Dương Sen |
Trên tuần báo “Sàigon Times”
vùng thung lũng San Gabriel thuộc địa phận Los Angeles ở
Hoa Kỳ, ta có dịp đọc nhiều lần “Bài Gợi Nhớ Về
Châu Ðốc” của Lâm Hảo Dũng. Bài thơ làm ta nhớ lại
nếp sống dân gian Việt Nam với truyền thống “Cửa
chùa rộng mở cho bá tánh”: đi lỡ đường thì có thể
vào chùa ngủ nhờ một đêm. Và bài ấy cũng có một
đoạn thơ tả rất kỳ diệu con sông Cửu Long bằng cái
nhìn vừa thấm nhuần huyền ảo của đạo Phật vừa
chan chứa lòng yêu mến quê hương. Quang cảnh ngoạn mục
của chùa Tây An ở núi Sam Châu Ðốc đẹp rực rỡ trên
nóc với những tượng rồng quẫy đuôi trong những đêm
rằm. Tác giả tả những con rồng trên nóc chùa, hay tác
giả viết về con sông Cửu Long đi ngang qua chùa rồi tiếp
tục dòng chảy về hướng đại dương. Nếu từ trên
cao, trên núi Sam xa, nhìn về sẽ mường tượng dòng
trường giang hiện ra sau lưng chùa có cái đuôi vĩ đại
nhưng nhỏ dần về phía biên giới Kampuchia:
… Em ở bên kia trời
cách biệt
Mắt buồn vây kín núi Sam xa
Ta như lữ khách không nhà cửa
Ngủ đậu trên chùa mỗi
tháng ba.
… Em khóc dòng sông đó phải
không
Ðêm mơ về thấy chín con
rồng
Vẫy đuôi trên nóc Tây An Tự
Ðón Hội Long Hoa một tối
rằm.
(Trích “Bài Gợi
Nhớ Về Châu Ðốc”)
Khi đã sống định cư ở hải
ngoại, Canada, Lâm Hảo Dũng cũng có nhiều bài thơ nhớ
quê hương đồng bằng sông Cửu Long, đôi khi sử dụng
phương ngữ Nam Bộ. Lâm Hảo Dũng đóng góp thơ cho “một
vùng trọng điểm hoài hương”
của các giai đoạn “di tản-vượt biên-định cư”. Các
“vùng trọng điểm
hoài hương” khác,
người viết bài này đã có đề cập đến trong Giai phẩm
Xuân nhật báo Người Việt năm 2006. Xin lướt qua vài câu
thơ nhớ Nam Bộ khi ở Canada của Lâm hảo Dũng:
… Phó thường dân thích
giăng câu đặt trúm
Thích lai rai nghe gió mới se
buồn
Ngủ dật dờ bên xáng múc
chiều hôm
Ðời trôi chậm hay nhanh chàng
bỏ mặc…
(Trích bài “Tôi
Chỉ Muốn Làm Phó Thường Dân Nam Bộ”)
Chỉ với bốn câu ấy thôi mà
ta đã nhận ra tác giả đưa vào phương ngữ “lai
rai”, và nhắc đến
đặc thù ở Nam Bộ như “xáng
múc, đặt trúm”, và
có cả cách nói mới của ngôn ngữ hàng ngày gần đây,
như “phó thường dân”.
Vậy có thể nói tình hoài hương hướng về trọng điểm
đồng bằng sông Cửu Long là một khía cạnh hiện hữu
trong thơ Lâm Hảo Dũng; cũng khá dồi dào như khía cạnh
vui buồn đời sống định cư ở Canada. Ðoạn thơ dưới
đây nhắc nhở ta cũng nên kể khiá cạnh “hải ngoại”
ấy trong thơ của ông:
Tám năm rồi không thể
Quên đi chuyện tình buồn
Nên một ngày tháng chạp
Em đi về Việt Nam
Tôi ngồi đây đếm tuổi
Giữa đêm dài cô đơn
Tám năm nào biết được
Em vẫn còn xa tôi
Như ngàn năm mây trắng
Quên mất một khung trời…
(Trích bài “Chuyện
Tình Buồn Cuối Ðông”)
Nhưng khía cạnh trọng điểm
hoài hương ấy và khía cạnh đời sống hải ngoại ấy
có lẽ trùng lập với nhiều nhà thơ khác, không tạo nên
một lãnh vực riêng biệt, không độc đáo như thời
chiến vùng Tam Biên trong thơ Lâm Hảo Dũng. Thời chiến
trước 1975, nhà thơ đồn trú ở Tây Nguyên, rõ hơn nữa
là thuộc đơn vị pháo binh tại vùng ba biên giới
Việt-Miên-Lào. Ðịa danh những cứ điểm quân sự một
thời nghe danh trong tin tức thời cuộc, rải rác trong thơ
của ông. Nhưng khói lửa trong thơ Lâm Hảo Dũng không
được nhà thơ mô tả chi tiết trận đánh nào rõ nét;
chỉ là kể lại những mất mát bạn bè; kể lại kết
quả khi tàn trận; nên không phải là những biểu hiện
cụ thể và trực tiếp. Trái với hừng hực khói lửa,
ta chỉ cảm thức mênh mông của rừng núi; “hiu
hắt gà khuya gọi sáng rừng” (thơ
LHD);
mưa dai dẳng buồn nơi đồn trú; sương và mây mù luôn
luôn có mặt tại những cao điểm xa cách nhìn xuống miền
xuôi; gơị tò mò với các địa danh nghe thật lạ tai do
phiên âm từ các ngôn ngữ dân tộc. Những địa danh này
dần dần cũng hết lạ tai khi mà chiến sự cứ mãi đề
cập đến chúng trong bối cảnh thời chiến có con đường
mòn Hồ Chí Minh:
Những ngày ở Dakto
Anh không biết gì hơn
Ngoài cơn mưa mù tháng sáu
… Ðang đốt đời trong cao
điểm đó
Bao giờ thấy lại ngọn Chư
Pao?
… Những trưa quán cốc nhìn
mưa xám
Còn thấy mây mù đỉnh Ngok
Long
… Một mai về lại Tam Biên
đó
Hãy ngắm Poko núi Phượng
Hoàng…
Xin nói nhiều hơn về con
sông Poko mà Lâm Hảo Dũng đã nhắc tới. Sông Poko chảy
theo hướng Bắc Nam thuộc tỉnh Kontum xưa kia, chạy song
song với con đường 14 có nhiều cứ điểm quân sự của
Hoa Kỳ trước đây để ngăn chặn quân xâm nhập từ Bắc
vào có cả xe tăng và cao xạ phòng không. Khi qua khỏi thị
xã Kontum thì sông này chảy lệch về phía Tây làm thành
thác Yali (nay đã xây thành đập nước) và hợp lưu với
sông Xê Xan của Kampuchia đưa nước vào Mekong gần thành
phố Stung Treng. Ta hãy
nghĩ đến một
hồ chứa
nước khổng lồ tại
Yali để đưa nước vào Mekong với sự hợp tác Việt Nam
và Kampuchia và được tài trợ do các Cơ
Quan Phát Triển Á Châu
của Liên Hiệp Quốc.
Phải chăng đây là giải pháp tạo nền hòa bình vĩnh
viễn giữa hai nước; vừa tránh được viễn ảnh chiến
tranh mà một cường quốc nào đó muốn khai thác sự thù
địch lâu đời do lịch sử để lại cho hai quốc gia
láng giềng; vừa giúp cho hai nước có con sông Cửu Long
quanh năm nước ngọt tràn trề. Như vậy sẽ tránh được
tình trạng thiếu nước cho nông nghiệp và kiệt quệ
nghề đánh bắt thủy sản do mười mấy con đập trên
thượng nguồn sông Mekong.
Thơ thời chiến vùng Tam Biên có
lẽ là đề tài riêng cho Lâm Hảo Dũng, dường như không
có nhà thơ nào khác. Tuy không hiếm nhà thơ trước 1975
đề cập thời chiến xứ sương mù vùng cao, nhưng chỉ
chung chung miền Tây Nguyên, hoặc có riêng thì thường là
thành phố Ðà Lạt thơ mộng, hoặc hậu cứ an ninh Pleiku
Buôn-Mê-Thuột. Nhưng Lâm Hảo Dũng lại có cái chung với
họ: nỗi sầu nơi biên trấn, nhớ gia đình, nhớ người
yêu, nhớ người thân, nhớ thành phố hay quê hương xa
cách vì thời cuộc đời lính xa nhà. Tuy là lính tác
chiến, nhưng có mấy khi họ ca ngợi trận đánh nào trong
văn chương; phấn khởi chiến thắng ít thấy trong thi ca.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không có sĩ quan Chính Ủy
để chỉ đạo chính trị cho tinh thần binh sĩ. Ðôi khi
họ có những nét như ngao ngán chiến tranh, nhưng không
phải là chủ trương phản chiến nhằm tác động người
khác. Họ chỉ quy vào chính họ mà thôi, tự cảm thấy
không thích hoàn cảnh đang làm lính biên trấn, hoặc muốn
biểu lộ niềm thương tiếc bạn bè chết trận. Riêng
cho cá nhân, không phải nhân danh chủ trương phản chiến
chống chính quyền đang điều khiển chiến tranh. Họ coi
như bổn phận thi hành quân dịch; mong sao cho mau hết
chiến tranh để về đoàn tụ với những mến thương họ
đành phải ly biệt. Họ từng đợi chờ bao nhiêu năm mà
không thấy ló dạng hòa bình; có một thời ngưng chiến
rồi cũng trôi qua mau:
… Một mai về lại Tam
Biên đó
Sương mỏng như là chiếc lá
bay
Vợ con trong đáy hồn xưa cũ
Nhẹ ngủ êm đềm… nhưng
rất say.
(Trích bài “Một
Mai Về Lại Tam Biên Ðó”)
Ta pháo miền cao theo biệt
động
Ngậm ngùi thấy lại Dakto xưa
Ðâu “căn cứ sáu” mưa
trên xác
“Căn cứ năm” tràn bóng ma
đưa
Ta kể nhau nghe đời chiến
trận
Thằng Nam mất tích ở Nam Lào
Y Uyên bỏ cuộc vài năm trước
Thằng Sự khinh đời cũng
chết mau
Thôi nhé Viêm ơi tàu đã đến
Ta lên Tân Cảnh ghé Kontum.
(Trích bài “Ðêm
Gặp Nguyễn Lăn Viêm Ở Phi Trường Cù Hanh”)
Chiến chinh đời tiếp diễn
Ta còn kiếp dọc ngang
Hẹn ngày mai nắng ấm
Ta xuống phố An khê
Bên tách cà phê nóng
Quên dọc đường hiểm nguy.
(Trích bài “Tháng
Chín Về Mang Yang”)
Vùng chiến sự Tam Biên không
chỉ giới hạn ở các miền đất quanh Pleiku - Kontum- Buôn
Mê Thuột, mà việc quân còn trách nhiệm liên đới xuống
duyên hải tỉnh Phú Yên và tỉnh Bình Ðịnh. Cho nên thơ
Lâm Hảo Dũng cũng đậm nhạt dấu vết vùng miền có
những tháp Chàm xưa cổ. Những tháp này không đồ sộ
như ở Quảng Nam, Nha Trang hay Phan Rang, nhưng cũng đủ gợi
hứng cho Lâm hảo Dũng có những bài thơ về phế tích cổ
tháp và thiếu nữ Chàm. Lâm Hảo Dũng nhắc nhở cuộc
chinh chiến Việt Chiêm xưa, và qua đó mong ước hòa bình
cho mọi cuộc chiến tranh. Nhà thơ Lâm Hảo Dũng cảm hứng
liên hệ đến những cổ tháp hơi xa xôi đối với vùng
Tam Biên, như quần thể tháp Chàm ở Mỹ Sơn gần Ðà
Nẳng; hoặc thành Ðồ Bàn gần Quy Nhơn; trong khi ngay ở
Tam Biên cũng có tháp Chàm gần Cheo Reo bên sông Ba thuộc
địa phận tỉnh Pleiku (tên mới ngày nay là tỉnh Gia
Lai). Vùng Tam Biên ngày xưa cũng là đất đai của nước
Chiêm Thành, nên cổ tháp rải rác nơi đây không phải
hiếm hoi. Nghĩ về nước Chàm, liền nghĩ đến ước mong
dứt chiến tranh, một liên tưởng có vẻ không tương hợp
với tính chất của hai cuộc chiến. Sống yên vui và có
được tình yêu trai gái, đó là ước nguyện muôn thuở.
Những ước mơ gần gũi tuổi trẻ thời chinh chiến có
như vậy mà thôi; chưa đặt tới ước nguyện nhân bản
cho con người nói chung (nhưng đôi khi cũng thấy tác giả
liên hệ đến tính nhân bản bao hàm tới toàn thể nhân
loại). Bên cạnh lý tưởng hòa bình qua nhắc nhở Chiêm
Thành, còn có những lãng mạn như được cùng em Chiêm-nữ
tắm nước sông đầy; muốn nhìn vào đôi mắt sâu của
thiéu nữ Chàm mà trực cảm nỗi sầu siêu hình có tính
chất tôn giáo nào đó (chắc không phải là nỗi sầu mất
nước như ta từng nghe niềm ai oán này qua bài hát “Hận
Ðồ Bàn” của nhạc sĩ Xuân Tiên; hoặc qua tập thơ
“Ðiêu Tàn” của nhà thơ Chế Lan Viên):
… Và nếu được cho ta
về Lâm ấp
Thuở huy hoàng thành quách rợp
cờ bay
Ðể những đêm khi sao trời
tắt rụng
Ta cùng em đùa tắm nước
sông đầy.
(Trích bài “Dưới
Tháp Chiêm Gầy”)
Khi bỏ đèo Nhông về với
núi
Ta làm mây ở cuối trời xa
Ngắm đôi hàng tháp Chiêm gầy
guộc
Thương mắt em buồn chuốc
rượu ta
… Ta muốn bỏ thành lên ở
núi
Sống hoang vu như cỏ cây sầu
Bởi bao tham vọng trên trần
thế
Sẽ úa tàn khi bạc mái đầu
Chiến sĩ không nên buồn rã
rượi
Cười ngông nghênh nhé, súng
cầm tay
Muốn như muông thú xin đành
hẹn
Một tối mơ màng cốc rượu
cay.
(Trích bài “Cảm
Khái Khi Về Núi”)
... Ai biết sầu chôn những
gái Hời
Bên kia Trà Kiệu nắng phai
rồi
Xa trong bóng núi mờ sương
bạc
Ánh lửa mơ hồ ma diễu chơi…
(Trích bài “Một
Tối Tôi Về Ngang Mỹ Sơn”)
Căn cứ về số lượng những
bài thơ sáng tác của Lâm Hảo Dũng, ta thấy gần như có
sự đồng đều giữa ba đề tài; và cả ba đều đậm
nhạt xen vào thơ tình: đề tài hoài hương miền đồng
bằng sông Cửu Long; đề tài đời sống khi định cư ở
xứ người; đề tài một thời chiến vùng Tam Biên. Riêng
đề tài thứ ba: Thơ thời chiến ở Tam Biên không là thơ
hiện thực chiến tranh vùng ác liệt thuở trước; và thơ
tình điểm xuyết cũng là thứ tình mơ hồ với Chiêm nữ.
Qua kỷ niệm một thời biên trấn và qua nhắc nhở Chiêm
Thành, tác giả có những ý tưởng lai vãng về hoà bình,
mong chấm dứt chiến tranh; điểm xuyết vài nét lãng mạn
tình yêu và cũng có đôi chút khinh bạc của người từng
thấy những rủi may ngoài chiến trận.
TRẦN VĂN NAM