văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, March 5, 2013

Minh Nguyễn * Tháng Ba Tây Bắc Hoa Ban Nở


Không biết từ lúc nào tôi bỗng quan tâm tới các loài hoa. Điều này kể ra e có người sẽ mỉm cười cho rằng: đàn ông ai lại quan tâm tới mấy chuyện hoa hòe hoa sói; trừ trường hợp sinh nhật cha mẹ, bạn bè hay người yêu.

Tưởng chuyện đơn giản, vậy mà tôi đã phải chưng hửng trước câu hỏi đầy sự đánh đố  nơi cô bạn vì, biết tôi đã nhiều lần đi lên vùng Tây Bắc : ngoài mùa hoa đào hoa mận ra, nghe nói trên vùng Tây Bắc còn có mùa hoa gì đặc biệt lắm, anh có biết không ?

Tôi chợt nhớ lần ghé lên Lào Cai,đi cùng Mây vượt chặng đường dài qua hàng ngàn bâc đá, đặt chân lên vườn hoa thiên nhiên Sapa trên đỉnh núi Hàm Rồng. Ở đó ngoài việc ngắm thỏa thuê hàng trăm loài hoa lan đẹp lộng lẫy quí hiếm, trước khi ghé sang vườn Châu Âu kỳ thú nhìn thấy cơ man hoa hồng, hoa thươc dược, tuy-líp, lay-ơn để, cuối cùng dừng chân lại bên rừng hoa đào hoa mận bạt ngàn; tuyệt nhiên không nghe nhắc tới loài hoa nào khác. Đem thắc mắc hỏi Mây, cô cười thật xinh bên hai chiếc răng vàng bắt nắng sáng lấp lánh, khiến tôi mỗi lần nhìn thấy phải phát ghen lên với mấy tay thợ Trung Quốc, cô cho biết : tuy cùng ở vùng Tây Bắc tổ quốc nhưng người H’ Mông ở Lào Cai hay Hà Giang chỉ trồng hoa đào hoa mận. Còn muốn khám phá mùa hoa Ban, phải chờ cho đến tháng ba đi qua Sơn La - Điện Biện, ở đó tha hồ ngắm mùa hoa trắng ngần nở khắp trên đỉnh núi, ở lưng chừng đồi hay bên những vách đá dựng đứng.

Hoa ban. Có thật, có một mùa hoa ban trên vùng Tây Bắc, tôi chưa hề biết đến? Nhất định, tôi tự nhủ mình sẽ lên đó một lần, nhìn tận mắt mùa hoa ban này mới được. Tiếc thay, thời gian chưa đến tháng ba, nếu trở về Sàigòn lúc này e chẳng bỏ công sau chuyến đi dài ngày, trong khi tôi đang có mặt ở Hà Nội. Nghĩ vậy, tôi a-lô về Nam Định rủ mấy anh chị bên gia đình bác Tiển, lấy xe ô-tô đi thăm đền phủ Dầy- Vân Cát, thưởng thức ba mươi sáu giá đồng cùng với các nghệ sĩ hát văn, sau đó xuôi về bến Đục, đi thuyền trên suối Yến, lên động Hương Tích đọc bài thơ chữ nôm do Chu Mạnh Trinh đề trên vách đá.
Đi chơi hết một vòng quê hương, đến khi quay về Hà Nội, tôi vẫn còn thừa thời gian để ghé lên Tây Bắc xem mùa hoa ban nở. Trong lúc đang do dự chưa biết đi bằng phương tiện gì, may sao có người mang xe máy kèm theo bản đồ đến cho tôi thuê xe. Không phải chần chờ gì nữa, tôi xuôi đường Thăng Long ra Xuân Mai, qua Lương Sơn, lên Hòa Bình thả hồn trong khung cảnh thiên nhiên mướt xanh từ hai bên đường dẩn lên miền sơn cước. Con đường đi qua khiến tôi không khỏi bồi hồi nhớ tới những câu thơ “  Sông Mã xa rồi tây tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống “(*)

Vượt qua chặng đường heo hút cồn mây với rừng núi chơi vơi, với dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, với ngàn thước lên cao ngàn thước xuống; chẳng mấy chốc tôi đã chạy xe lên tới Hòa Bình. Thay vì chạy vòng tới hồ thủy điện ngắm cảnh hùng vĩ sông Đà, tôi lái xe thẳng tuột tới dốc Cun. Mới đầu, nhìn con dốc tôi tưởng bình thường như bao con dốc tôi từng đi qua, nhưng khi đặt chân lên con đường uốn lượn ngoằn ngoèo, tôi có cảm giác như đang trôi bồng bềnh trong mây hoặc chìm sâu dưới nhiều đoạn cua gấp khúc. Ở đó, một bên vách đá cheo leo, một bên vực sâu trắng xóa một mùa hoa lạ lẫm đang nở trắng trời trắng đất. Xứ sở hoa ban đây rồi? Loài hoa đẹp tựa những bông tuyết bám trên đỉnh Phăn-Xi-Păng vào những hôm nhiệt độ xuống dưới không độ. Hoa trắng trước mặt, hoa trắng sau lưng, hoa trắng trên đầu, hoa trắng dưới chân, hoa trắng đuổi theo tôi chạy miết tới con đường mới  bạt núi, nhằm làm giảm độ cao nguy hiểm. Bất ngờ, từ một bên vách núi còn lởm chởm đá,  mấy chị em phụ nữ đầu chít khăn len (**), mặc áo “xửa cóm” bỏ trong váy ống đen, ngồi bên những chiếc bàn làm từ vỏ cây rừng, buôn bán hàng quà đặc trưng: cơm lam, mía lùi, ngô luộc, rau rừng ngay trên đỉnh đèo Thung khe. Đứng trước hình ảnh khá ấn tượng giữa môt bên là các phụ nữ người Thái trắng, một bên là cảnh vật thiên nhiên trắng xóa màu hoa ban, buột tôi không thể nhắm mắt làm ngơ, dừng xe chụp vội mấy bức hình về hoa ban, đồng thời thưởng thức những món ăn đặc sản “ năm thì mười thuở “ mới gặp, để lấy sức đi tiếp lên đèo Thung Nhuối. Ngọn đèo cuối cùng trong số những ngọn đèo nguy hiểm nằm trên cung đường dài mười hai cây số. Và, khi đã đứng trên đỉnh đèo cuối cùng này, nhìn xuống thung lũng bạt ngàn màu hoa trắng muốt nở đầy bên dưới ruộng đồng, bên mươi nếp nhà sàn mái đỏ xinh xinh ẩn hiện bên các bản làng người Mường người Thái, toát lên vẻ đẹp thanh bình mà tôi chưa biết nơi đây là đâu? Kịp khi quay nhìn, tôi nhận ra đám người gồm đàn ông mặc áo cánh màu chàm có hai túi dưới, cổ tròn xẻ trước ngực cài những chiếc nút làm bằng vải hoặc làm từ xương, tay dắt ngựa hoặc cặp nách gia súc mới mua, đi lẫn vào đám phụ nữ mặc áo cổ xẻ chữ V, đính hàng nút bạc hình những con vật có cánh chạy dài từ cổ xuống tới cạp váy màu mạ non trông thật gợi cảm. Họ đi lẫn vào nhau nói cười vui vẻ, sau buổi tan chợ trở về thôn bản. Hỏi thăm, mới hay thung lũng đang nở tràn một mùa hoa ban bên dưới là “ Mai Châu mùa em thêm nếp xôi”. (***). Nơi hàng năm có tục lệ mở hội xên Bản, xên Mường vào dịp hoa ban nở nên có tên gọi “ hội hoa ban “. Hội hoa ban tổ chức với qui mô lớn nhỏ tùy thuộc vào điều kiện thời tiết có liên quan tới sự được mùa hay mất mùa trong năm. Là cơ hội dành cho thanh niên nam nữ thi tài, vui chơi, tìm hiểu tâm tình của nhau. Từ sáng sớm tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp núi rừng. Các bếp lửa trong các ngôi nhà sàn bập bùng lửa đỏ đồ xôi, luộc gà, thái măng, mổ lợn bày cổ. Rượu cần từng vò lớn được mang ra đãi khách. Riêng đám thanh niên nam nữ áo  váy chỉnh tề, gọi nhau đi đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở nhất. Ở đó họ chọn ra những cánh hoa đẹp nhất tặng người yêu để tượng trưng cho sự chung thủy và một ít mang về nhà biếu bố mẹ để chứng tỏ lòng hiếu thảo cùng sự biết ơn.   

Do háo hức muốn khám phá ngay một mùa hoa ban, tôi hỏi thăm đường rẻ xuống thung lũng Mai Châu. Con đường dẩn vào huyện lị thơ mộng chẳng kém bao con đường phố núi tôi từng đặt chân đến. Con đường chạy suốt chiều dài huyện lỵ với một bên núi đá chấp chùng, một bên là những cánh đồng xanh mởn lúa non. Để chiêm ngưỡng tận mắt màu hoa ban giữa núi rừng Tây Bắc, tôi nhờ cô gái người Thái con chủ nhà trọ bản Lát, hướng dẩn đi chơi núi. Trên đường đi, cô vui vẻ cho biết hoa ban có nhiều loại : hoa ban đỏ, hoa ban tím; đặc biệt vào tháng ba trên đường từ Hòa Bình đi Lai Châu, Sơn La, đặt chân đến bất cứ nơi nào trên miền sơn cước này, người ta cũng đều bắt gặp màu trắng hoa ban báo hiệu mùa nương rẫy,hội hè, đình đám. Và, lần đầu tiên trong cơn gió nhẹ thoảng đưa đến bên cánh mũi, tôi biết thế nào là thứ hương thơm khó phân biệt được với mùi cỏ cây, hoa lá mọc ven đường. Tôi giữ chặt những chiếc hoa ban do cô gái trao cho. Hoa ban. Từ khi mới còn là nụ, cho đến lúc mọc dài thành búp mãn khai, hoa trông chẳng khác gì ngón tay búp măng nơi cô gái trẻ. Đến khi trưởng thành, hoa mọc ra năm cánh hoặc đôi khi chỉ còn bốn, riêng một cánh để ý thấy nổi lên chùm tia màu hồng đỏ ở về phía cuối cuốn; thoạt trông cứ  tưởng đó là những mạch máu nhỏ li ti. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ làm cho những chiếc tua mang đầy nhụy hoa, khẻ lay động theo điệu luân vũ của gió, làm nổi bật hai chiếc lá xanh tượng hình nửa trái tim của nàng Ban và chàng Khun ghép thành đôi qua câu hát: “ Nàng Ban xinh đẹp/ Yêu chàng trai Khun/ Tình duyên không thành/ Chết hóa thành Ban “ .

Theo truyền thuyết của dân tộc Thái: “ ngày xửa ngày xưa có chàng trai Khun, giỏi nghề nương rẩy lại có tài săn bắn đã, đem lòng yêu cô gái tên Ban xinh đẹp hát hay dệt  giỏi. Thế nhưng, vì ham giàu cha Ban đem gả cô cho con trai nhà tạo Mường, vốn là một thanh niên lười biếng lại có tật gù lưng. Mặc cho cô van xin hết lời nhưng cha cô quyết không từ bỏ ý định. Ông bàn với nhà tạo Mường sữa sọan lễ cưới sớm cho hai người.Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản núi tìm tới nhà chàng Khun để cầu cứu. Đến nơi, nàng nghe tin chàng đã đi mua trâu ở những bản làng thật xa. Để làm tin nàng lấy chiếc khăn Piêu đội đầu, buộc vào tay cầu thang nhà rồi bươn bả ra đi tìm chàng. Nàng đi hết ngọn núi này đến ngọn núi khác, ngày này qua ngày khác, cuối cùng vì quá đau khổ, mệt mỏi nàng đã gục chết trước một cửa hang nơi lưng chừng núi. Thương tình, dân làng xúm nhau đắp đất lo cho nàng có được nấm mộ giữa rừng. Trong khi đó Khun cũng vừa đi mua bán về đến nhà. Chàng bất ngờ nhìn thấy chiếc khăn của Ban vắt trên cầu thang,chàng biết ngay đã xảy ra chuyện chẳng lành cho nàng nên vội đi tìm. Dò hỏi khắp nơi, Khun biết nàng đã bỏ nhà ra đi tìm chàng ở tận trong rừng sâu núi thẳm. Chàng vội băng rừng, vượt suối, trèo hết núi này sang núi kia vẫn tìm không thấy nàng. Cuối cùng do kiệt sức, chàng ngã xuống trên một mô đất ở trước cửa hang. Ngay lúc đó, mặt đất bỗng dưng lay động phủ kín lấy người chàng. Sau này, từ trên ngôi mộ thấy mọc lên một cái cây có những chiếc lá xanh thẩm mang hình hai nữa trái tim ghép lại. Và, đến mùa đông lạnh giá cây trút hết lá, dệt thành tấm thảm che kín lấy ngôi mộ, đợi đến tháng ba trổ lộc non và cho ra những chiếc hoa trắng như làn da nàng Ban. Người dân vùng Tây Bắc cảm thương cho mối tình chung thủy của hai người, bèn lấy tên nàng Ban đặt cho loài hoa này.Từ đó,ngoài vẻ đẹp thuần khiết ra hoa ban còn có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất, tinh thần người Thái. Cho nên mỗi khi đi rừng thấy hoa ban là biết sắp đến bản làng của họ với những nếp nhà sàn xinh xinh quyện lấy làn khói bếp, bốc lên hương vị thơm lừng của món hoa ban đồ chõ xôi.

Sau buổi đi ngắm hoa ban trở về, tôi được chủ nhà hiếu khách mời ăn bữa cơm tối. Ngồi trên sàn nhà lót bằng tre nứa, trải chiếu hoa, bên cạnh bếp lửa ấm cúng; uống rượu cần được ủ những lúa nếp, lá hính ho,gừng cùng với ngực mèo ngon tuyệt vời. Đặc biệt các món ăn được thể hiện đầy bản sắc văn hóa ẩm thực của người Thái qua việc sử dụng lá non hay hoa ban nấu các món ăn như: Hoa ban xào thịt lợn rừng. Hoa ban nộm củ riềng. Hoa ban hầm thịt chân giò. Hoa ban đồ chõ xôi. Hoặc lá hoa ban non đồ chấm chéo cá. . . ăn nhớ đời.

Sáng ra, tôi chào tạm biệt những ngôi nhà sàn, những hàng cây cọ, những thửa ruộng lúa non đẹp như bức tranh đặc tả về Mai Châu xuôi đường quốc lộ sáu đi lên Sơn La bên cái nắng hanh vàng vắt hờ hững bên sườn đồi, bên lưng chừng vách núi cùng với màu trắng hoa ban đang nở trắng trời trắng đất, chạy đuổi theo ngay sau lưng.

Tự dưng, tôi cảm thấy mất đi sự hào hứng ban đầu, cho dù cảnh quan thiên nhiên ở Sơn La nghe nói xinh đẹp, thơ mộng không thua gì Đà Lạt phương Nam với hai cao nguyên Mộc Châu, Nà Sản nổi tiếng cùng cây trà cây cà phê và chăn nuôi bò sữa.

Vì sao ư. Có lẽ do tôi đã khám phá đầy đủ về một mùa hoa ban nở trắng ngần trên vùng trời Tây Bắc ?     


(*)(***) Tây Tiến ( trong tập thơ Mây Đầu ô của Quang Dũng

(**) Để phân biệt với phụ nữ Thái đen đầu đội khăn Piêu

thơ TRÚC THANH TÂM


NỬA DÒNG SÔNG NƯỚC MẮT

Anh bên nầy Hiền Lương
Em bên kia Bến Hải
Đất nước mình nhiễu nhương

Chiều co ro nằm ngủ
Trên đồi dựng máu tươi
Những hình hài ung mủ

Dân ta còn lầm than
Một quê hương nhược tiểu
Ôi, những vành khăn tang

Hỏa châu vàng ánh mắt
Mẹ nhỏ giọt lệ trần
Nghẹn ngào từng tiếng nấc

Đời còn lắm trái ngang
Vĩ tuyến sầu vạn cổ
Trong hình hài Việt Nam !

Tây Đô, 1968

BA MƯƠI NĂM, BIỀN BIỆT CÀ MAU

Hơn ba mươi năm, biền biệt Cà Mau
Bến tàu đó, em biết còn chốn cũ
Mái trường tỉnh tôi chưa lần được học
Rồi chiến tranh, từ đó cách xa mình !

Nước nổi nơi nầy, nhớ gió U Minh
Điên điển bông vàng nhớ tràm bông trắng
Mắm Châu Đốc hương vị còn sâu đậm
Than đước Cà Mau âm ấm nỗi lòng  !

Hơn ba mươi năm, dấu bụi mù tăm
Nhưng dĩ vãng vẫn còn trong hơi thở
Cầu quay đó cũng một lần bỡ ngỡ
Mắt nhìn nhau, thương nhớ đến bây giờ !

Cà Mau em, là nét đẹp trong thơ
Châu Đốc tôi, dòng phù sa bồi mãi
Có thổn thức mới thấy lòng trống trải
Có xa quê mới thấu hiểu bao điều !

Châu Đốc, 1989

Monday, March 4, 2013

thơ H Ả I P H Ư Ơ N G

  
L ụ c B á t C h o Q u e e n

Queen ơi
ta thưởng thức
em
bên trên
bên dưới
hai bên
bên nào
cả hồn xác
trộn chiêm bao
cả xưa
sau nữa
lạc vào thiên thu .

Bởi vì
trời đã sương mù
đất ơi
đất hẹn
trùng tu địa đàng .

Một ngày
nhật thực sáng trăng
thơ ta nguyệt thực
đêm vàng
hồng nhan .

Queen ơi
ta ở với nàng
một thiên thu với
rộn ràng
đời nhau .

Bức tranh tươi rói
sắc màu
là hồn biển đã
ruộng dâu
xanh rì .

Khi ở Sillicon Valley
Tháng giêng 2013
H A I P H Ư Ơ N G

m ù a t h u h o a v à n g *
cho Queen

chúa nhật này trẫm không đến được
khanh có buồn lên mắt lên môi
trời nắng phía hiên trường nội trú
có hanh vàng lên mái tóc rẽ đường ngôi

xin mượn hồn thu cho hoa cúc nở
cốc nước đầy làm giếng mắt trong
cần chút thời gian kết khung cửa sổ
cho hoa vàng cho hoa vàng cùng thi sĩ yêu nhau

chúa nhật này anh không đến được
xin đừng buồn mái tóc úp vô
mùa thu năm ni hoa vàng hơn trước
trời cho anh làm thi sĩ hát bi bô

lại muốn giận hờn anh nữa đó sao
để nhớ để thương mái tóc úp vào
làm con gái vô tình thường kiêu hãnh
thả xuân thì thời tiết mỏng bay cao

thôi để mai này anh sẽ đến
năm ngón tay làm một dòng sông
năm dòng sông xuôi về một bến
xuôi về xuôi về một ngả biển mênh mông
thôi để mai này anh đến
anh đến rồi hờn giận cũng như không

chúa nhật này trẫm không đến được
khanh có buồn lên mắt lên môi
mùa thu năm ni hoa vàng hơn trước
khanh làm hoàng hậu không lên ngôi

*trích tập thơ Tuổi Tình Yêu của Hải Phương ,Queen xuất bản ,Saigon VN ,1964
Tập thơ này thi sĩ Thành Tôn mua ở chợ sách saigon , Thành Tôn viết :
‘’Sau quốc nạn đốt sách , bị bỏ tù về , sưu tập lại 9 / 9 /1986
Thân tặng lại tác giả Hải Phương, ở Mỹ quốc 10 /18 /2011 ‘’

H Ả I P H Ư Ơ N G

Sunday, March 3, 2013

TRẦN VẤN LỆ * đường lên núi rừng chập chùng



Đầu năm, nắng mới, cảnh quan đâu cũng đẹp.  Biển đẹp,  Núi đẹp.  Sông đẹp.  Cả những con đường mòn cũng đẹp.  Chúng ta đi xa hơn những nơi đang trước mặt chúng ta, được không?  Được chớ gì!  Ai cấm mình đâu nào…
Bạn nhé, chúng ta đi lên núi chơi!  Đường lên núi rừng chập chùng…Chập Chùng hay Trập Trùng?  Chập Chùng nghe hay hơn.  Cái gì hay, đẹp, chúng ta nên hưởng, trăm năm nào có bao lăm!  Nhưng mà Kho Tàng Thiên Nhiên vô tận, không ai giành giật hết của ai…Chúng ta không nên ích kỷ!
Mời bạn đọc bài thơ này…coi như bước khởi hành:

Vợ Chồng Đi Chợ Xuân

Núi rừng xa mờ xanh với xanh
Đường non như lưng rồng uốn khúc
Vợ ngồi lưng ngựa vợ đi trước
Chồng nắm đuôi ngựa chân theo nhanh.

Vợ chồng xuống núi đi chợ Xuân
Sương sớm còn che như lấp lối
Vó ngựa cuốn nhanh chồng ríu chân
Vợ thương dừng cương ghìm ngựa lại.

Một dãy rừng mai hoa ướt sương
Đường Xuân đưa vợ chồng xuống núi
Váy vợ phồng căng đầy gió đồng
Đuổi theo vó ngựa mỏi chân chồng.

Vào chợ đổi hang mua vải muối
Mắt đưa nhìn quanh thấy rượu nồng
Chồng ghé vào hang say mấy chén
Vợ bán mua xong dắt ngựa đến.

Thấy chồng dim mắt cười nắng Xuân
Ngã nón tu lờ đưa chồng gối
Xòe quạt bên chồng vợ phe phẩy
Chen chân trong chợ người đi lại.

Rực rỡ đường thêu vòng bạc rung
Gió mát nằm lâu chưa hết say
Nâng chồng lên ngựa chất hang đầy
Vợ đi thong thả theo sau ngựa…

Về núi tay cương chồng lỏng tay…

Bài thơ trên, Vợ Chồng Đi Chợ Xuân, là một bài thơ rất dễ thương của Bàng Sĩ Nguyên, quê Hà Nam, sinh năm 1925, không biết hiện nay, năm 2013, còn sống hay đã khuất.  Dù gì thì bài thơ này sẽ còn mãi…Bàng Sĩ Nguyên là một người tài hoa, vừa là thi sĩ (đã có bảy tập thơ), vừa là văn sĩ (đã có hai truyện dài, ba truyện ngắn), vừa là họa sĩ (có hơn một lần triển lãm tranh).  Tôi không “rành” lai lịch của Bàng Sĩ Nguyên, nhưng tôi biết Bàng Sĩ Nguyên là người miền Bắc của nước Việt Nam mình, Bàng Sĩ Nguyên sinh hoạt trong vùng cai trị của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đối đầu với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.  Sau 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa bị xóa sổ, những tác phẩm miền Nam người miền Bắc mới có và ngược lại những gì người miền Bắc làm ra xinh xắn thì người miền Nam tiếp thu vui vẻ.  Tôi gọi bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một bài thơ xinh xắn.  Nó không chỉ là trang chữ mà nó còn là bức tranh.  Chữ là tiếng nói, là sự thuyết mình lọt vào lỗ tai người.  Tranh…không cần mở mắt nhìn mà thấy khi mình nhắm mắt và tưởng tượng, thì đó cũng là một bức tranh sống động vậy.  Dân tộc mình, Kinh hay Thượng, người Miền Xuôi hay Mạn Ngược, Bắc hay Nam…đều “ấn tượng” cả!

Sẵn đây tôi cũng xin có chút ý kiến về Người Kinh / Người Thượng, Người Miền Xuôi / Người Mạn Ngược.  Người Kinh / Người Thượng là cách phân biệt đồng bào mình ở miền Trung, nơi đặt Kinh Đô Triều Nguyễn, Thần Kinh / Huế.  Thần Kinh là Kinh Đô Đẹp Đẽ, các Vua triều Nguyễn ở đây từ năm 1802 khi vua Gia Long lên Ngôi.  Chúa Nguyễn còn lại để nối dõi duy nhất sau cuộc chiến Trịnh Nguyễn Phân Tranh là Nguyễn Phúc  Ánh.

Cuộc chiến Phân Tranh kéo dài suốt 400 năm, cậu bé Nguyễn Phúc Ánh là người của Tộc Nguyễn duy nhất sống sót (Phúc chớ không phải Phước nha, Phúc và Phước viết và nói khác nhau để phân biệt Vua và Dân –  dân nói nói với nhau thì Phước, khi nói về Vua phải là Phúc, một cách kỵ húy).  Chúa Nguyễn Phúc Ánh vừa chạy trốn quân Tây Sơn, vừa mở mang bờ cõi.  Vào Ninh Thuận, Bình Thuận trà trộn với người Chiêm Thành rồi lấn lướt họ, đồng hóa họ, gọi họ là Người Thổ, tức Dân Bản Thổ, Bản Địa, không phá hủy phong tục và truyền thống của họ.  Cũng thế khi vào Nam, qua Biên Hòa, xuống Định Tường, lên Châu Đốc, ra Sóc Trăng, Trà Vinh…hòa đồng với người Thủy Chân Lạp (một dân tộc anh em / cùng huyết thống với dân tộc Thượng Chân Lạp, tức là người Khờ Me trên vùng cao (ngày xưa ta gọi Cambodge là xứ Cao Mên rồi Cao Miên, nằm trong ý nghĩa của chữ Cao Man – bọn rợ ở vùng cao, Man là Man Di).  Vua Sihanouk của Cambodge (tên nước do Thực Dân Pháp đặt) gửi văn thư ngoại giao yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải nói đúng tên nước láng giềng của Việt Nam Cộng Hòa là Cambodge, không được dùng chữ Cao Miên nữa; năm 1975, Pol Pot bỏ chữ Cambodge đổi lại là Kampuchea, thời Hunsen bây giờ thì nước này tên là Cambodia viết theo lối Mỹ)  Người Miên ở trên nước ta không thích về sống với người vùng cao, họ nhận là Người Thổ như người mình gọi họ và bây giờ thì là Người Khờ Me Kờ Rôm, coi như một Bộ Tộc Miên có truyền thống và tập tục địa phương riêng như hồi xưa….  Các Vua Nguyễn không chủ trương đanh phá để cướp đất của các dân tộc miền núi dãy Trường Sơn, họ, những dân tộc Gia Rai, Kờ Ho, Mờ Nông, Mạ, Chu Ru, Sì Tiêng… tự động xin triều đình Huế cho họ sống bình yên và triều cống hàng năm.  Vua Nguyễn, kề từ Minh Mạng đồng ý, và gọi họ là Người Thượng – dân trên núi, phân biệt với dân đồng bằng nằm trong quản lý của triều đình thì gọi là Người Kinh.  Ở miền Bắc, dân tộc nào sống yên theo dân tộc đó, tuyệt nhiên không có xích mích gì.  Người đồng bằng, tức vùng châu thổ sông Hồng, ở miền xuôi thì là Người Miền Xuôi.  Đi ngược lên thì gặp người Mèo (nay là Hờ Mông), người Thái, người  Dao…Riêng người Nùng, gốc là người Tàu (bọn Rợ Hán phía Bắc nay tự xưng là Trung Quốc) đói quá tràn xuống đất nước ta, sống riêng và dân ta gọi là Người  Nùng, nay gọi là Người Tày, bọn này có thời đánh phá triều Nguyễn, thời Minh Mạng, Tự Đức, cầm đầu là Nông Văn Vân, về thời hậu Tự Đức thì có Giặc Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu.  Dân đồng bằng miền Bắc, đông nhất thì gọi là Người Miền Xuôi, theo triều đình Huế, không gọi là Người Kinh.  Người sống trên miền núi, Trung Du và Thượng Du thì được gọi là Người Mạn Ngược.  Người Pháp thì gọi họ là Người Thiểu Số.  Hiện nay tất cả dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam thì đều là Người Việt Nam, tuy nhiên mỗi miền Người có Sinh Hoạt Riêng tùy theo Mùa Màng và Lễ Hội, chính quyền Trung Ương không can thiếp mà chỉ giúp đỡ, khuyến khích…hay chấp nhận cho qua biền!  Cũng là một cách “mị dân”!

Nhân “tào lao xịt bộp” chỗ này, tôi cũng muốn bày tỏ thêm cái chuyện Lạc Long Quân buộc vợ là Âu Cơ chia bầy con, nửa theo Lạc Long Quân ra biển, nửa theo Âu Cơ lên núi.  Bầy con theo Lạc Long Quân thật lộn xộn, nay hòa mai nghịch, chiến tranh triền miên, trong khi bầy con theo Âu Cơ thì hòa thuận, ai lo phận nấy, không tranh giành cãi cọ (ngoại trừ Người Nùng gốc gác bền Tàu).  Người mình rất yêu kính bà Âu Cơ, từng gọi Bà là Bà Chúa Ngàn, lạ thay Bà Hiền Từ thế lại không được sử sách ghi là Đức Mẹ Âu Cơ, chúng ta khiếp nhược quá ư? Chúng ta chỉ gọi mẹ Maria, mẹ của Chúa Giê Su là Đức Mẹ thôi, chúng ta Vọng Ngoại đến thế à?  Ngộ nhỉ!

Hiện tại, theo thống kê thì dân tộc ta đang sống chung nhau gồm có sáu mươi ba Dân Tộc, thế là gần đủ Một Trăm tức Nòi Bách Việt.  Chúng ta qua Lào, qua Thái, lên Miến Điện xuống Malaysia, sang Indonesia…vẫn thấy có người nói một phần nào tiếng Việt và phong tục hao hao người Việt, hỏi ra thì tổ tiên họ di cư từ xưa, từ trên xuống, từ Tây qua…Vậy là…ta có đủ Một Trăm Dân Tộc rồi nhé! 

Tôi có hồi ngạc nhiên, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, thấy một phái đoàn người Xiêm, tức là Thái Lan, sang thăm Việt Nam gọi là Giao Hảo, ghé Tùng Nghĩa, phía Nam cách Đà Lạt 27 cây số, nơi tập trung người Thái di cư nắm  1954, nói chuyện với người mình thật rôm rả bằng tiếng Thái và cât cho đồng bào mình ở đây một ngôi chùa, nay vẫn còn, gọi là Chùa Thái.  Té ra người Thái ở Thái Lan và người Thái ở Việt Nam cùng một tiếng nói, là cùng “Một Mẹ Mà Ra”!  Dễ thương ghê nơi phải không bạn?

*

Thôi, dài dòng quá không khéo lòng thòng lượt bược, tôi trở lại bài thơ hồi nãy…Bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên là một Bài Thơ Hay.  Hay ở chỗ nó không phải là bài thơ Rất Thơ (như bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu hay bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm) mà nó hay ở chỗ Mộc Mạc, Dung Dị - thấy sao thì nói vậy, nghĩ sao thì tỏ bày như vậy, không màu mè, không đẽo gọt.  Đây là một bài-thơ-hình-ảnh.  Nó là một Cảnh Sinh Hoạt hơn là bài ca du dương…Nó cho ta thấy cách sinh hoạt của đồng bào mạn ngược ra sao, cái hiền hòa của họ và cái Tình Yêu Tuyệt Vời…không ảnh hưởng game hay computer chút nào… 

Một bài thơ lồng khung một Thiên Đường Hạ Giới, ta tu ngàn đời chắc chi có được (bởi ta không có Tình Yêu Chân Chính, không có Niềm Mơ Ước Hồn Nhiên).  Cũng sợ lắm nếu mai kia mốt nọ mà trên núi non ta có những phi trường, có những bến xe, và đường núi có nhiều xa lộ, liệu cái Văn Minh Miệt Vườn có còn không đây?  Cái cảnh Chồng thương Vợ để vợ trên ngựa kẻo vợ mỏi chân, cái cảnh Vợ thương Chồng phe phẩy quạt cho bay hơi rượu cho chồng ngủ ngon, tìm đâu ở Người Kinh nhỉ!  Ở Người Kinh:  gây lộn và gây lộn!  Cãi nhau và cãi nhau!  Có theo đạo Thiên Chúa thì cũng cứ ly dị đếch sợ…ông Vua nào!  Do đó mà chiến tranh và chiến tranh!  Do đó mà chỗ nào cũng là chốn Gió Tanh Mưa Máu!

Bàng Sĩ Nguyên làm thơ tưng tửng thế mà không chê được.  Có lẽ nhà thơ để hết cái tình mình vào thơ?  Để hết tấm lòng mình vào thơ?  Ôi Thơ là một cái Nhà Kho chưa cái Tình và Tấm Lòng người ta…đã là nên Thơ rồi.

Tôi “khen” bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên, mong bạn đọc đọc bài tôi viết đây cũng nên nhất trí cho tôi vui với.  Đừng đọc bài thơ của Bàng Sĩ Nguyên rồi bĩu môi, miệng nhai ngấu nghiến mấy câu của Trần Thy Nhã Ca nhen:

Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ!

*
Tôi hoàn toàn không bình phẩm bài thơ Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên theo cách của nhà phê bình nào.  Bởi bài thơ đó quá dễ thương, tôi muốn nhân đây mời bạn đọc thêm vài bài khác…để thấy thơ nói về rừng núi rất là đáng đọc.  Đường lên núi rừng quả thật chập chùng…

Đây, hai bài “duy nhất” của Đỗ Hữu.  Gọi là Duy Nhất vì có-một-không-còn-hai…lần để thấy Đỗ Hữu khoe thêm thơ của ông.  Đỗ Hữu chết rồi, chắc chết đâu hồi cuối thập niên 1940 của thế kỷ trước. trong cuộc chiến tranh Đông Dương… nếu Bùi Giáng không gom nhặt được thì chúng ta mất đi hai bài thơ rất là dễ thương! 
 
  
Đây này, thưa bạn đọc:


Sầu Ai Lao

Đỗ Hữu



Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa nguồn thác đổ đá mù sương.

Giữa ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây trời bàng bạc sầu Ai Lao.

Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!

Ở đây hơi đá chiều vây khắp
Khép chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng.

Người có theo tôi lên dốc nắng
Nhìn xem hoa rải sắc trên đường
Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng.---

Và…

Chiều Việt Bắc
Đỗ Hữu

Nắng xuống phương nào người thấy không?
Mà đây chiều tím rụng song song
Vàng tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai liệm hoàng hôn kín mắt trong?

Khói thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương xa chiều xuống ngút sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng?
Trở bước hoa lau trắng ngập đồi.

Con đường đất đỏ mờ sau bản
Thung lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ phận tàn xiêu…

Rừng núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi cũ nằm nghe gió dặm trường…

*
Hai bài thơ của Đỗ Hữu không dính dấp gì tới bài Vợ Chồng Đi Chợ Xuân của Bàng Sĩ Nguyên, sở dĩ tôi đưa vào đây là…đổi món ăn tinh thần đãi bạn đấy mờ.  Nhưng bài nào thì cũng là Đường Lên Núi Rừng Chập Chùng…Những ngày Tết sẽ không bao giờ chấm dứt khi chúng ta cứ còn gần gũi nhau!  Bạn ơi, hãy nhìn ra bầu trời xem kìa, nắng Xuân rất đẹp.  Những bài thơ tôi mời bạn hôm nay với mỹ ý của tôi muốn bạn thấy tôi là người-có-ích ít nhất cũng cho một thiểu số người-còn-yêu thơ!
Hãy mở lòng ra, ta có Tết.  Hãy mở lòng ra, ta với Xuân!

Trần Vấn Lệ


Nguyễn Văn Lục * Đã một thời như thế: Hiện tượng Phạm Công Thiện

Phạm Công Thiện


Ông Phạm Công Thiện vừa mới qua đời ngày 8 tháng 3, 2011 trong một tình trạng thể xác mà theo gia đình “ông mệt dần, bắt đầu nhập định và ra đi nhẹ nhàng”.

Theo nguyện vọng cuối cùng của ông thi sĩ Phạm Công Thiện, ông muốn “không làm tang lễ rườm rà, chỉ hoả thiêu".

Đỗ Hồng Ngọc * Thư gởi bạn xa xôi



Tình cờ thôi, Phan Đổng Lý (PĐL) ở Melbourne gởi về tặng mình một bài thơ, có tựa là Hành Y (viết cho Đỗ Hồng Ngọc) trùng với ngày Thầy thuốc Việt Nam. Trùng hợp vì PĐL không hề biết ở VN có một ngày Thầy thuốc như thế. PĐL là bạn bọn mình từ 60 năm về trước, lúc cùng vào đệ thất (lớp 6) Phan Bội Châu Phan Thiết- À, mà chưa, mới 59 năm thôi, vì đó là năm 1954- Không biết PĐL đã “gieo trồng” mầm thơ thế nào mà bây giờ tuổi trên 70 bỗng nổi hứng làm thơ “vịnh” bạn bè, mà bài nào cũng… hay, cũng bộc lộ “bản sắc” của từng đứa!
Phan Đổng Lý có bài thơ “vịnh” Phan Bá Thụy Dương chỉ bằng vài nét chấm phá đủ cho thấy một Phan Bá Thụy Dương khinh bạc, ngang tàng, tài hoa:

Trích tiên tại thế, vấy bụi trần hụp lặn kiếp đam mê!
Nay quỳnh tương đối ẩm, mai hương sắc giao kề
Lỡ ngồi ôm góc núi, mỉm môi cười nhân thế
Ánh dương quang rực rỡ, sao lại lạc đường về?
…………..

Rồi bài thơ PĐL “vịnh” Trần Vấn Lệ, thấy ngay một chàng thi sĩ hào hoa phong nhã, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”:
………..
Ta vốn mịt mờ đường về bến cũ
Nên thuyền tình lơ lửng mãi dòng sông
Ta nào phải kẽ thả mồi bắt bóng
Mệnh an bài nên tình kiếp long đong

Và bài thứ ba, dành cho bạn bè, PĐL ưu tiên “viết cho Đỗ Hồng Ngọc”. Nói ưu tiên vì các bạn người ở Mỹ, người ở Úc, thỉnh thoảng gặp nhau, đầu này, với Đỗ Hồng Ngọc, đã gần 60 năm chưa hề biết mặt, thế mà “thần giao cách cảm”, đọc văn thơ thấy rõ con người. Có lẽ PĐL nhớ Đỗ Hồng Ngọc qua tập thơ “Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác” mà Trần Vấn Lệ bảo khi đọc “…vui vì nghe trái tim mình đập”. PĐL nghĩ đến cuộc đời “hành y” của người bạn thầy thuốc của mình từ y đạo vào tâm đạo. Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân / Mang y đạo vào luân hồi chuyển thế .

HÀNH Y
(Viết cho Đỗ Hồng Ngọc)

Là một kẻ phụng thừa y đạo
Mang huyết tâm trả nợ nhân sinh
Nhìn thai nhi tượng hình trong bụng mẹ
Ta thấy được gì trong cõi u minh

Tiếng u oa, em chừng vừa tỉnh giấc
Mang vào đời chút âm vọng bi ai
Mắt ngấn lệ em nhìn quanh ngơ ngác
Nợ tiền thân có trĩu nặng bờ vai

Ta nhìn em lòng bâng khuâng thương cảm
Mai đây rồi xuôi ngược biết về đâu
Đường vạn lý ta chúc em nhẹ bước
Có hoa vàng nắng rải, ngợp trăng sao

Ta nào phải kẻ bi quan yếm thế
Chỉ xót thương cho tuổi trẻ bạc phần
Vòng tay ta đã bao lần ôm ấp
Những mãnh đời, ôi, ngắn ngủi mệnh căn!

Ta chọn hành y, cứu nhân độ thế
Ta độ được gì, đã cứu được ai!
Đêm chập chờn ta nằm đợi ban mai
Ngày thoi thóp ta lại chờ đêm xuống

Ta đã lớn lên giữa thời lửa loạn
Gió bụi mịt mù Nam Bắc phân ranh
Tim quặn thắt trước cảnh đời tang tóc
Hồn đớn đau cho thân phận Lạc Hồng

Ta vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Nhưng đầu xanh nào đã tội tình gì
Một chữ Nghiệp có vơi niềm oán khí
Một hồi Kinh có dịu nỗi sầu bi

Ta đã một lần rong chơi địa phủ
Cầu Nại Hà, nhìn sóng gợn lăn tăn
Tâm tĩnh lặng giữa hai bờ sinh tử
Hồn nổi trôi theo con nước bập bềnh

Một kiếp nhân sinh chưa tròn cuộc nợ
Ngày tiếp ngày cười khóc với thế nhân
Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân
Mang y đạo vào luân hồi chuyển thế .

Phan Đổng-Lý
Melbourne Feb. 2013

phandongly

PĐL quá dễ thương phải không. Xa xôi ngàn dặm vậy mà hiểu bạn mình như đi… guốc! Nhưng mình ấn tượng nhất với PĐL là cái tính bộc trực, đôi khi có vẻ như “ngổ ngáo” mà trong lòng tràn đầy cảm xúc của anh. PĐL có lần thư cho Phan Bá Thụy Dương kể chuyện hồi đi học, anh rất ghét thầy Hiệu trưởng LT “ gặp mặt thì làm ngơ” nhưng với cô con gái của Thầy thì anh “gặp mặt mê mẩn ngó theo”. Cái đó anh gọi là “Thù cha mà không ghét con”! Cô bé đó vào trường sau bọn mình vài năm thì phải, nay chắc cũng đã 70 nhưng kiểu này gặp lại, có khi PĐL vẫn còn ngó theo mải miết chớ chẳng chơi! Phan Bá Thụy Dương còn kể cho mình và Huỳnh Ngọc Hùng nghe chuyện hồi đó mỗi lần chào cờ hát bài “Suy tôn” thì PĐL đã sửa lời thành: “PĐL, PĐL muôn năm!” rồi còn hát to lên nên bị thầy bắt phạt!…

*****
Chiều qua ghé thăm nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, con cụ Ưng Bình Thúc Dạ Thị. Nhà thơ Hỷ Khương đột nhiên bị điếc tai phải,  không còn nghe gì được nữa, phải đi bệnh viện Tai Mũi Họng truyền thuốc mỗi ngày, lại vừa châm cứu, kết hợp đông tây y!
Mình đùa cho chị vui: Trời cho mình có 2 tai, điếc tai phải còn tai trái. Vui lên mới phải chứ! Ai nói gì dễ ghét thì đưa tai phải ra nghe. Ai nói gì dễ thương thì đưa tai trái ra nghe. Càng hay chớ sao!
Tôn Nữ Hỷ Khương có nhiều thơ, nhưng mấy câu này thì được rất nhiều người nhớ:

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời!

Phải, chỉ có tình thương để lại đời thôi. Và bạn bè mà còn gặp nhau, dù trên văn thơ cũng đã tốt quá rồi phải không?
Hẹn thư sau,
Đỗ Hồng Ngọc.

Saturday, March 2, 2013

TRẦN VĂN SƠN * TRẦN PHÙ THẾ: CÂU THƠ GỌI TÌNH NGỌT NGÀO HƯƠNG VỊ PHÙ SA MIỀN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỮU LONG

tranphuthe
  
 Nhà thơ Trần Phù Thế được nhiều người biết đến ở hải ngoại sau khi anh xuất bản hai tập thơ : Giỡn bóng chiêm bao [ 2003 ] , Gọi khan giọng tình [ 2009 ] , những bài thơ đăng

trên các báo Khởi Hành , Văn Hóa Việt Nam , Thư Quán Bản Thảo …  và trên các trang báo điện tử như : Sáng tạo , Da màu , Phố Văn… Anh còn phụ trách trang thơ trên tuần báo Tuổi Trẻ ở Dallas – Texas .

hoànglonghải * hít hà con Chắt Chắt!!! ...

                                                                 VÀI LỜI

Tôi vốn dốt môn sinh vật, cứ tưởng con hến cũng như chắt chắt thuộc loài “giáp xác” như tôm chẳng hạn vì nó có vỏ. Tra tự điển mới biết chúng nó thuộc lài nhuyễn thể có hai miếng vỏ, thuộc bộ Veneroida, xuất hiện nhiều nơi trên mặt địa cầu, kể cả Nam Mỹ, châu Đại Dương và châu Phi đen.

Có điều lạ, dân các xứ ấy cũng “đói” không khác gì dân Việt Nam ta, họ cũng dùng loài nhuyễn thể nầy làm thực phẩm, nhưng không biết chế biến để làm thành những món ăn ngon như ở nước ta. Không ít người ngoại quốc biết món cơm hến, nhất là những “ông, bà” nào đã đến du lịch Huế. Tiếc một điều, con chắt chắt không thấy xuất hiện ở Huế nhiều, nên Huế chỉ có cơm hến mà không có cơm chắt chắt.

Là món ăn của người bình dân, tôi không thấy con hến hay con chắt chắt xuất hiện trong văn chương bình dân như tục ngữ, ca dao. Món nầy không “gợi hứng” cho các nhà thơ của miền ruộng rẫy hay sao?

Nếu có ai biết, xin chỉ giùm.

Đa tạ


Sông Thạch Hãn cũng như Hiếu Giang là những con sông già, bờ sông không sâu hẳm, lẫn lộn cát với bùn, là nơi sản sinh loại chắt chắt và hến, không nơi nào bằng. Vì vậy, nói tới con chắt chắt, các vùng khác thì mù tịt, nhưng dân Quảng Trị thì lại rất rành. Rành ăn canh chắt chắt và cũng rành “chế biến”, nhứt là kể từ khi “Nhậu để khói sầu lên chất ngất” (NBS). Chiến tranh, đời lính, chết chóc, nghèo khổ sau chiến tranh, nhậu trở thành một “vũ khí chiến lược tiêu cực” để chống lại đói nghèo, vô vọng...

Canh chắt chắt nấu với rau muống hay khế hoặc bầu, thường có nhiều gừng. Gừng là một dược liệu chống hàn, vì con chắt chắt thuộc “giống hàn”. Hàn dễ gây đau bụng - đau bụng chớ không tháo dạ, không thuộc loại “tào tháo đuổi”. Người ta con bảo con chắt chắt sinh ở bùn. Rửa không sạch bùn, canh chắt chắt dễ làm đau bụng. Cũng để bớt mùi bùn, canh chắt chắt phải nấu cay. Trẻ con không ăn cay được thì bên đọi (bát) canh phải có chén nước mắm ớt. Ớt chìa vôi giả dập với nước mắm, nếu nhà giàu, nhà nghèo giả ớt với muối hột.

Mùa hè, gió Lào (còn gọi là gió Nam, “may được nồm nam cơn gió thổi” Nguyễn Khuyến) - nóng nực, buổi chiều ăn cơm với canh chắt chắt là món ăn giải nhiệt “siêu đẳng” của “Quảng Trị tui nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Dọc theo bờ sông Thạch Hãn và sông Hiếu, nhiều làng có nghề cào chắt chắt, nhưng nhiều nhất là làng An Giạ, phía dưới ngã ba sông Hiếu và sông Thạch gặp nhau, gần cửa Việt. Gần tới biển nên nước sông không mặn mà cũng không còn ngọt, thường gọi là vùng nước lợ. Nước lợ là nơi “định cư” của loài chắt chắt, không muốn sống nơi “biển mặn”. Đó là nơi hội tụ của bùn và cát, cũng là nơi hội tụ của hàng triệu con chắt chắt cống hiến cho dân quê xứ tôi món canh đặc biệt không nơi nào có.

Đừng lầm chắt chắt với hến. Con hến lớn hơn và cũng nhiều hơn. Cách bán chắt chắt và hến cũng giống nhau. Hoặc bán tươi, từng mớ, để trong rổ, rá, hoặc bán chín. Một đầu gánh là rổ hến đã “trơi” vỏ, đong bằng loon hay chén, đầu kia là hủ đất nung, đựng nước hến. Cái (con chắt chắt hay con hến) mà không có nước thì không ngon vì nước ngọt và mát.

Ở Quảng Trị người ta không bán cơm hến, nhưng Huế thì khá nhiều. Cơm nguội đựng trong chén. Cơm thì ít, hến thì nhiều, thêm rau thơm, bắp chuối xắt lát... Nhiều nhứt là ớt. Ớt rất cay. Người miền Nam đến Huế còn không dám ăn bún bò, huống chi cơm hến cay hơn bún bò nhiều.

Làm ruộng là nghề chính của nông dân, cào chắt chắt hay hến là nghề phụ, chỉ làm mùa hè, là mùa sản vật sinh sôi nảy nở nhiều. Gọi là cào vì người ta dùng cào để bắt chắt chắt hay hến. Dĩ nhiên, cái cào có hình dạng như cái cào, khoảng cách của răng cào nhỏ hơn, nên khi cào, cát bùn thì lọt qua răng, còn con hến hay con chắt chắt thì bị giữ lại.

Chắt chắt, hến sinh sống dưới mặt nước, từ chỗ trên mắt cá đến bụng, ít khi ngang tới ngực. Người cầm cào thường đi lui, cào lui nên người ta thường nói đùa câu “ăn tới làm lui”. Buổi sáng, đàn ông con trai có khỏe thì ra cào chắt chắt, hến. Trong khi các mẹ các chị thì gánh hàng lên bán ở các chợ như Đông Hà, chợ Sòng, chợ Thuận, chợ Sãi và chợ Quảng Trị (thị xã), sau khi đã ngâm nước giếng, lọc gạn sạch cát, đá, bùn...

Những nhà khá giả thường dùng bánh tráng nướng, bẻ thành miếng xúc chắt chắt hay xúc hến mà ăn. Bánh tráng nướng thường là loại bánh tráng mè, dày. Chắt chắt hay hến thì xào với “tóp mỡ”, hành Tây và ớt xắt lắt mỏng, theo chiều dọc của trái ớt.

Chắt chắt là món ăn của người nghèo, bình dân. Vua quan và nhà giàu có không ăn món “quê mùa” nầy bao giờ. Tuy nhiên, có người nói vua Thiệu Trị rất thích canh chắt chắt “hiện diện” trong mâm “ngự thiện” của vua. Có gì đâu! Khi còn trẻ, chưa nối nghiệp vua cha, vua Thiệu Trị thường hay “ra chơi” Quảng Trị, nên cũng đã có lần “thời” món ăn dân giả nầy. Té ra, vua của ta cũng “quê” chớ không “sang trong phú quí cao lương mỹ vị” như các đại gia ngày nay

Xa Quảng Trị, người ta chỉ nhắc lại “món quê” để mà nhớ. Ai đó thèm lắm thì có thể mua vài dĩa “hến xuất khẩu” ở các chợ Việt Nam đem về nấu cơm hến ăn chơi, còn như chắt chắt thì người ta chỉ có thể ăn... hàm thụ mà thôi.

hoànglonghải