|
Trương Đạm Thủy |
Người đàn ông gầy còm, mái tóc cắt trùi trủi nên khuôn mặt ông ta trông hóp héo như ruột người bệnh mới từ nhà thương về.
Bốn giờ sáng mà điện đã cúp. Chung quanh
trời tối mênh mông. Ông mò cái bật lửa bật lên tìm cây nến. Cây nến nằm
trong một góc tủ. Chiều qua hình như ông ta nhậu hơi nhiều nên đến giờ
nầy đầu óc vẫn chưa tỉnh táo ra. Vẫn lơ mơ trong đầu ông ta câu chuyện
nơi quán rượu. Cái quán nầy như có ma lực khiến ông không thể xa nó, đi
đâu ông cũng nhớ nó, nhớ những câu chuyện quanh nó.
Quán nầy lạ lắm, nó được che phủ bởi hai
cây si già rể thả xuống đong đưa như một bầy rắn. Thêm một cây cao su ở
đâu lạc loài về đây hàng trăm năm, da lên xanh rêu mốc. Về mùa đông xuân
lá cây su trở nên vàng ánh bỏ rơi từng bầy lá sau mỗi cơn gió nhẹ. Lá
vàng phủ trên mảnh sân rộng, phủ lên bốn năm tảng đá sắp không đều hàng.
Theo một khách nhậu, mấy tảng đá nầy được
dựng ở đây một cách có ý thức chớ không phải vô tình: nó được xếp đặt
theo phong thủy. Bên cạnh mấy tảng đá buồn thiu ủ dột đó là một cây đàn
đá kiểu Nhật Bản có hai chân được chôn sâu dưới đất.
Người đàn ông hay ngồi nơi cái bàn đặt
sát cạnh mấy tảng đá bí ẩn bên thềm quán. Một cảm giác lạ lùng đã ám ảnh
ông ta không sao rứt ra nổi. Đó là … Ừ, cứ mỗi buổi chiều mưa khi ngồi ở
đây rượu đã ngà ngà say, khi một ánh chớp lóe lên ông lại thấy những
hòn đá cử động, chúng lắc lư như đang say rượu. Và những lúc đó hình như
ông nghe chúng trò chuyện. Chúng cứ thì thầm to nhỏ điều gì đó bí mật
trong mưa.
Có
một tảng đá thấp gầy nói giọng nữ, một tảng đá cái ư ? Một tảng đá cái
duy nhất giữa những tảng đá đực có vẻ gì đó khá bí hiểm hiện ra mỗi lần
có một tia chớp lóe lên nhoáng qua mặt sân.
Ông Tư già một khách rượu thường xuyên ở
đây trầm trồ về mấy tảng đá : “Ở đây người ta bố trí mấy hòn đá nầy theo
phép ngũ hành. Không phải là ngẫu nhiên đâu. ‘I’hế đất ở đây hơi bị hãm
nên mới dựng ra mấy viên loạn thạch nầy để trấn yểm lấy lại thế cân
bằng. Chủ nhân của ngôi nhà cổ trên mảnh đất nầy hẳn xưa phải là một tay
giàu có và rất sành khoa phong thủy. Những viên đá nầy tương sinh tương
khắc, vừa nương tựa lại vừa chế ngự lẫn nhau. Và như thế thì ngôi nhà
và những người sống nơi đó sẽ được bình an làm ăn phát đạt”.
Người đàn ông cứ bị mấy hòn đá ám ảnh.
Cũng theo ông bạn Tư già, trong rừng có thần rừng, trong núi có thần
núi. Những viên đá là một phần của núi. Đá lâu năm nó có thần ở trong
đó. Vậy nhóm loạn thạch lâu năm nầy nằm đây hẳn phải có một duyên sự gì
đó bí mật.
Ở đây khách nhậu đông lắm, quen mặt nhưng
khó nhớ tên. Quán chỉ bắt đầu hoạt động lúc 11 giờ sáng đến 10 giờ đêm
thì đóng cửa, bất kể xuân hạ thu đông. Không có ngày nghỉ, rượu chảy
suốt bốn mùa.
Cô phục vụ tên Phấn kể rằng hồi cô mới
vào làm việc bưng bê cô chỉ mới tròn 18 tuổi. Vậy mà nay đã sắp sửa ba
mươi, tính ra hai chân cô di chuyển mỗi ngày suốt hơn mười năm bằng con
đường vòng quanh trái đất. Đã có bao nhiêu người chọc ghẹo cô, bao nhiêu
gả say và giả say tỏ tình với cô, cô quên mất.
Phấn cười nói khi quán rượu đã đầy lúc ấy
mắt cô chỉ nhìn thấy mơ hồ những khuôn mặt giống nhau, đỏ khé mờ mịt
hơi men. Phấn sợ những đôi mắt soi mói nhưng chủ quán quy định các cô
phải mặc áo rộng cổ với lý luận : khách
nhậu không chỉ nhậu bằng môi miệng mà còn nhậu với con mắt. Với một
phần ngực đẹp của các cô gái sẽ góp phần cho bữa nhậu hào hứng thêm, khí
thế thêm.
Vậy đó hơn mười năm áo hở rộng cổ, một
phần ngực nửa kín ngửa hở dành cho những cái nhìn chăm bẳ, miễn phí.
Phấn đi qua tuổi xuân hồi nào chẳng hay. Bây giờ quen mặt áo rộng cổ
rồi; quen những đôi mắt háo hức, Phấn hết còn quan tâm đến bọn đàn ông
nhấp nhô trong cái không gian mênh mông của quán rượu.
Người đàn ông mỗi khi đến quán hay ngồi ở
cái bàn gần mấy hòn đá nơi những rể si lòng thòng phất phơ trong gió.
Người đàn ông gọi Phấn bằng em và xưng mình là bố : “Phấn ơi, em choo bố
mấy chali bia”. Phấn đặt hai chai bia với cái ly đá trước mặt ông, nheo
mắt cười : “Bia đây mời bố”. Cái nheo mắt, nụ cười và chất giọng thanh
tao của Phấn đã thường xuyên đến với ông ta trong những giấc mơ. Có lần
trong một cơn say la đà, ông ta đã nói với Phấn như lời thú tội… trước
hoàng hôn : “Giá mà bây giờ bố được trẻ lại hai mươi năm tuổi chắc bố sẽ
cưới em làm vợ”. Chẳng hiểu Phấn nghĩ gì khi nói nhỏ vào tai ông : “Nếu
như bố trẻ lại thì em đâu có cho bố đi nhậu và em cũng sẽ chẳng làm cô
gái phục vụ quán bia…”, nói xong em cười và biến đi.
Người đàn ông mơ màng : Ừ, mà trẻ lại để
làm gì, để hai đứa được sóng đôi nhau chăng ? Biết đâu sau hạnh phúc lại
đến lúc bất hòa rồi ly thân, ly dị… chi bằng mỗi ngày cứ đến ngồi đây
nhăm nhi bia bọt, cứ bố bố em em há chẳng hạnh phúc hơn sao ? Người con
gái đẹp hay một tình yêu đẹp có lẽ nên có một quãng cách ở ngoài tầm tay
với để ta luôn mơ tưởng, chiêm ngưởng nó như chiêm ngưởng một bức tranh
một pho tượng quý nơi viện bảo tàng. Cấm sờ nó, cấm sở hữu những báu
vật của thế gian, tình yêu thật sự là cái ta yêu và luôn tưởng mơ về nó.
oOo
Ngọn nến chập chờn rồi phụt tắt. Bên
ngoài cửa sổ gió nổi to. Trời đang chuyển cơn mưa sớm. Bầu trời chưa kịp
sáng đã trở nên tối lại.
Người
đàn ông thấy con mắt mình ríu lại. Chợt thấy mình ngồi nơi cái bàn cũ
gần bên mấy tảng đá sù sì. Nghe tiếng hòn đá cao to cất tiếng trầm trầm :
“Bố yêu em, chúng ta phải đi suối đường trần”. Không thấy miệng đá nhót
phép vậy mà lời của nó nghe rõ mồn một. Hình như hòn đá cái ngọ nguậy
trong cái khoảng mờ mờ tối đồng thời một giọng nói có vẽ giận dữ : “Xin
chớ đụng tôi, hãy lui ra vì tôi sắp vỡ và sắp nổ đây”, “Hãy vỡ và nổ đi,
chúng mình sẽ về cõi vĩnh hằng”, tiếng hòn đá đực nói như van lơn. Im
lặng một lát giọng nữ lại cất lên : “Hãy lánh xa em bố ạ, em cần có
khoảng trống bao la để biến tan trong ánh nắng, hòa chảy trong ánh
trăng. Đừng nhìn em như thế”. Hình như trong giọng nói ấm ức có cả tiếng
sụt sịt khóc. Ủa lạ, sao giọng người con gái nào lại giống giọng nói
của Phấn ?
Bất chợt trời đổ ào mưa. Xuyên qua màn
mưa những làn chớp loé sáng. Mưa nhả xuống hiên quán dội trên mấy tảng
đá. Gió gầm rú trên cây si làm những chiếc rể si quẩy lộn dữ dội.
Bây giờ là mấy giờ ? Là sáng, trưa hay
chiều tối ? Người đàn ông hoàn toàn chẳng còn ý thức được thời gian. Cái
quán sao mênh mông và lặng yên một cách kỳ lạ. Khách ngồi giương những
đôi mắt sâu hoắm tăm tối hướng ra bầu trời ủ dột mưa như đang chìm đắm
vào một mối trầm tư gì đó khó hiểu.
Không nghe tiếng ly cốc khua động, nhưng
chai lọ đứng yên trên mặt bàn hứng những làn gió và tia chớp tạt vào.
Lẫn trong tiếng mưa lời của một giọng nam cất lên run rẩy : “Em cho bố
một cơ hội nếu như bố trẻ lại hai mươi năm tuổi. Bố yêu em, ta đi với
nhau đến cuối đường trần nầy”. Tiếng người nữ thút thít : “Xin bố chớ
đến gần em, coi chừng hạt linh hồn em bám phải sẽ vươn rất nhanh cành
lá, rể quấn nhằng nhịt hút lấy máu bố… “.
Người
đàn ông rùng mình. Gió hất đám rể cây si quất vào thềm quán uốn éo như
bầy rắn lục đang động tình. Chúng sẽ vươn tới và quấn chặt ông ta. Bầy
rắn sẽ hút sạch máu ông ta bởi những cái miệng đỏ như ngậm hòn than
nóng. Bất giác ông ta nhích vào phía trong một chút. Gió đột nhiên gồng
mình lên gầm rú qua hàng cây xô đẩy, vặn bứt chủng. Có tiếng gãy đứt
răng rắc, rồi một súc gỗ thật to bị ném ầm xuống chỗ mấy tảng đá. Súc gỗ
nhảy tưng mấy cái rồi nằm im. “Trời đất, nếu như ta chẳng chịu nhích
vào một chút thì có lẽ bây giờ hồn đã lìa khỏi xác”, ông ta ôm ngực thở
hổn hển.
Có tiếng cười ngặt nghẽo ở đâu đó trong
mấy hòn đá nổi lên. Bọn chúng thích chí đang cười cợt ông vừa trải qua
một cơn sợ muốn đứng tim. “Phấn ơi, nếu như ban nảy cành cây đòi nạng
nầy rơi vào bố thì giờ đây bố sẽ ra sao ? Bố sẽ hóa thành một ngọn gió,
một ngàn mây cuồn cuộn bay đi hay một hồn ma ngơ ngác thấy mình bất ngờ
bị vất ra khỏi xác ? Liệu lúc đó bố còn nhớ em, còn yêu em như tấm hình
hài nầy ?”, người đàn ông nghe thấy tiếng mình buồn bã cất lên trong
lòng ngực. Bên trong lòng ngực ông, dường như đó mới chính là con người
thật của ông, nó luôn ở bên ông và nói và nghĩ suy thay ông. Yêu thương,
giận hờn, mừng vui hay sợ hãi… tất cả mọi thứ đều xuất phát từ trong
cái lồng ngực ấy. Nó vô cùng sống động, vô cùng bao la trong cái cõi gần
gũi kề bên mà ông hình như chẳng bao giờ chạm đến được nó.
Người đàn ông bỗng nghe vùng cơ ngực co
thắt nhói đau. Tiếng ho của ông làm ông giật mình mở mắt ra ngơ ngác.
Ủa, ông đang ở nhà trong buổi sáng trời mưa tơi tả mà.
Đã
sáu giờ sống mà trời vẫn tối thầm thầm. Khí lạnh len qua cánh cửa sổ mở
hé lọt vào căn phòng yên ắng. Mấy con muỗi vo ve tìm chút máu làm ông
tỉnh hẳn. Hóa ra ông vừa rời khỏi một giấc mơ. Mò tìm cái bật lửa thắp
lại ngọn nến. Ánh lửa chập chờn soi mặt bàn bừa bộn sách vở. Lâu nay ông
thường bị những giấc mơ kéo đến bất chợt. Đang ngồi đọc sách hoặc viết
lách đột nhiên ông rơi vào giấc ngủ chẳng biết lúc nào. Và trong mỗi
giấc ngủ lại có nhiều mộng mị khác kéo về khiến nhiều khi ông phân vân
tự hỏi khi ông đang tỉnh, là lúc ông mơ hay khi đang mơ lại là khi đang
tỉnh ?
Ông đứng lên đốt một cây nhang trên bàn
thờ vợ ông. Bà mất đã 20 năm rồi, lúc đó ông mới vừa 30 tuổi. Cái chết
của bà là nỗi đau thương lớn nhứt đời ông. Nhưng 20 năm qua, vết thương
cũ đã lành, ông thôi xót xa. Tuy nhiên nhìn ảnh vợ ông cũng không sao
khỏi chạnh lòng. Những ngày yêu nhau, ông cũng si mê bà như bây giờ ông
si mê Phấn. Bà cũng hiền từ dễ thương như Phấn, bao giờ cũng chịu thương
chịu khó mà nét mặt vẫn tươi cười. Có
bà, ông chẳng phải lo nghĩ gì từ miếng ăn giấc ngủ. Bà vừa như một
người mẹ lo cho con trai, vừa như người chị chăm nom đứa em nhỏ. Có
những lúc vui hay giận ông bà thường trách yêu : “Nếu như không có em
chẳng biết anh sẽ sông ra sao ?”. Quả vậy, ông sống một cách phiêu bồng
với cây bút ngòi viết, chẳng hề biết sửa cái cầu chì, công tắt điện,
chỉnh sửa cái vòi nước hư… áo quần ông mặc vất ra có bà giặt. Thay đồ
mới đã có y áo ủi kỹ treo trên móc. Ông đi đâu về gọi “Em ơi đói bụng
rồi” là có sẵn mâm cơm. Vậy mà 20 năm nay ông chỉ còn nói chuyện với cái
bóng của mình, ông tự kêu đói và tự đi nấu ăn; tự vất quần áo bẩn ra và
tự đi giặt lấy…. Thiếu sự hiện diện của bà đời ông bơ vơ, cơ cực. Nhưng
nói gì thì nói vết thương của 20 năm cũng dần liền da liền thịt và
người đàn ông bắt đầu nghe một mùa xuân mới trở về trên cánh đồng khô
hạn của đời mình.
oOo
Ngoài trời vẫn chưa sáng. Người đàn ông
dụi mắt thắp lại ngọn nến. Trên bàn trước mặt ông gió lật mấy trang thơ
một cuốn thơ cũ ố vàng. Ông ta cúi xuống đọc. Những con chữ như có ma
thuật chúng đang nhảy múa. Hình như có tiếng ai đó ca hát ê a trong thơ,
giọng lạnh lẽo, gay gay….
Hồi này sao thế, mới tảng sáng mà ông cứ
chợt tỉnh chợt mê. Những khoảnh khắc chợt thức chợt ngủ cứ đan nhau làm
ông lẫn lộn giữa hư và thực.
Lại
nữa rồi, giọng đọc thơ ấy vẳng lên sao giống như giọng nói lạnh lẽo
phát ra từ hòn đá cái : “Xin chớ gần tôi, thuyền tôi sắp vỡ”, vừa xua
đuổi lại vừa thiết tha van xin ở lại. Những tảng đá ấy không còn yêu
nhau nữa chăng ?
Hôm kia Phấn nghiêng người xuống rót rượu
cho ông em nói rất nhỏ : “Bố ơi, em sắp sửa xa bố, em đi lấy chồng. Bố
sẽ không còn gặp em nữa đâu. Nhưng bố đừng buồn”. “Tại sao không buồn
khi chẳng còn em ngày ngày bố gặp ?”, ông nói mà như khóc. Hơi thở Phấn
lướt qua trên mái tóc lốm đốm bạc của ông : “Đừng buồn bố ơi, vì sao bố
biết không, vì dù em đi lấy chồng nhưng em yêu bố, em yêu bố, em yêu
bố…”
Người đàn ong chợt nghe trái tim mình đau
thắt, lòng ngực như đang bị ai kéo dãn ra. Trước mắt ông ta có những
bóng đen như có bầy ruồi đen bay lơ lững. Ông thấy chếnh choáng như
những hôm say rượu, mắt hoa lên. Ông gục xuống cuốn thơ cũ ố vàng dưới
ánh nến đang lụng dần, lụng dần….
Trương Đạm Thủy