm chào hỏi gì tôi nữa. Tới ông dọn đi nơi khác đã lâu mà tôi vẫn còn nhớ gương mặt lạnh lùng của ông chỉ vì mùi bún mắm.

Người khác kể ngắn gọn hơn về món độc của dân ta: Tôi làm hãng Mỹ nên người Việt tự bảo nhau đem cơm ăn trưa cũng cần tế nhị như sườn chiên, cải xào… thế thôi. Món gì nặng mùi thì chiều về nhà tha hồ ăn. Nhưng có người Việt nam mới qua nên chưa biết, chị ta hâm mắm kho trong microway. Gặp cái microway trong hãng tôi là loại dùng cho nhà hàng, nó hâm 1 phút bằng microway ở nhà mình hâm 5 phút, trong khi chị ta bỏ hâm microway rồi đi rửa tay để ăn cơm, mất mấy phút mới đại họa. Làm cả hãng nhốn nháo, có người Mỹ bất bình nào đó đã gọi xe cứu hỏa và xe cảnh sát tới! Đám Việt nam chúng tôi trốn luôn, bỏ bữa cơm trưa hôm đó vì quê quá trời…

Tối về, tôi tìm đọc về mùi hương trên mạng để xem các nhà khoa học giải thích thế nào về mùi bún mắm! Ai dè lò dò theo những đường link, lại gặp búm mắm từ trang blog “chuyện hàng ngày” Tác giả không đề tên nhưng viết rất hay, thật như đời sống hàng ngày của người Việt hải ngoại. Xin mạn phép trích dẫn:

Mùi.
Mấy tuần nay thòm thèm bún mắm, đã mua hũ mắm cá, tôm, mực, cà tím, xả… chỉ cần bật bếp lên nấu… rồi cứ chần chừ và đến tuần này thì chỉ còn sót lại hũ mắm . Lý do chẳng phải vì mình không biết nấu, hay vì không có ai ăn chung, mà vì cái mùi mắm.
Vài tháng trước, tất cả cửa sổ mở ra, mùi mắm lồng lộng, thơm ngát trong khi 2 thằng con vừa bịt mũi, vừa chạy lên lầu và la làng "nghẹt thở chết". Tô bún múc ra mất ngon vì nhìn thấy cái mặt nhăn nhó của 2 nhóc. Đến tối, lui cui thắp đèn cầy khử mùi, đun một nồi cà phê âm ỉ trên bếp, lau dọn lại bếp cho khử hết mùi mắm. Làm kỹ vậy mà trong từng phòng vẫn phảng phất cái mùi dân dã này. Nên lần này, mình ngại hơn nữa vì thu về, lạnh, khó mà mở hết cửa cả buổi.
Ghé nhà bạn chơi, chồng bạn lăng xăng đứng suốt ngoài vườn… "ổng canh nồi mắm kho. Phải nấu ở ngoài, mang vào ăn thôi. Nấu trong nhà thì không chịu nổi. Mà nấu hồi sáng sớm khi hàng xóm chưa thức để không phải tận hưởng cái mùi quê này..." Mình cũng định làm theo mà thấy lách cách mất công quá. Thôi nhịn. Cái mũi mình dạo này nhạy, nên việc khử mùi sau mỗi khi nấu ăn bắt đầu thành nỗi ám ảnh. Riết rồi tránh luôn các món thơm nức như cá chiên, chả giò, bánh xèo... Tối qua, vừa mở cửa vào nhà, Kevin la toáng lên, "có meatball tối nay phải không? Con ngửi thấy thơm quá!" Thấy vui vui...

Thôi thì tha phương, ăn để mà sống. Bao giờ về được quê ta thì tha hồ ăn những món khoái khẩu như ông ngoài quán cà phê ban sáng đã nói. Tôi chỉ cón một mẹo vặt chia sẻ với người viết blog là sau khi nhà đã nặng mùi. Bạn hãy bắc nồi nhỏ lên bếp. Đổ vào đó chừng một chén giấm chua, mở lửa nhỏ cho giấm sôi chậm… hơi giấm bay ra cả nhà, làm hơi gắt mũi nhưng không lâu sẽ hết mùi giấm và cả mùi mắm kho, chả giò, bánh tôm chiên, bánh xèo… mùi gỏi củ cải trắng với cà rốt mới khủng khiếp căn nhà khép kín vì máy lạnh, máy sưởi mà người Việt bất đắc dĩ phải ở trong thời gian chờ đợi hồi hương một ngày nào đó trong tương lai.

Ngô Nguyên Nghiễm * Vách đá

 1.

Người trẻ tuổi kéo trịt về bên trái chiếc nón lưỡi trai bạc mốc. Ngước mắt nhìn cao lên ngọn núi nằm lơ đãng trong những cụm mây thấp bay ngang. Chàng cuối xuống nhẫm tính, có lẽ những bài toán còn đong đưa vài con số ẩn, đôi mày khe khẽ chao nhẹ như chiếc lá cười với cơn gío heo may. Ðiếu thuốc cập chặc trong vòng môi đen sậm, ngọn lửa loé chạy lan lên đầu thuốc. Chàng ngồi sà trên tảng đá bên lề, lim dim rít từng hơi khói dài, nhã vài vòng tròn quay nhẹ nhàng trong không. Gió vẫn thổi ngay ngọn, ngọn gío miền núi miền rừng bao giờ cũng mạnh, mang theo nhiều mùi hương dại và đặc biệt lạ lùng. Gió đưa từng vòng khói thuốc lên cao, chạy xô bồ rồi càng lúc méo mó tan loảng hình dạng như mây. Vài chiếc lá lao xao bay luồn trong gió lùa tít mù theo con đường chạy dài thâm thẩn trước mặt, chàng đưa mắt nhìn lơ đãng, rít ngụm thuốc cuối cùng, tàn búng xổ vào lùm cây bên cạnh. Với nhặt cành khô, vừa lầm bầm chàng vẽ ngoằn ngoèo lên bãi cát những con số to nhỏ, cộng trừ nhân chia, chia nhân trừ cộng.. Chàng vẫn lắc đầu, xoa mạnh lên những kết quả bằng thân giầy tua gót, hình như chàng đang hằn học đó.

Lưng chừng núi, hai bóng người vẩy vẩy kêu gọi và có lẽ họ cũng đi dần xuống. Vách núi vang vang. Chàng trẻ tuổi hơi ngước lên, môi nở nụ cười (gió tạt ngang, tóc tai chàng ngả ngược và loạn xạ, chàng giơ tay vuốt vuốt những phần rũ hoài xuống vầng trán). Nắng trưa khá gay gắt, hai người có vẻ vợ chồng, bước nhanh về phía chàng, vừa quệt những giọt mồ hôi đọng như suối trên nước da đen ngâm,khỏe mạnh. Bước chân họ thật dài đấy chớ, những hạt đá bén và nhọn k hác gì những mũi kim vẫn bất lực trước da thịt của họ. Chàng tuổi trẻ đứng dậy, bước đến vài bước, cười, vỗ vai họ thân mật, tìm ra hốc nào thuận tiện chưa?

Cơn gió vụt mạnh, tiếng nói vang vang, vách đá cũng trả treo câu hỏi một cách im lìm. Tìm ra hốc nào thuận tiện chưa? Người đàn ông phe phẩy vạch áo đen như màu da, khe khẽ lúc lắc cá đầu, cười gượng gập. Người vợ ngó xéo nụ cười của chồng, quay quay vạt áo rồi nhìn lên vách núi đứng sừng sững, cứng ngắt như cuộc sống của họ. Những vết đục cạn trên lưng núi, ngòi địa lôi đã được đặt quá hời hợt chưa thể đong đầy buổi cơm canh rau cho người dân miền núi. Từng tảng đá nương theo đà thuốc nổ rớt xuống có thể đếm ngon trên những ngón tay gầy cháy nắng. Mấy mười năm, núi đã đến với họ như giọt nước mùa hạ. Bắp thịt họ cuộn tròn theo bao nhiêu ngày tháng vác đá. Ngày tháng thanh thản và ngày tháng lo âu. Chàng tuổi trẻ chầm chập trông sườn núi thẳng đứng, những sợi dây thừng treo lửng lơ đang phe phẩy trước gió núi. Vài ba dáng người đong đưa trên đó, thoăn thoắt leo như vượn. Từ vùng nầy đến vùng khác, mấy cây cọc sắt vẫn từ từ bị gỡ theo tay, cắm ngay vào vị trí được chọn. Vài cây khác lại lay động rồi để lại mặt đá những vết hốc sâu. Nắng điên dại đổ lên thân hình bé bổng của lũ người đo chỗ đứng trên cao; người đàn bà tay che nắng im lặng ngó vách núi, ngó hoài chàng trai, lên tiếng đề nghĩ một cách dễ dãi, hay mình chọn mặt núi sau. Sườn còn thoải, tránh nguy hiểm lại nhiều đá. Vuốt mặt, người đàn ông bực dọc, mình chỉ được phép lấy đá mặt nầy thôi. Dại gì phải cực. Mấy mươi năm đo số phận trên những hồi cực khổ phá đá, ngọn núi vẫn chưa mọc lên dầy những mãnh đá non che lấp dấu vết như Thượng đế trước khi tạo con người đã nói rõ, thiên nhiên sẽ nuôi sống các ngươi, các ngươi được quyền gầy giống và được tự do. Bây giờ giống gầy càng ngày càng đông, tự do càng lúc càng nhiều, kể cả tự do đánh nhau, nhưng trước mặt những nhánh đá dựng sừng sững như tường đồng vách sắt ngăn cản bước tiến của nhu cầu thiết yếu, của sự hân hoan con người. Thiên nhiên vẫn thiếu thốn, thiên nhiên vẫn đè chụp trên đỉnh đầu thật điên cuồng như nắng hoang miền xa lạ nầy đó. Ba người đứng im lặng dưới chân núi, nắng vẫn đổ hăng say vào mỗi tâm trạng riêng rẻ của họ...

Mồ hôi rơi xuống như điên, mùi hăng hắt phát khởi từ những chiếc áo trần trụi, chàng tuổi trẻ bước thẳng vào chòi lá, rút thêm điếu huốc, cong veo, chàng giơ tay vuốt sơ sài. Tiếng xe chở hành khách loáng thoáng vụt qua, mang theo cơn gió bụi mù. Những chiếc lá vàng tung tăng cuốn mình lôi kéo theo hướng gió, bay loạn xạ. Chàng đưa mắt, lim dim nhìn vào. Nỗi lặng yên của chàng giá trị như sự rình rập của một chú mèo vờ ngủ trong bóng tối. Hơi thuốc vần vũ trong không vẽ thành những hình tượng quái dị xa xôi. Ðầu hơi nghếch, mặt trầm lạnh như đávà nhất là những đợt khói vẫn liên tục xoay vòng, càng phút giây càng dầy đặc. Ngày nào, anh trai duy nhất đã lũ lượt theo chân ba mẹ đi sâu vào phương trời lơ đãng. Sự ra đời của ba, sự bắt tay tần tão với cuộc sống để nuôi con của mẹ, và sự nối gót của anh , đã chua chát như linh hồn, lạnh nhạt tựa sự thế, để bây giờ chàng phải đứng sừng sựng, im lặng dưới một chân núi đá. Còn nỗi niềm nào cho chàng nghĩ được ra đây bởi lòng đã dầy như da trâu, ý tưởng cùng nhụt như mặt đá. Chàng tuổi trẻ cúi xuống lẩm nhẩm lại những con số vừa rồi, bài toán vẫn rối nùi, chàng lại thở khói (chưa biết có nỗi bình thản hay chua xót). Tiếng chân dẫm trên đá sỏi trải dài trước sân, những tiếng động nhẹ và đều. Tiếng chân kéo đến bục thềm, cạnh bàn, chàng ngước lên nheo nheo đôi mắt. Người đàn ông kéo chiếc ghế nhường cho vợ, ngồi xổm lên chiếc ghế ba chân còn lại, cũ kỹ. Không khí ngôi chòi có phần mát dịu, người đàn ông thở mạnh, nghiêng chúc chúc ngọn tóc và lắc lắc, cho vài giọt nước người vừa ứa ra, rớt xuống đi con. Chàng vói tay đập mạnh con ruồi cánh xanh đậu bám trên tay kia, người đàn ông cười, trời mát hả mậy, dễ chịu hơn ngoài đó. Chàng trẻ tuổi cũng cười theo (nhưng thật nhẹ). Nắng như điên hả chú Tư, khó chịu hơn trong nầy. Người đàn bà bật cười, vươn tay chìa ngón trỏ chỉ chiếc sườn núi thoải thấp bên trái ước ao, được phép dùng vài năm. Rồi đưa mắt nhìn vách núi cũ thẳng như giây dọi thợ hồ, không để ý đến vẻ mặt mọi người chung quanh. Hình như nơi nầy, người đàn bà ngủ yên và mơ mộng tới những hang động thật ngon, những cây thuốc nổ dầy âm ấp, từng phút từng phút trong tiếng nổ lừng lẫy, từng khối đá rớt xuống như mưa, chồng cao từng hòn núi nho nhỏ, những chòi lá dột mái ngày đêm vang hoài tiếng đập dòn dã, rồi những buổi cơm nóng nghi ngút, rồi những chiếc xe tuần tự di chuyển đá xanh đến tận cùng đất nước, rồi những tòa nhà trang trọng mọc nhanh rồi nụ cười, nụ cười... Người đàn bà khoan khoái, cười. Chàng chìa gói thuốc trước mặt, người đàn ông móc và mồi một điếu. Vẫn khói đen bay đon đã, vẫn nhìn về vách núi chói chang, mọi người ngồi yên đó.

2.

Màn đêm rũ xuống khi mặt trời không còn núp trong thân núi một sức nóng hừng hực. Những con chim bay về buông hoài những tiếng kêu mù mịt. Ðông nằm dài trước sân trong chiếc đệm dầy mo, lim dim ngườc nhìn rừng sao trổ trắng. Mọi vật càng hồi đen đúa thêm, rồi một ngày tàn tạ đó Ðông, trí óc mầy lợn cợn những nỗi buồn chưa thể tiêu hóa dễ dàng. Ngoài trời, sao mọc thêm hoài, gió vẫn thổi mạnh vào ưu phiền dằng dặt. Câu chuyện vách núi vẫn chưa giải quyết rành mạch, mầy phải nằm như chó đói. Một con chó đói ẩn núp trong lớp sơn đại diện cho một hãng thầu, đổi về canh chừng từng bước đứng của anh em, trông sóc từng hòn đá vô tri, đổi sức sống tùy theo sức đá rơi nhanh hoặc chậm. Bao giờ, yếu tính của loài trẻ tuổi cũng tự phụ đến sự nhận thức, mầy đã thấy chưa, khi đứng ngoài không gian, khi va chạm thực tế, mầy đã phải sừng sững trồng ngọn như cây cỏ trước một vách đá lạnh lùng. Ý thức cứng ngắc, như vách đá đó, sự bó tay vẫn là điều lệ tất nhiên trước những cái vô tri gai như vách núi sao? Cảm thông chỉ nhận được gữa những đồng cảnh, dù chất phác dù thua hụt mọi người dân đập đá nơi nầy cũng nhìn trỡ ngại và cuộc sống như mầy vừa nhận được hôm nay. Núi đã mài đá thành vách ngăn chận ý thức của mầy, hỡi Ðông, chưa thể thẳng thắn lên tiếng soi thẳng lên vách đá, sự trả treo nầy là sự thật hợp lý lắm sao. Những cánh nhạn vươn lưng trời cũng phải vài cái đập cánh. Không gian không thể ngăn chận ý hướng của nó, mầy phải nghĩ tới vách đá như không gian, mầy cần sự tự do đó.

Gió núi bao giờ cũng lạnh buốt, tóc tai Ðông rũ rượi như những chiếc lá. Ðông cuốn tròn, tay gối đầu, lắng nghe giọng chó tru từ cõi xa vọng về. Gió thổi hoài, và tôi vẫn nằm đây, sự khốn khó ban ngày vẫn đọng sâu ở đâu đó. Tôi không còn muốn điều nầy, hỡi vách đá cho xin nỗi bình yên.

Tiếng động di chuyển nhẹ bên cạnh, Ðông xoay người, ngồi chơi chú Tư. Người đàn ông cười hềnh hệch, khom mình ngồi chéo xuống chiếc đệm cũ kỹ, cạnh chàng trai, vẫn chưa tìm ra một phương pháp nào khác hả Ðông? Vách quá đứng kể cũng cực nhọc, bao nhiêu ngày qua cố gắng cũng chỉ lấy đựoc một số đá đếm dễ dàng như một nắm tay.Ðông dửng dưng liếc ngang nắm sỏi trong lòng tay chú Tư rồi ngồi bật lên, châm mồi kê vào chiếc thuốc lá gắn gọn trên đôi vành môi từ lúc nào. Ánh lửa bùng mạnh, lao chao theo gió, rọi nhẹ lên mặt hai ngừơi một cách quỷ quái. Ðông quăng que diêm, thở một hơi khói, nhìn chầm chập chú Tư., im lặng. Vẫn chưa tìm ra một phương pháp nào khác hả Ðông. Vẫn chưa phương pháp nào để giải quyết vấn đề. Vách núi vẫn đứng sừng sững trong màn đêm, hình dạng đen và sù xì. Ðông nghiêng người, ngó gương mặt chất phát và cần cù trung hậu của người dân miền núi. Một vùng biên thùy xa xôi, hình như gió bao giờ cũng thổi hai chiều, họ vẫn có thói quen chịu đựng dù sương dù nắng dù nguy hiểm hằng ngày đe dọa, trên từng sợi dây từng nằm vắt ngang sườn núi, nhiều con gió trở mình, chúng đong đưa như những con rắn uốn khúc. Họ treo định mệnh lên đó. Sức sống chạy dài theo từng hồi đá lở, đổi chác sự sống với sự treo ngành, từng cái móc ngược người đánh dấu chữ thập vào một vài nơi nào có chất đá lý tưởng, dùi sâu từng hang nhỏ, ghém đầy thuốc nổ rồi chạy xa trông lớp đá buông nhanh, xoa tay cười khoan khoái. Bây giờ, đá đã cạn, vách núi đứng thật thẳng chờ đón những nguy kịch chĩa tới những sinh vật biết nói nhỏ bé, cộng với thời tiết thay đổi, khác lạ hơn mọi năm, cộng với những đe dọa từ những giăng lưới, thì nụ cười của họ vẫn còn mù mờ như sương buổi mai. Bất giác Ðông thở dài, sứ mạng với cuộc đời, với nỗi sống mang theo bên mình gặp nhiều cam go và buồn bã. Ðông giơ bàn tay gài chiếc nút hở trên ngực chú Tư, nhìn màu đen lẩn khuầt vào bóng đêm của người đàn ông chất phát, Ðông nghẹn đó, ốm nghen chú Tư. Chàng lả vả trong khi chú Tư rối rít cám ơn, già rồi thây kệ nó, lo là lo cho mầy kìa. Mấy bữa nay, trông hốc hác ra, trẻ phải đủ sức lo cho vợ con chứ. Ðông cười to,

Ngọn gió núi kỳ nầy mạnh bạo hơn, thổi vút qua màn đêm một cách hối hả và lạnh lùng. Chú Tư khép bâu áo, khẻ rùn mình mất lượt, cha nó ngọn gió quá mạnh vậy. Bên cạnh, Ðông chua chát ủ mặt lên bóng tối, tôi nghĩ đến chú hoài đó chú Tư. Dù da thịt chai đến đâu cũng vươn cao những nếp nhăn co rúm, dù tiếng nói của chú có âm thanh to rộng đến đâu cũng theo vách núi im lìm vọng lại. Xoáy vào tận đôi tai, soi như mũi dùi vào từng chân lông, xếp gọn từng nét mặt, chú Tư cũng cằn cỗi, nhưng buổi cơm không cho chú cằn cỗi ngon lành như vậy. Hỡi người dân ngay thẳng và thật thà, vách đávẫn đứng ngạo nghễ trước mặt các người đó. Da thịt các người mềm hơn cao su, xương cốt dẽo hơn mẫu bánh xốp thơm phứt mới ra lò không? Vách núi vẫn đứng sừng sững và ngạo nghễ đó, các người có thấy không những mảnh đá nhỏ nhen vẫn chưa rời khỏi ý nghĩ thô sơ của các người. Chúng vẫn đứng thẳng hoài trong tiếng kêu cứng nhắc, trong nỗi lo âu và thao thức mệt nhọc như người dân dốt nát thường tiêu biễu nỗi vô tâm nầy, cuộc đóng trăn trừng trị những đứa con gái chữa hoang mà không phân phải trái. (Dù rất có thể điều đó xảy một cách máy móc ngoài trí tưởng tượng, họ phải sống cam phận sau một cuộc hiếp dâm tàn bạo.) Ðông ngơ ngác ngó hoài vẻ mặt chú Tư, bóng sáng của ngọn đèn dầu sát vách lá hắt thẳng vào mặt, khiến có nét lung linh, tranh tối tranh sáng. Da chú đen lắm đó, chắc phải giang nắng suốt ngày nầy qua ngày khác hả chú Tư? Chú Tư hơi ngạc nhiên, khẽ nhíu đôi lông mày đen rậm, hục hặc bữa nay mầy hỏi kỳ khôi vậy Ðông. Thì nghề nghiệp bắt buộc mới có hột cơm chớ. Công tử bột rồi chết đói sao, tao già rọm hơi đâu nghĩ ngợi như mầy. Ðông cười tủm tỉm, vậy mà có người khen vùa chú nghe chú Tư. Người đàn ông bật ngửa, ngước mặt lên trời cười, ai vậy Ðông? Vách đá. Ðông nghiêm nghị, ngồi thẳng người, vuốt vuốt mái tóc, nhìn chú Tư. Mình đã nghĩ ra một kế hoạch nhưng hơi tốn công, có lẽ đá lấy được nhiều gấp năm gấp mười. Nhìn cái phắc lên như cheo của người đàn ông hiền hậu, Ðông vắn tắt, hay mình làm thử đi lần trên đỉnh vách xoi thẳng xuống càng sâu càng tốt. Chú Tư im lặng suy tư, chắc chắn phải nhiều thời gian. Rồi đưa mắt thật xa, cái lo âu ngay hẳng bao giờ cũng lộ liễu thật chất phát, những nét nhăn vời vợi kéo lên trán môt vạch dài, vài giọt mồ hôi có thể đọng sâu ở đó. Trên gương mặt ủ rũ, sự thẩn thờ ngủ yên, chung quanh cảnh vật vẫn run rẩy theo từng con gió bay loang lổ. Ở đó, Ðông đã nằm xoa tay, hằng vạn ngôi sao đang chẩu môi bàn tán ngó hoài vào đôi mắt Ðông.

2 bis.

Mọi người đã có mặt, cũng như Ðông đang ngước cổ trông lên đám người trên đỉnh vách núi. Những sợi dây thừng, treo lủng lẳng từ những hôm trước, cũng còn phất phơ mệt nhọc trong gió. Gió thổi khá mạnh (hôm nào sức gió có lẽ cũng như vậy, sao mọi người cảm thấy hơi lạnh.) Ðông và chú Tư ngồi đâu lưng trong chiếc ghế bắt sẵn dưới chân núi, rầm rì.

Trên cao, những cái máy dùi đã dự bị, những dụng cụ xong chưa? Ðông nhìn đám người đang lúc chúc nhường nhau những chỗ đứng, những gương mặt đen rạn len lỏi vài hơi thở lo âu. Chiếc nón lưỡi trai lột phăng cầm gọn trong đôi tay nắm chặt, chú Tư nhìn Ðông khe khẽ mỉm cười, gật đầu. Ngọn gió núi lại vụt mạnh, Ðông gọi chú Tư, cười mơn man. Ngọn gió núi lại vụt qua. Cây cỏ ngẩng lên.

Mặt trời càng lúc chạy dài trên đỉnh đầu. Vách đá im lặng.

Sunday, September 30, 2012

Trần Vấn Lệ * Bốn Mươi Năm Sau Nếu Sống Trở Về


Hồ Than Thở bây giờ đã cạn
Ngọn Núi Bà còn ráng chiều hôm
Cái chi còn lại là còn
Kìa tia nắng úa, kìa con hẻm bùn…
Đà Lạt giống như vùng hoang dại
Với rừng thông xanh tái vi vu
Với mùa Xuân như mùa Thu
Cờ bay lá rụng, người bờ núi mong…
Người đã đi khi lòng trở ngược
Hỡi nhánh đào nở được mấy hoa?
Hỡi nghĩa trang cỏ mượt mà
Nơi nhang khói lịm không ma trở mình…
Đà Lạt cũ, nhân tình thế thái
Ấm lạnh đời ngài ngài hỏi thăm
Ai tri kỷ, ai tri âm
Mặn mà ôi hạt muối cầm trên tay!
Đưa hạt muối cho ai nếm nhỉ?
Mở tấm lòng ai thấy mà thương!
Một thời Đà Lạt Quê Hương
Ngàn thông gió thổi bụi vàng mình ơi!
Trong thê thảm thốt lời thảm thiết
Thay cho hồ xanh biếc nắng trưa
Ta chờ mãi một cơn mưa
Tóc ai ta ngó như vừa mới quen…

Trần Vấn Lệ


Saturday, September 29, 2012

Lan Đàm * MÙA THU Ở VƯỜN SAU













Sớm mai đời vẫn ngủ vùi,
Bầy chim xa lạ, nụ cười lạnh tanh.
Đầu ngọn thác tảng đá xanh,
Tâm tôi phơi trắng trên cành xác xơ.

*
Thì ra thu chẳng tình cờ,
Đã trăm năm lặng lẽ chờ ngoài hiên.
Với ngổn ngang những buồn phiền,
Chìm theo dấu tích mây biền biệt bay.

*
Ừ thôi  ngồi xuống đôn này,
Nhớ chi lá cũng rơi đầy lầu không.
Buồn tôi cây đứng thành rừng,
Sầu thu núi xếp chập chùng trong tim.

*
Tôi, và đời, chợt lặng im    
Đời quên lối, một tôi tìm, loanh quanh.

LAN ĐÀM