tranphuthe |
Nhà thơ Trần Phù Thế được nhiều người biết đến ở hải ngoại
sau khi anh xuất bản hai tập thơ : Giỡn bóng chiêm bao [ 2003 ] , Gọi khan giọng
tình [ 2009 ] , những bài thơ đăng
trên các báo Khởi Hành , Văn Hóa Việt Nam , Thư Quán Bản Thảo
… và trên các trang báo điện tử như : Sáng
tạo , Da màu , Phố Văn… Anh còn phụ trách trang thơ trên tuần báo Tuổi Trẻ ở Dallas
– Texas .
Thật ra , anh làm thơ đã lâu , lúc còn ở Việt Nam , từ thuở cắp sách đến trường , gần nửa thế kỷ nay . Năm 1962 , anh cùng với Lâm hảo Dũng - Lưu Vân - Triệu Ngọc thành lập thi văn đoàn Cung Thương Miền Nam tại tỉnh Sóc Trăng , về sau có thêm nguyễn lệ Tuân - Trần biên Thùy , mục đích phổ biến thơ văn của nhóm trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn . Bài thơ đầu tiên của anh mang tựa NHẠC TRĂNG đăng trên báo VĂN cuối năm 1962 với bút hiệu MẶC HUYỀN THƯƠNG . Cần phải nói thêm , tạp chí Văn là tờ báo văn học nghệ thuật nổi tiếng tại Việt Nam . Chủ nhiệm Nguyễn đình Vượng , thư ký tòa soạn Trần phong Giao , và sau là nhà văn Nguyễn xuân Hoàng . Bài vở chọn lọc cẩn thận , thơ văn đăng trên báo này rất có giá trị. Những nhà văn đã thành danh như Y Uyên , Lê văn Thiện…đều xuất thân từ tờ Văn . Anh còn có bài trên các tạp chí Thời Nay của Khánh Giang , Khởi Hành của Viên Linh …Năm 1967 , anh định in tập thơ đầu tay “ Thầm yêu trộm nhớ ’’ nhưng không thực hiện được vì có lệnh nhập ngũ vào trường SQTB Thủ Đức .
Thật ra , anh làm thơ đã lâu , lúc còn ở Việt Nam , từ thuở cắp sách đến trường , gần nửa thế kỷ nay . Năm 1962 , anh cùng với Lâm hảo Dũng - Lưu Vân - Triệu Ngọc thành lập thi văn đoàn Cung Thương Miền Nam tại tỉnh Sóc Trăng , về sau có thêm nguyễn lệ Tuân - Trần biên Thùy , mục đích phổ biến thơ văn của nhóm trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn . Bài thơ đầu tiên của anh mang tựa NHẠC TRĂNG đăng trên báo VĂN cuối năm 1962 với bút hiệu MẶC HUYỀN THƯƠNG . Cần phải nói thêm , tạp chí Văn là tờ báo văn học nghệ thuật nổi tiếng tại Việt Nam . Chủ nhiệm Nguyễn đình Vượng , thư ký tòa soạn Trần phong Giao , và sau là nhà văn Nguyễn xuân Hoàng . Bài vở chọn lọc cẩn thận , thơ văn đăng trên báo này rất có giá trị. Những nhà văn đã thành danh như Y Uyên , Lê văn Thiện…đều xuất thân từ tờ Văn . Anh còn có bài trên các tạp chí Thời Nay của Khánh Giang , Khởi Hành của Viên Linh …Năm 1967 , anh định in tập thơ đầu tay “ Thầm yêu trộm nhớ ’’ nhưng không thực hiện được vì có lệnh nhập ngũ vào trường SQTB Thủ Đức .
Bút hiệu Mặc huyền Thương không phải tự nhiên mà có , nó bắt
đầu bằng hai chữ tình yêu . Cô bé mang tên Thương Huyền đã hớp hồn cậu học trò
vừa mới lớn đang tuổi mộng
mơ . Cậu lộn ngược tên Thương Huyền thành Huyền Thương rồi thêm
chữ Mặc đặt trướcchữ Huyền cho có vẽ thơ . Thật ra , theo tâm sự của nhà thơ ,
chữ Mặc có nghĩa im lặng , yêu không dám
nói . Tình yêu tuổi học trò bao giờ cũng e ấp , chỉ biết thẩn thờ nhìn người yêu
trong tà áo dài nữ sinh thướt tha cắp sách đến trường , hoặc đôi khi gặp mặt thì
ngần ngại mở lời , chỉ nói bâng quơ chuyện trên trời dưới đất
. Và phải chăng bài thơ Nhạc Trăng là kỷ niệm một thời tuổi trẻ của nhà thơ về
mối tình đầu đơn phương này :
Trăng nhập vào trăng
lạnh tiếng đàn
Nghe sao giòn vỡ thủy
tinh tan
Chơ vơ tiếng hát cao
trừng vọng
Ta gửi hồn qua giấc
hỗn mang
Rỉ máu lên từng giọt
ngón tay
Ta thương hồn chết đã
bao ngày
Trăng mơ chảy mượt
từng chân tóc
Ta uống trăng vàng
giọt giọt say
Trăng hát miên man
buồn chậm chậm
Mây đời che khuất bóng
trăng tan
Hồn ta treo cổ vầng
trăng khuyết
Và chết vào đêm bóng
nguyệt tàn
(
Nhạc trăng . TPT )
Cô bé Thương Huyền diễm phúc thật , được hóa
thân thành vầng trăng , và thi sĩ đã ngụp lặn trong tiếng đàn trăng nghe như những
mảnh vỡ thủy tinh hòa tan vào tiếng hát trăng buồn muôn thuở . Bài Nhạc Trăng là tiếng lòng thổn thức bi thương
đầy huyết lệ, thống thiết như bài thơ PHAN
THIẾT - PHAN THIẾT của Hàn Mặc Tử : /Trăng
vàng ngọc , trăng ân tình chưa phỉ / Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng /
Ta vã tung thơ lên tận sông Hằng /
Thơ phép tắc bỗng kên rên thống thiết / Hỡi Phan Thiết , Phan Thiết / Mi là nơi
ta chôn hận nghìn thu , Mi là nơi ta sầu hận ngất ngư / . Nhạc Trăng ý và từ mượt mà , điêu luyện , vậy mà Trần phù
Thế sáng tác vào cuối năm 1962 , lúc đang học lớp đệ nhất trường trung học Hoàng
Diệu - Sóc Trăng . Đây có phải là điềm báo hiệu cho những mối tình đầy sóng gió
của thi sĩ sau này , hay là những nụ hoa bắt đầu chớm nở trong khu vườn văn học nghệ thuật Việt Nam .
Người đẹp Thương Huyền sau hơn bốn mươi năm vắng bóng bỗng
nhiên xuất hiện bất ngờ qua lời kể của Trần Phù Thế : “Năm 2004. Võ Đức Trung của nhóm Văn Hóa Pháp Việt tại Paris,
có mời tôi góp mặt trong tuyển tập thơ Một Phần Tư Thế Kỷ Thi ca Việt Nam Hải
Ngoại 3. Sách phát hành một tháng sau. Tôi nhận được một phong thư gởi từ nước
Germany trời Âu. Tôi ngỡ ngàng khi hai chữ Thương Huyền nằm trên góc trái bìa
thư đập nào mắt tôi. Dễ chừng hơn bốn mươi năm không gặp nàng. Bây giờ bỗng nhiên
xuất hiện. Tôi vội vàng xé phong bì với niềm xúc động. Tội đọc ngấu nghiến,
những con chữ như nhảy múa dưới mắt tôi …Gia đình nàng vượt biên năm 1980 và
hiện định cư tại Đức. Nàng cho biết ngày xưa có biết tôi làm thơ và đã từng
thích thơ MHT nhưng không biết là bút hiệu của tôi…. Nàng cho biết đã đọc bài
thơ “Tuổi Thơ Đại Ngãi” trong tuyển tập của Nhóm Văn Hóa Pháp Việt và bần thần
suốt ngày. Những kỷ niệm thời thơ ấu như sống lại, hiển hiện trước mắt. Nàng
bèn liên lạc với Võ Đức Trung xin địa chỉ tôi và đã viết thư cho tôi với lời
cám ơn. Đọc thư xong, niềm cảm khái dâng
trào, tôi ngồi vào bàn viết và viết trong bốn mươi lăm phút là hoàn tất bài thơ
“Bậu về”:
bậu về liếc mắt đong đưa
gió Xuân đầy mặt
như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu rồi
bậu còn
chơi ác nói cười
những câu dí dỏm
chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về
như là có chút nắng hè
như là có cả
chùm me chua lừng
như là xoài tượng thơm giòn
thêm vào nước mắm chút đường khó
quên.
bậu về
Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc
bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu mà
tại sao bậu bắt đền ta một đời
tội này không chịu bậu ơi !
( B ậu V ề - TPT )
Chữ BẬU rất nhiều nghĩa , thường được dùng trong ca dao Việt Nam hoặc trong lời hát ru
con của những bà mẹ miền quê được Trần
Phù Thế đem vào thơ thật tài tình , vừa dí dỏm lại vừa nủng nịu của lứa tuổi mộng mơ “ chùm me chua lừng – xoài
tượng thơm giòn “ . Một bài thơ tình tuyệt vời , từng câu từng chữ mộc mạc
, bình dị như lời nói thường ngày rất gần gũi thủ thỉ bên tai : / bậu về / Đại Ngãi mình ên / bỏ quên kẹp
tóc / bắt đền tội ta / bậu quên là tại bậu mà / tại sao bậu bắt đền ta một đời
/ tội này không chịu bậu ơi / .Hình ảnh chiếc kẹp tóc trong thơ sao mà dễ
thương quá , khiến ta nhớ đến những mái tóc thề vừa chấm ngang vai , những tà áo dài trắng của những nữ sinh thời
trung học… và chắc chắn ta không thể nào quên những dỗi hờn trách yêu : / bậu còn / chơi ác nói cười / những câu dí
dỏm / chết đời ta chưa / .
Tôi và Trần Phù Thế có duyên văn nghệ với nhau vào cuối thập
niên 1960 . Trần Phù Thế làm trưởng ban 2 Liên đội ...BCH đóng tại Bà Hom - Gia Định . Đại đội tôi trực thuộc Liên đội , và tôi là
trung đội trưởng đóng quân tại mật khu Lý văn Mạnh . Biết tên nhau qua thơ văn đăng
trên Văn , Khởi Hành , Thời Nay … nay lại là lính cùng chung đơn vị nên lần đầu gặp mặt không hề
có những rào đón , khách sáo xã giao mà
rất cởi mở , chân tình . Giờ đây đã hơn bốn mươi năm , tuổi đời đã trên dưới bảy
mươi , trải qua một cuộc bể dâu : Trầm luân và khổ nạn , tình bạn chúng tôi cũng
vẫn nồng ấm như ngày xưa cùng với những
tình thân trong nước và ở hải ngoại như : Ngô Nguyên Nghiễm , Lưu Vân , Nguyễn
Thành Xuân , Phạm Nhã Dự , Hà Thúc Sinh , Vũ Uyên Giang , Nguyễn lê La Sơn…
Nhắc đến những người bạn cùng thời mà không nhắc đến Khánh
Giang và Dương Trữ La thì quả là điều
thiếu sót không thể nào tha thứ được có phải không Trần Phù Thế ? Hai
anh là nhà
báo , nhà văn chuyên nghiệp . Khánh Giang làm tổng thư ký bán nguyệt
sanThời Nay , chủ nhiệm tuần báo Đời Nay . Dương Trữ La viết
feuilleton trên các nhật Báo , đồng thời cộng tác với tuần báo Khởi Hành , Đời
Nay và một v ài t ờ b áo kh ác.. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau tại nhà Phạm
nhã Dự ở Mười tám thôn vườn trầu Bà Điểm - Hốc Môn , thảo trang của Ma Xuân Đạo ở Thạnh Lộc Thôn sát
bờ sông Sài Gòn , hoặc nhà Khánh Giang ở Chợ Lớn , nhà Dương Trữ La tại
con hẻm nhỏ đường Trần Quốc Toản …Chúng tôi đầy ắp những kỷ niệm với nhau , văn
nghệ là lẽ đương nhiên còn đời thường rất nhiều lần bên tách
trà chung rượu .
Nhớ đêm khai trương quán cà phê văn nghệ Phương tại đường
Nguyễn Trãi , ca nhạc do ca sĩ Quốc Phong đãm trách với sự có mặt chung vui của
Lâm Chưong , Tô Đình Sự , Trần Phù Thế ,
Phạm Nhã Dự , Nguyễn Lê La Sơn …Tất cả đều mặc quân phục chỉ riêng có Khánh
Giang và Dương Trữ La mặc đồ dân sự , không
nhớ Lâm Chương hay Trần Phù Thế nói khích thế nào , hai anh về thay hai bộ đồ lính
mới tinh cổ áo mang cấp bập chỉnh tề . Thì ra hai anh là quân nhân biệt phái .
Nhà thơ Phạm Nhã Dự
viết : “ Từ đó chúng ta tìm gặp nhau ở Khởi Hành hoặc Tin Sáng với Dương Trữ La lân la
“ Cây Lý” thân tình ; ở Thời Nay với Khánh Giang , ngồi vỉa hè Phạm Ngũ lão bên
“ dĩa cơm sườn và chai Vĩnh tòn ten “ , cùng những bài chưa đăng đã trả tiền
trước , ở Kim Sơn hay La Pagode ’’. “Cùng những
bài thơ chưa đăng đã trả tiền trước ’’ , ý Phạm Nhã Dự đề cập đến con người
Khánh Giang , rất hào sãng và rất phóng khoáng .Tôi nhớ rất rõ tòa soạn báo Thời
Nay nằm trên đường Phạm ngũ Lảo , tầng một là nơi làm việc của Khánh Giang , tầng
trệt dành riêng cho cô thư ký . Mỗi lần đến đưa bài anh đều bảo cô thư ký ứng
tiền trước hoặc chờ anh lo xong bài vỡ rồi chúng tôi sẽ kiếm một cái quán nào đó
hàn huyên tâm sự thâu đêm . Hai anh tửu lượng rất cao , uống không bao giờ say . Có lần tại thảo trang của nhà văn Ma Xuân
Đạo sát bờ sông Sài Gòn , Dương Trữ La sau một
chầu nhậu nhảy xuống sông tắm bị lục bình quấn chân suýt chết đuối , tôi dân biển lội giỏi kè vai dìu anh vào bờ . Giờ đây Dương Trữ La - Khánh
GiangTô Đình Sự - Trần Kiêu Bạt - Quốc Phong … không còn nữa , nhưng
mỗi lần nhắc đến chúng tôi đều xót xa , ngậm ngùi, tiếc thương cho những người bạn tài hoa bạc mệnh không tiếp tục
theo đuổi con đường mà các anh đã chọn lựa .
Nầy Sự , rượu tới
phiên mày
uống say một trận cho
đầy cơn mê
tuổi thanh niên cũng
chẳng hề
Thằng ra chiến trận ,
thằng về áo quan
[ Tô Đình Sự - uống rượu ở vườn trầu Bà Điểm – TPT ]
Khói sương là chốn vô
thường
nắng mưa là chuyện âm
dương của trời
tử sinh là lẽ con người
Bạt ơi , số mạng một đời
như không
đục dòng thơ rượu khơi
trong
ta nghe tiếng đứt , mệnh
mông mênh chìm
hỏi mày nằm đó lặng im
bao quanh hương khói
ai tìm hồn xưa
một đời quanh quẩn gió
mưa
khăn sô đắp mặt sao thừa
rượu cay
một đời hào phóng vung
tay
lòng quên thiên hạ tình
say bạn bè
[ Trần Kiêu Bạt – TPT
]
Lục bác là thể thơ thuần túy Việt Nam , dễ làm khó hay không
khéo sẽ thành vè . Người xưa đã lưu danh muôn thuở với những áng thơ lục bác bất
hủ như Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du , Chinh Phụ Ngâm của Đoàn thị Điểm …Thời
tiền chiến có Huy Cận , Nguyễn Bính … Thập
niên năm mươi sáu mươi có những nhà thơ làm lục bác rất hay như Cung Trẩm Tưởng
, Viên Linh , Hoàng Trúc Ly , Bùi Giáng , Trần Tuấn Kiệt , Phạm Thiên Thư , Trần
Yên Thảo , Nguyễn Đức Sơn ( Sao Trên Rừng ) … Trần Phù Thế thật sự nặng nợ với
thơ lục bác từ ngày anh định cư tại Mỹ vào thập niên chín mươi . Anh rấtmê thơ lục bác bằng chứng anh làm rất nhiều thơ lục bác , hơn năm trăm bài
thơ của anh tôi đọc được , hai phần ba là
thơ lục bác .
Anh còn thử nghiệm làm
mới thơ lục bác bằng cách thay đổi hình thức thơ . Bài thơ hai câu :
con chim nó gọi bạn tình
còn ta gọi bậu một mình tàn hơi
Phân thành sáu
câu :
con chim
nó gọi bạn
tình
còn ta gọi bậu
một mình
tàn
hơi
[Tàn hơi - TPT ]
Bài ba câu :
biết tận cùng nghĩa đau thương
hiểu tận cùng lẽ vô thường tử sinh
em ơi thấy bóng chẳng hình
Phân thành năm câu :
biết tận cùng
nghĩa đau thương
hiểu tận cùng lẽ vô thường tử sinh
em ơi
thấy bóng chẳng hình
[ Biết - TPT ]
Và còn rất nhiều bài lục bác anh mở bài câu tám và chấm dứt
câu tám :
lênh đênh chin cửa trăm
năm cõi người
một lần lỡ bước rong
chơi
ta thân phù thế một
đời như không
[Bạt – TPT]
Bài mở câu sáu kết câu sáu :
một hôm lịch sử rụng
đầu
cha Long Quân hởi
mẹ Âu Cơ hời
con rồng phiêu bạt
khắp nơi
[lịch sử - TPT]
Bài thơ lục bác ngắn hai ba câu ngắt thành nhiều câu rất cô đọng , giàu nhạc tính . Mỗi câu : một ,
hai hoặc ba …chữ tạo nên một nhịp thơ mới
thật lạ , âm điệu vừa phong phú lại vừa
lơ lửng chênh vênh , ẩn chứa bên trong những câu , chữ là ý thơ mênh mông vô tận . Nhà thơ
Thiếu Khanh đã nhận định :
“Dường như những thể nghiệm đó cho
thấy hình thức sáu chữ, tám chữ không hề là cái khuôn cứng ngắc gò bó trói buộc
câu thơ, trái lại, trong giới hạn câu chữ đó tài năng của nhà thơ vẫn có thể
làm cho thể thơ càng thêm uyển chuyển và giàu tính biến hóa khiến mỗi bài thơ
có vẽ phá vỡ và thóat ra khỏi hình thức câu chữ của nó, hóa giải ranh giới ràng
buộc của số câu số chữ, làm
tăng thêm sự phong phú của âm điệu,
nhạc điệu. Có lẽ thời gian sẽ giúp khẳng định giá trị của sự
tìm tòi sáng tạo của anh, ít nhất là
về cách xếp đặt mới cho thể thơ truyền thống quen thuộc nầy mà nhiều nhà thơ
từng ngậm ngùi nhận xét: thơ lục bát dễ làm mà khó hay!”
[ Thiếu
Khanh : Thơ lục bác mới của Trần Phù Thế ]
Trần Phù Thế sinh ra , lớn lên tại Sóc Trăng , học trường Hoàng Diệu – Ba Xuyên trường Phan Thanh
Giản – Cần Thơ và sau khi ra tù anh đã hơn mười năm phiêu bạt giang hồ khắp các
tỉnh miền Tây trước khi định cư tại Mỹ , nên những bài thơ tình của anh ngọt
ngào hương vị phù sa miền đồng bằng sông
Cữu Long . Đặc biệt chữ dùng trong thơ anh không pha trộn hai miền Trung - Bắc mà
thuần túy chất giọng miền Nam , đôi khi
anh còn dùng những đặc ngữ miền Tây mộc mạc , chân chất thấm đượm tình quê như : xa
ngái , sao vậy cà , chua lừng , con nước nhửng , chết điếng , tuốt luốt… rất
gần gủi thân thương .
Ta ghét mười năm ở xứ
này
Mười năm đủng đỉnh lục
bìng quay
Như con nước nhửng dòng sông Hậu
Thương cả lần đi ứa
máu đầy
[ ta ghét – TPT ]
Hai con trống mái giận
nhau
Hai con chim mái làm sao vậy cà
Mấy lần
bước xuống
con đò
mà quên tuốt luốt
thăm dò cạn sâu
[ lục bát không đề -
TPT ]
Những nơi anh dừng chân : Đại Ngãi - Hậu Thạnh - Cần Thơ – Sóc
Trăng - Kiên lương – Mương Điều - Đường Đức - Trường Khánh – Hòn Me – Hòn Đất …
anh đều để lại những bài thơ bát ngát , mênh mông cỏ nội hoa ngàn . Và thấp thoáng
đó đây một vài mối tình chơi vơi như những cánh lục bình bập bềnh sóng nước Cữu
Long .
Một lần ở lại lỳnh quỳnh
đêm nghe cá quẩy bờ
kinh tám ngàn
xác xơ đầu ngỏ cuối làng
hòn me , hòn đất héo vàng
tuổi xanh
em đi cỏ úa hồn anh
ngày về như thể mỏng
tanh cánh chuồn
một lần ở lại Kiên Lương
khói xi măng thở bụi đường
hà tiên
[ lỳnh quỷnh - TPT ]:
phải chăng Hậu thạnh
mù xa
khúc sông xóm ngọn ,
cây đa , cái đình
ta về mắt ướt điêu
linh
phải chăng người cũ hiện
hình đâu đây
lòng đau biết mấy đêm
dài
ta đau biết mấy ngàn
ngày quê hương
đi lên , đi xuống con
đường
bước lê cái bóng tà
dương một mình
ta về gió thổi hiển
linh
[ Hậu Thạnh – TPT
]
Nhà thơ Phan Xuân Sinh nhận định về ngôn ngữ miền nam trong thơ Trần Phù Thế như sau :
Thơ anh vừa sâu sắc
vừa lắng đọng . Vừa chua chát nhưng cũng vừa vị tha , độ lượng . Trong thơ anh
hiện rõ cái nét chơn chất của người miền nam lục tỉnh hiền hòa , chất phác Cái ngôn ngữ mộc mạc được anh đưa vào thơ một
cách tự nhiên và làm câu thơ trở thành duyên dáng mượt mà .
[ Một góc nhìn : giọng
miền nam lục tỉnh trong thơ Trần Phù Th ế -
Phan Xuân Sinh ]
Nếu ai hỏi tôi nhớ bài thơ nào của Trần Phù Thế nhất , tôi sẽ
không ngần ngại trả lời đó là bài ĐỜI TA . Không những tôi mà cả vợ tôi đều thuộc
lòng , thỉnh thoảng tôi đọc cho cả nhà
nghe mọi người không cầm được nước mắt . Đây không phải là một tuyệt tác , nhưng
bài thơ đã nói lên được phần nào đời tôi
, đời bạn…những ngưởi lính VNCH , sau
khi cọng sản Bắc việt xé bỏ hiệp định Paris và cưỡng chiếm miền nam ngày 30/
4/75 , đều chung số phận nghiệt ngã như nhau . Sống chết trong khói lửa chiến
tranh . Khổ nhục trong các trại tù cọng sản . Và sau khi ra tù một số không ít anh em ngậm đắng nuốt
cay khi phải đối diện với sự thật đau lòng ,
gia đình ly tán , cha mẹ vợ con không biết lưulạc phương trời nào , còn sống hay đã chết ; cộng thêm sự kềm
kẹp khắc nghiệt của bọn công an phường xã , nhưng vẫn âm thầm chịu đựng , ngẩng cao đầu không chịu khuất phục trướcc bạo
quyền cọng sản .
Bài thơ ĐỜI TA dài 66 câu , 16 đoạn mỗi đoạn 4 câu , ghi lại
một phần đời của tác giả , thời gian bắt
đầu từ ngày vào tù năm 1975 và ra tù từ
trại GIA TRUNG năm 1982 . Nói đến trại tù
Gia Trung là nói đến sự vô nhân , độc ác cùng cực của bọn cầm thú lên làm người
. Chúng đánh tù bằng thanh sắt gõ kẻng báo hiệu giờ lao động , ra lệnh cho bọn
trật tự là tù hình sự cùng chúng luân phiên đấm đá những người mà chúng ghét ,
bất luận thành phần nào , kể cả tu sĩ và những người đáng tuổi cha ông chúng .
chiều xuống sương mù
bay lãng đãng
bảy năm không án tù
Gia Trung
Bảy năm vắt kiệt đời
trai trẻ
Mây trắng Trường Sơn
mỏi núi rừng
Thà chết như là con
kiến nhỏ
Còn hơn hèn mọn kiếp
lao tù
chiều nay mây oán trên
đầu núi
Hãy chở lòng ta đến hư
vô
…………………………………….
Trong lúc bạn ta còn
nằm lại
Trên đồi hiu quạnh đất
Gia Trung
Gió mưa rát mặt không
nhang khói
Hồn lạnh bơ vơ giữa
núi rừng
(
ĐỜI TA – TPT )
Tôi từ trại Nam Hà chuyễn vào trại Gia Trung cuối năm 1981,
bị bệnh nặng nên được đưa lên bệnh xá nằm ở phòng lao chờ chết . Nguyễn Hải Chí
[ họa sĩ Choé ] làm ở phòng
Văn hóa thỉnh thoảng
thăm tôi . Anh đã từng bị biệt
giam nhiều tháng chỉ vì táy máy tay chân , trong giờ nghĩ lao động anh vẽ trên
cát thằng tù ốm trơ xương , cái đầu là củ khoai lang sùng nham nhở . Anh và tôi
tâm sự rất nhiều . Người mà anh nhắc đến nhiều nhất là nhà thơ Viên Linh và tạp chí Khởi Hành . Nhà thơ Viên Linh đặt
bút hiệu Choé cho anh . Khởi Hành đăng tranh biếm họa của anh . Bắt đầu từ đó
anh đã trở thành một họa sĩ nổi tiếng không những ở trong nước mà cả thế giới .
Chúng tôi dự định khi ra tù sẽ vượt biên Mộng của anh sẽ viết một phim truyện bằng
tranh đại ý cho Max – Lênin - Stalin –
Mao Trạch Đông –Hồ Chí Minh tranh dành ngôi vị Diêm vương dưới âm phủ , kết cuộc
âm mưu bại lộ , Max bị quỷ sứ cắt lưỡi , còn những tên khác bị vất vào chảo dầu
sôi… Tiếc thay anh mất sớm nên không thực hiện được hoài bảo của mình .
Cũng chính nơi trạm xá này , tôi đã chứng kiến tận mắt cảnh
cai tù trút những đòn thù dã man trên thân thể ốm trơ xương như thây ma của anh
em tù nhân . Tôi không bao giờ quên được hình ảnh một vị mục sư khả kính , áo quần bê bết máu , mặt mũi sưng vù nằm sóng
soãi trên nền cát mặc cho bọn trật tự và bọn cán bộ đánh đập dã man cho đến khi ngất xỉu .
Trung tá Nguyễn văn Thanh bị đánh chết tại
đây . Một số văn nghệ sĩ bị giam tại trại này như : Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết
Khánh , nhà thơ Hà Thượng Nhân , Nguyễn
sỹ Tế , Trần Tuấn Kiệt , Trần Dạ Từ , ký giả dzoãn Bình … …
Nhà thơ Trần Phù Thế ở tù tại Gia Trung nên người viết tạm ghi lại một phần rất nhỏ về những sự tra tấn
khốc liệt của bọn cai tù cọng sản . Muốn biết thêm cảnh lao tù của cọng sản khắc
nghiệt như thế nào xin đọc trường thiên bút ký Đại học máu của nhà văn Hà Thúc
Sinh , Đáy địa ngục của nhà văn Tạ Tỵ , Thép đen của Nguyễn Chí Thiệp …và kể cả
bút ký của các nhà văn Miển Bắc sống trong chế độ cọng sản như Đêm giữa ban ngày
của Vũ Thư Hiên , Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn …
Trong tù , không biết
ngày nào được tha , tương lai mờ mịt nên chúng tôi đã chuẫn bị tinh thần rất vững
vàng cho những tình huống xấu nhất có thể xẩy ra , kể cả cái chết . Và với người
đầu ấp tay gối , có thể vì hoàn cảnh xã hội đưa đẩy đến bước đường cùng , cũng có
thể thanh xuân tràn trề sức sống không
chờ đợi được , bước thêm một bước nữa cũng là chuyện bình thường . Chúng tôi không hề oán trách dù
trong lòng hết sức xót xa , đau đớn . Tuy nhiên , phần đông những người mẹ , người
vợ có chồng tù tội dưới chế độcọng sản đều làm tròn thiêng chức của một người đàn bà Việt
Nam , thủ tiết chờ chồng ,và dù chồng có chết trong tù cũng vẫn một lòng một dạ thủy
chung thờ chồng nuôi con .
Vợ ta hãy nhớ lời ta
dặn
Mai mốt bặt tin đừng
đi tìm
cải tạo , đi tù coi
như chết
coi như vĩnh biệt phút
ban đầu
một mai em thấy lòng
son trẻ
vẫn còn nóng hổi
chuyện thanh xuân
thì em cứ bước thêm
bước nữa
ta chúc cho em phúc
vạn lần
khuyên em là giả , em
đi thật
hai đứa con khờ đói bơ
vơ
hai đứa con khờ ba bốn
tuổi
cha tù mẹ bỏ sống bơ
vơ
( Đời Ta – TPT )
Nhà thơ Lê Phi Ô nghiến răng cắn nát môi lấy máu viết thành thơ : / vợ bỏ con thơ theo cán bộ / Đổng tiền đánh
đổi cả nhục vinh / Hỡi ơi canh bạc đời đen đỏ / Mỹ nhân hề chén rượu tàn canh /Tiếng
gọi Việt Nam .LPO / Cảnh nhà Trần Phù
Thế bi thảm hơn nhiều . Chổng tù tội . Vợ ôm cầm sang thuyển khác bỏ hai con nhỏ
mới lên ba bốn tuổi bơ vơ không nơi nương
tựa , lang thang , đói rách .Ông bà nội
tuổi già sức yếu lặn lội tìm cháu nhiều tháng trời mới gặp được hai cháu đang ăn
mày giữa chợ . Điều bi thãm nhất ở đây là
hai cháu ăn xin ở hai nơi khác nhau , khi gặp lại ông cháu chị em chỉ còn biết ôm
nhau khóc .Viết những dòng này mà tay tôi run run bồi hồi xúc động , dù tôi biết hiện nay hai cháu định cư tại Mỹ cùng cha theo diện HO , cuộc sống ổn định , hạnh
phúc bên chồng con .
em đi một tiếng không
giao lại
hai đứa con thơ cho mẹ
chồng
bà đi tìm cháu bao
ngày tháng
gặp cháu ăn mày giữa
chợ đông
con chị ôm em mừng
khóc ngất
nội ôm hai cháu lệ
lưng tròng
ta về đứa chị theo bà
nội
bán chuối ven sông với
chiếc xuồng
bảy năm vắng mẹ , cha
tù tội
con trải thân đời với
gió sương
còn con gái nhỏ cùng
ông nội
chăn vịt trên đồng mới
gặt xong
tuổi thơ đội nắng ,
hai màu tóc
nắng cháy đời con ,
cháy cả lòng
ta về hai trẻ nhìn ngơ
ngác
xa lạ bừng trong mắt
trẻ thơ
nước mắt còn đâu . Còn
nước mắt
ôm con mà khóc tự bao
giờ
thưa ba , thưa mẹ ,
con tạ tội
ba khổ mẹ rầu những
bảy năm
lich sử chơi con đòn
đau điếng
bảy năm tù tội nặng
nghìn cân
(Đời ta – TPT )
Vâng , lịch sử không những chơi ta một đòn đau điếng mà còn chơi cả dân tộc
chúng ta một đòn đau điếng có phải không Trần Phù Thế ? Giờ đây , sống ở xứ người
, nhìn về quê hương Việt Nam mà lòng đau như cắt . Xã hội băng hoại . Đạo đức
suy đồi . Biển , đảo , đất , rừng dần dần mất về tay Trung Cộng . Vậy mà bọn sâu
bọ Ba Đình vẫn sống phè phỡn , nhỡn nhơ trên mồ hôi , nước mắt , và xương máu của
đồng bào . Chúng còn đánh đập dã man , bắt nhốt vào tù những người yêu nước đã
can đãm đứng lên đáp lời sông núi , cất cao tiếng nói bão vệ giang sơn , tổ quốc
.
Đọc một câu thơ hay sướng cả tuần . Đọc một đoạn thơ hay sướng
cả năm . Đọc một bài thơ hay sướng cả đời . Không nhớ câu nói này của ai , nhưng
rất đúng với những người yêu thơ và nặng nợ với thơ . Thời khang chiến có Màu tím hoa sim của Hữu
Loan , Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác , Tây Tiến của Quang Dũng , Tống biệt hành
của Thâm Tâm …, vào thập niên 50 , 60 còn
có rất nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng
, Nguyên Sa , Thanh Tâm Tuyền , Hoàng Trúc Ly , Viên Linh , Tuệ Sĩ , Tô Thùy Yên…
mà trong bài viết ngắn này người viết không thể trích ra hết được ; đã vượt thời
gian lưu danh muôn thuở . Thơ Trần Phù Thế có rất nhiều câu hay , đoạn hay , và
bài Bậu Về rất hay theo thiển ý của người viết , không biết sau này sẽ ra sao ?
Thời gian sẽ trả lời . Nhà thơ Trần Phù Thế có lẽ khi làm thơ không nghĩ đến điều
này , được – thua – còn - mất chỉ là một thoáng phù du có phải không Trần Phù
Thế ? Anh vẫn tiếp tục đi theo con đường anh đã chọn lựa , dệt những vần thơ tình ngọt ngào hương vị phù sa miền đồng
bằng sông Cữu Long .
TRẦN VĂN
SƠN