Tiểu sử văn học: TRẦN TUẤN KIỆT
Ông sinh ngày 1/6/1939 tại Tân Vĩnh Hòa, Sa Đéc,
Ông sinh ngày 1/6/1939 tại Tân Vĩnh Hòa, Sa Đéc,
Thuở nhỏ ở làng Tân Quy Đông, Xóm Bún (nay là làng hoa Sa Đéc). Thời chiến tranh, tản cư cùng ông bà ngoại qua Cồn Tiên, Sa đéc, đến 8 tuổi thì mẹ mất lúc tản cư. Cha bỏ đi giang hồ theo các gánh cải lương. Sống với ông bà ngoại và người cậu thứ Năm tên Phan Văn Vàng nuôi. Ông Phan Văn Vàng là một trí thức làm ở Tòa án Hòa giải tỉnh Sa Đéc, sau làm Tối cao Pháp viện ở Saigon. Trong nhà có đầy đủ các sách vở, báo chí trong và ngoài nước. Ông là người lập ra nhóm Tân Nhạc đầu tiên ở Sa Đéc.
Trần Tuấn Kiệt thuở nhỏ ham mê đọc sách, nhờ sách vở sẵn của cậu Năm mà đọc nhiều, nhất là mê thơ. Tập làm Đường Thi độ trăm bài theo tập Đường Thi-Việt Thi của Trần Trọng Kim. Lúc bé, đã nổi tiếng về thơ và được các thầy dạy Văn ở trường tỉnh Sa Đéc yêu thích.
Sau lên Saigon sống một mình, ham học và làm thơ nên tìm đến xin học các thầy Nguyễn Duy Diễn, Đồng Tân, Tam Ích…
Đăng thơ đầu tiên ở báo Sinh Lực của Đồng Tân, rồi Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Văn của Trần Phong Giao…
Lớn lên sống bằng nghề làm báo, viết hầu hết trên các báo từ 1963 đến 1975
Năm 1970, Trần Tuấn KIệt thành lập Nhà xuất bản Hồng Lĩnh, giới thiệu nhiều tác phẩm của VNS đương thời. Sau 1975, ông viết trên báo hải ngoại.
Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt mất lúc 5h sáng ngày 08/10/2019 tại TpHCM. Ngày 11/10/2019, được hỏa táng tại Phước Lạc Viên (Bình Dương). Thọ 80 tuổi.
TÁC PHẨM TIÊU BIỂU TRẦN TUẤN KIỆT
- Thơ Trần Tuấn Kiệt (Bùi Giáng đề tựa, Nguyễn Trung vẽ bìa, 1963).
- Nai (Viết chống duy lý chủ nghĩa, Đinh Cường vẽ bìa, 1964).
- Bài Ca Thế Giới (Trường ca theo tinh thần Whitman và Hoelderlin. Nghiêu Đề vẽ
bìa, 1964).
- Cổng Gió (Thơ lãng mạn, siêu hình. Cảm hứng từ hai thiếu nữ người Ý. Động
Đình Hồ vẽ bìa).
- Triều Miên Ngâm Khúc (990 câu thơ viết cho con đầu lòng đã mất).
- Làn Chớp (Ngôi Đền Cổ): (Năm ngàn câu thơ xuôi viết theo tinh thần thi ca siêu
thực như Nieztsche, trên báo Nghệ Thuật của Mai Thảo. In chung trong tập Tác Giả Tác Phẩm).
- Mê Cung, Màu Kỷ Niệm, Tiếng Đồng Nội, Sa Mạc Lan Dần (Bộ bốn quyển
truyện).
- Thi Ca VN Hiện Đại (Khai Trí xuất bản).
- Lời Gởi Cây Bông Vải (Giải nhất Thơ Văn học Nghệ thuật 1966-1969, bìa Động
Đình Hồ).
- Trang Hồng (Thi phẩm, Song thất lục bát).
- Niềm Hoan Lạc Thần Linh Và Ngục Tù (Thi phẩm).
- Cuồng Loạn (Viết siêu thực và phái Thi Sơn).
- Nàng Tôn Nữ (Viết cho Tôn Nữ Minh Diệu ở Củng Sơn, Phú Yên, Nguyên Khai
vẽ bìa).
- Hồng Hạc (Viết cho quê hương và mẹ).
- Thi Phẩm Trữ Tình (Viết tặng Trần thị Thiên Hương).
- Tác giả Tác Phẩm (Hồng Lĩnh xuất bản trước 75).
TÁC PHẨM ẤN HÀNH SAU 1975
- Thái Hằng và 27 tập thơ nhỏ (khoảng năm ngàn bài).
- Sách Dã Sử (Khoảng 50 bộ. Ký tên Hồng Lĩnh Sơn, Xuân Thu…).
- Sách Hướng Dẫn Võ Thuật (Khoảng 200 quyển đủ loại).
- Tác Giả Tác Phẩm I, II, III, IV, V.
- Thi Tuyển Phan Bá Thụy Dương-Trần Tuấn Kiệt (Bìa Hồ Hữu Thủ, 2004).
- Thi Ca Việt Nam Hiện Đại (Viết chung với Hàm Anh).
- Quán Bên Đường (Viết cho Tuyết).
- Thi Tuyển (Thơ ngắn, khoảng hơn 300 bài).
- Lạc Đạo Thi (Thơ cho Hạc).
- Thần Đạo Đại Việt (Bộ 15 quyển trên 10 ngàn trang nói về văn minh văn hóa Việt
Nam và tôn giáo chính thống Việt Nam. Đã in quyển đầu lấy tên Trở Về Nguồn Cội Đại Việt, bút hiệu Việt Hoàng với P. Tường, 2005).
- Hồi Ký Cuộc Đời Và Nghệ Thuật.
TRẦN TUẤN KIỆT, MÁU RƠI BA GIỌT
DƯỚI CHÂN THỀM
(Từ Lời Gởi Cây Bông Vải đến Đại Việt Thần Đạo)
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Địa linh sinh nhân kiệt, những vùng đất mà tôi có dịp đi qua, dù thổ cư phì nhiêu trù phú hay tọa lạc nơi hiểm hóc thâm sơn cùng cốc, hình như cũng quy tụ khí thiêng sông núi. Có lẽ chính vậy, mà ung đúc được nhiều tài hoa phù hợp với phong thủy cứ địa. Mỗi lần tôi về quê nhà, khi lướt ngang qua phà Mỹ Thuận mà ngọn gió sông Hậu còn loáng thoáng vướng trên tóc tai, làm tỉnh thức được phần nào sự nôn nả đường về. Trước mặt, Sa Đéc là vùng đất mật ngọt hiền hòa nằm ven thủy lộ chở đầy phù sa bồi đắp cho vùng cây trái sung mãn quanh năm tháng. Không hiểu tại sao trên bờ sông Mỹ Thuận, những lúc vội vã quay về tôi thường mê mẩn cố tình để bắt gặp và lắng nghe âm sắc chiêu hồn của tiếng đàn độc huyền của một nhạc sĩ già mù chìm đắm ánh mắt bạc tròng trong từng âm thanh diệu vợi, chập chờn bay lượn loáng thoáng trên sông nước phù bình, lững thững trôi lặng lẽ giữa cuộc đời. Sự hóa hiện của khúc nhạc giang hồ phiêu bạt trong cõi nhân gian này, là niềm hy vọng phả hồn vào cảm ngộ của tri âm? Tôi mãi mê không bao giờ quên được, nhiều lúc trôi nổi trên con phà, tiếng độc huyền chợt quay về với nỗi nhớ xa xưa. Tiếng đàn độc huyền phà Mỹ Thuận cũng vậy, làm chợt nhớ tới tiếng sáo của sư huynh Trần Tuấn Kiệt và quê hương Sa Đéc đầy rẫy tài hoa, còn thấp thoáng trong nẻo đường đời. (Trần Tuấn Kiệt đa năng đa diện, từng theo học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc, như là một cách bổ sung cho thi ca thêm âm hưởng tuyệt diệu). Nhà thơ thực ra đã ly hương từ khoảng năm 1960, về phố thị Sài Gòn lập thân lập nghiệp như nhiều bằng hữu văn nghệ tỉnh lẻ khắp nơi. Cái phiêu du của anh, còn nặng nhiều chất kiêu bạt và giang hồ. Oằn vai đeo cả túi thơ, chất chồng theo định mệnh lập dựng một khuynh hướng thi ca mới, vì thế khoảng thời gian này, Trần Tuấn Kiệt đang hòa mình trong tao đàn Bạch Nga, chủ soái là nhà văn Nguyễn Vỹ, gồm nhiều kiện tướng như Minh Đức Hoài Trinh, Tuệ Mai, Bạch Yến…
Trong giai đoạn đầu, Trần Tuấn Kiệt xem nghề báo như bước tiến đầu tiên để ổn đinh cuộc sống giúp anh giao tiếp được hầu hết các anh em văn nghệ đồng song đương thời. Cùng chung một ý hướng khả dĩ thành lập riêng một nhóm văn nghệ với tư tưởng văn hóa đầy nhiệt huyết. Hình thành một lớp văn nghệ sĩ đa phong cách như tiếng nói vững chãi cho văn học miền Nam thời bấy giờ, với Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Trần Đức Uyển, Viên Linh, Vương Tân… Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt và các cây viết đồng song trong giai đoạn này là lớp người được xem như tinh túy nhất của văn chương miền Nam, một mặt tiếp nối kế thừa văn nghiệp từ các sĩ phu Bắc hà, gần gũi với lớp tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan, Đinh Hùng…, một mặt lập dựng được tiếng nói nghệ thuật mới kế cận một nền văn học cũ có hậu tại miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Phú Đức… Tất cả sự hoạt hóa cách tân đưa văn học vào một ngõ sáng tạo, kết nối từ những nguồn văn minh văn hóa của phương Đông và phương Tây, đứng trước những đổi mới trên ngôn ngữ, tư tưởng và hình thức sáng hóa. Trong thời gian 1963 - 1975, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt ấn hành nhiều tác phẩm quan trọng, có lẽ hơn vài trăm sách in mà anh gom hết sức lực góp mặt cùng nền văn hóa văn học Việt Nam, phần đông là những cuốn biên khảo và thi ca. Những thi phẩm nền tảng cho tiếng tăm một Trần Tuấn Kiệt, được nhắc nhở nhiều như thi tập Nai (1964), Lời Gởi Cây Bông Vải(1969), Niềm Hoan Lạc Thần Linh Và Ngục Tù (1970), được nhắc nhở và đoạt nhiều giải văn chương đương thời… Trên bình diện nhận xét về thơ, Trần Tuấn Kiệt cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo, phê bình như Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, Tác Giả Tác Phẩm và nhiều bộ truyện dài như Mê Cung, Màu Kỷ Niệm, Tiếng Đồng Nội, Sa Mạc Lan Dần… Cung cách sáng tác của Trần Tuấn Kiệt có chút ít phóng khoáng, hầu như sử dụng ngọn bút dễ dàng thâm nhập vào mọi hứng khởi, khi bước vào cuộc hành trình sáng tạo. Nhiều lúc, nhìn cách lập dựng tác phẩm của anh, với dày đặc bản thảo mang đầy trách nhiệm thừa truyền của một văn nghệ sĩ, không để bỏ sót khoảng thời gian nào cho từng dòng thơ, ý tưởng bước qua. Trần Tuấn Kiệt viết nhanh và du hành trên mọi địa hạt văn chương, nên tác phẩm của anh ngoài thơ còn đa dạng trên sưu khảo, nhận định phê bình, tiểu thuyết, luận triết, võ thuật, âm nhạc…
Sau 1975, khoảng 20 năm đầu sự sống còn nhiều khó khăn, anh viết sách võ thuật, y học, dã sử, hồi ký… Vô hình chung tài sản văn học của Trần Tuấn Kiệt lên hàng trăm quyển, chia đều và dày đặc trên thư mục lưu trữ. Nối tiếp những tập biên khảo nhận định phê bình văn học của những năm chiến tranh, Trần Tuấn Kiệt xây dựng bộ Tác Giả Tác Phẩm (5 quyển), thực hiện trên 5000 trang, dù chưa chính thức kết thúc vào tập nào nhưng anh có tặng tôi 2 quyển đầu của bộ sách này, với một cách nhìn đặc biệt từng tác giả văn nghệ trước và sau 1975. Bên cạnh Trần Tuấn Kiệt hoàn thành tập Hồi Ký Cuộc Đời Và Nghệ Thuật, chỉ chờ dịp thuận tiện để giới thiệu với độc giả.
Thơ Trần Tuấn Kiệt đã đi vào khung trời riêng, của hơn 50 năm hòa nhập với thi ca, chất chứa đầy khí lực tạo dựng một vũ trụ thơ của anh. Trần Tuấn Kiệt mang sắc thái của lão phu bạch sĩ, đang hoài bão chống gậy bước vào một nền Văn Hóa Dân Tộc Việt, như một sứ giả thuần hành vạch lại những hào Lạc Thư (theo anh: “Lạc là Lạc Việt. Thư là Sách) cho một nền Thần Đạo Đại Việt (Thần Minh Đạo) vậy… Với anh hùng dân tộc và nền văn minh của đình làng đã như một đặc trưng riêng của Việt Nam, không nước nào có được, dù lập dựng hơn 5000 - 8000 năm văn hóa như Hi Lạp cổ xưa, Trung Quốc… Văn hóa văn minh của Thần Đạo được lập dựng trong 5 loại hình: Vũ trụ, Huyền sử, Phúc thần sắc phong, Thần vật có công với đất nước, nhất là các anh hùng hào kiệt giữ nước. Đó là điểm khác biệt với Thần Đạo Nhật Bản, hay các vị thần lập dựng huyền thoại hóa từ khai thiên lập địa của Trung Quốc, hay các thần linh tạo lập vũ trụ của truyền thuyết Hy Lạp. Những cách lập dựng để làm phong phú giả tạo cho nền văn minh văn hóa đất nước của các quốc gia trên, dĩ nhiên đã tạo dựng một ảo giác, dối trá đầy vẻ bá đạo. Những ngày tháng cật lực thực hiện bộ sách mang đầy tư tưởng tâm huyết khiến nhiều đêm Trần Tuấn Kiệt soi bóng mình trong những giọt máu chiêu hồn thật bi thống: Còn chút hơi tàn với bóng đêm / Máu rơi ba giọt dưới chân thềm. Mấy tháng trước anh có tặng tôi tập 1 Đại Việt Thần Đạo trong bộ sách 15 tập sẽ ấn hành tuần tự theo thời gian và tài chánh. Tôi nghĩ tâm huyết này đã được anh nhân rộng hơn tư tưởng triết lý Thần Đạo của học giả Nguyễn Đăng Thục viết trong Tư Tưởng 1, có thờ chính thống Thần Đồng Cổ từ đời vua Hùng Vương.
Trở về nguồn cội mà nhà thơ - nhà văn hóa Trần Tuấn Kiệt đang bước đi trong cuộc hành trình đầy thử thách: Sức khỏe, lập thuyết, và tài chánh để hoàn thành. Linh thổ đã bao lần ta đứng lại / Nhìn trăng rằm cổ độ mấy mùa sương báo hiệu sự mong chờ không phải riêng Trần Tuấn Kiệt, mà còn biểu hiệu canh cánh nỗi lòng của chúng ta, đồng cảm với nhà thơ trước khi chiếc ráng hoàng hôn bay về nẻo không cùng…
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
(*) Lời ghi thêm: Bài thơ dưới đây được trích trong nguyệt san Trình Diện Tuổi Đất (tiền thân tạp chí Khai Phá) mùa xuân 1967, do tận tay nhà thơ Trần Tuấn Kiệt trao cho Ngô Nguyên Nghiễm.
Thơ TRẦN TUẤN KIỆT
Ta lên miền biên giới Hạ Lào
Cửa non sâu thẳm
Người về quên dặm chông chênh
Mù sương đá dựng
Vòi või mối sầu biên cương
Ta ngồi bên người Thượng
Nhìn đàn bò nhơi cỏ non
Nhìn bên kia biên giới
Núi chạy mù trời lam
Những người xa ải loạn
Chiều bên phố nhớ thương
Nơi đây chòi nắng vây chân núi
Rừng phủ mờ đường về
Mưa bụi buồn lê thê
Chiều chống gậy trúc
Nhớ kinh thành xiết bao
Hoa rụng rừng sâu
Không cầu thương tiếc
Dốc nắng gập ghềnh thôi hết đã từ lâu
Ta buồn hát nghêu ngao
Chợt đàn chim bay đến
Chim di tự phương nào
Cớ sao buông lời lưu luyến
Nhớ thương người nội trợ
Nhớ thương bầy trẻ thơ
Ta đứng lên
Chen lẫn cùng lau lách
Ngỡ bạc đầu ông lão chiến trường xưa
Khinh bỉ bé con
Mơ chuyện công hầu
Khinh lũ múa rìu búa cờ mao
Hùng hổ đeo bùa danh tướng
Ta lên rừng xanh
Đốt lá đỏ
Hơ nóng ân tình vạn thuở
Sớm sương mù chim hót nhành cao
Cỡi ngựa thồ
Đi dép cỏ
Người đời nay buồn chưa
Trăm năm là mấy trời giông bão
Nằm khểnh nghe cuối luồng trong rừng sâu
Ta vỗ đầu gậy trúc
Chầm chậm qua đường truông
Ngủ nhà bát quái
Mơ vũ y nghê thường
Ai trách ta hề
Ai khinh ta hề
Trời đất biết
Ta thương đời gió bụi hề
Ai có hay
Ta lên miền biên giới chiều nay
Thân cỏ rơm bầu bạn
Viết lịch sử hề - cỏ cây!
Ta mặc tình hề
Bom đạn
Đồn lũy giặc chạy dài lô nhô
Súng gươm hề xao xác
Đời loạn chết chóc hề
Có gì đâu?
Vỗ đầu gậy trúc hề
Đi vào trong sương
Ai tìm ta hề
Vào ngõ rừng tùng
TRẦN TUẤN KIỆT
(Trích tập thơ Rừng Tùng).