huyễn thạch không có một thì
trái đất từ lỡ san di mấy bờ
chỉ còn sỏi cuội ngu ngơ
bên giấc ngủ núi bâng quơ màu trời
bay đi, bay đi rực ngời
hoa còn ở với xanh tươi cỏ mềm
muộn ngày. lẫn búi hương đêm
muộn đời hồ dễ nguôi quên đá buồn
huyễn thạch không có một thì
trái đất từ lỡ san di mấy bờ
chỉ còn sỏi cuội ngu ngơ
bên giấc ngủ núi bâng quơ màu trời
bay đi, bay đi rực ngời
hoa còn ở với xanh tươi cỏ mềm
muộn ngày. lẫn búi hương đêm
muộn đời hồ dễ nguôi quên đá buồn
Có lẽ nào ở cuối cái Fwy 91 ấy, có một khu nhà vườn in hệt những ngôi nhà vườn ở Huế ngày xưa, và chủ ngôi nhà này, là một thanh niên lai Mỹ Việt đang bước vào tuổi trung niên, mẹ anh ta đặt tên cho anh ta là Sâm, từ những ngày còn ở VN.
Bà mẹ Việt của anh vốn sinh trưởng ở quận Duy Xuyên, tên Hường, ngày tôi lập gia đình ở Đà Nẵng, bà đã có chồng trước tôi vài năm, nhưng không có nghĩa là bà lớn hơn tôi, may ra thì 2 đứa bằng tuổi nhau.
Chồng bà Hường là một người trong họ nhà ông xã tôi. Chưa hết tuổi đi lính, nên ông ta xin được vô ngành cảnh sát, để không phải đi tác chiến.
Ngoài thì giờ làm việc ở Ty Cảnh Sát, ông ấy đi tới đi lui quanh đường Độc Lập, đại lộ chính của thành phố Đà Nẵng.
Tại làng kia có một người ăn trộm giỏi. Ông ta có một quy ước “tình làng nghĩa xóm” là đồ ăn thì trộm trong làng còn của ăn của để thì quơ sang những làng khác. Gần hết đời mà ông ta không bị dân làng nhận diện bởi vì quá tài, trong khi gà vịt gia đình ông ta ăn thoải mái, nhà cửa ngày một khang trang, nghe đâu có cả một con trai …làm thơ nữa thì phải và không đứa nào nối nghiệp cha. Ngẫm lại thấy muốn bỏ nghề vì tuổi cũng đã khá cao, làm đạo chích cũng gần hết đời, ông bèn nói thật với người hàng xóm rất nghèo và muốn truyền nghề cho thằng con nhà ấy. Hàng xóm nghe rất ngạc nhiên vì bao lâu sống cạnh đạo chích mà không hề biết. Nhưng suy nghĩ thấy đúng như lời ông ta nói, không làm gì mà sống phong lưu thì chỉ có ăn trộm chứ không thể tham nhũng bởi ông ta đâu có làm quan chức!
bây giờ ngủ chẳng yên gì
bão thưa thớt dậy tuyết bay đầy trời
rừng xanh mộng cũng dần vơi
đã nghe tiếng động gót người bên khe
con chim nằm bụi tung xòe
chiếc lông tơ mịn tan nhòe bóng đêm
với trăng thu nọ ưu phiền
với hai gạc nhỏ trơ tìm hương xa
Hồi nhỏ ông Phan Văn Tôi đã sớm xa nhà thì em của ông, thằng Lộc, mới chừng 3, 4 tuổi. Tưởng mình đi rồi về ai dè một đi không trở lại. Tới khi hai anh em gặp lại nhau nơi xứ người thì thằng Lộc đã có gia đình con cái đùm đề. Điều ngạc nhiên là nó cũng võ nghệ dàn trời như ông thời trai tráng. Có điều so với nó thì hồi xưa ông chỉ là võ sĩ hạng ruồi muỗi; còn thằng Lộc, thằng Phan Văn Lộc với cú đá thôi, cũng đủ liệt nó vào hạng cao thủ.
Khi biết hồi xưa ông anh mình lẹt quẹt ba ngón võ ruồi võ muỗi, thằng Lộc cười cười chìa ra tấm hình kèm theo cái video clip biểu diễn cú đá thần sầu quỷ khóc (quỷ khốc thần hào) của nó. Phải nói cú đá ác liệt của thằng Phan Văn Lộc, không riêng gì cột gẫy, tường xiêu, mà lỡ nó có đá trúng… Trời thì Trời cũng sập.
Đêm qua bắc Vàm Cống,
Mối sầu như nước sông,
Chảy hoài mà chẳng cạn,
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng.
Tôi đi xuống Lục Tỉnh
Để rắc bỏ ven đường
Tài, tâm hồn, kỷ niệm…
Giữ làm gì đau thương.
Cánh cổng sắt mở: Tôi bước vào khu nhà, đi trên con đường đất hẹp rợp bóng mát của vườn cây tuy không rậm rạp nhưng cũng che khuất được ánh nắng gay gắt của những ngày hạ đang trùm chụp lên cảnh vật một sức nóng ngột ngạt và những cơn gió cát nồng héo, khô nám da thịt. Vào trong lối đi có bóng mát, lối đi xưa cũ tình nghĩa, khu vườn mấy năm gần gũi như một cõi thiên đường riêng biệt; tôi cảm thấy nhẹ hẫng người, khoan khoái tưởng đã tới rồi một bến nghỉ êm ấm, thấy rồi một giấc mơ đã ám ảnh bao năm.
Vỗ mạn thuyền hát khúc khổ ca
Năm năm câu mực mũi Kê Gà
Mái chèo tay lái thành ngư phủ
Chiến trận nghinh thù lũ cá ma
Biển gầm sóng dữ vùi thân phận
Neo gốc chà nhớ lúc dừng quân
Lưới cước chì phao thay súng đạn
Tối chong đèn chờ con nước lên