Ngày mai chừng mấy giờ thì anh đi!”
“Bảy giờ anh phải có mặt ở bến xe Văn Thánh rồi có người dẫn đi. Họ dặn đi, dặn lại, là
nhớ phải đến đúng giờ. Hình như họ chia ra làm nhiều đợt thì phải! Tuy họ không nói
ra, nhưng anh cũng có thể suy đoán được như thế. Mỗi đợt theo như anh nghĩ, độ chừng
mười người là cùng. Họ còn nhắc khéo, mình nên ăn mặc giản dị, giống như người đi
buôn bán, làm ăn thì tốt nhất.
Sở dĩ họ muốn mình làm như vậy, là để tránh sự chú ý của dân chúng địa phương.
Nói như thế, có nghĩa là họ không muốn mình tỏ ra quá ngang nhiên, quá lộ liễu. Họ
muốn mình là phải cải trang. Phải làm thế nào cho hợp với màu sắc lam lũ của người dân
ở dưới đấy. Phải dè dặt trong khi đi đứng. Phải đề cao cảnh giác. Phải nhìn trước, ngó
sau để phòng ngừa những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào! Nói tóm lại, họ
bảo mình làm thế nào, thì mình cứ làm đúng y như lời người ta dặn là được rồi.”
“Thế họ có đề cập đến vấn đề ăn ở không anh! Dù muốn dù không, xuống dưới đấy, anh
cũng phải nằm chờ ít nhất là đôi ba ngày, chứ đâu có lý nào mà đánh liền ngay trong đêm
mai được!”
“Chuyện đó thì bà chủ tàu có nói với mẹ anh ngay từ buổi đầu tiên mới gặp mặt ở tại nhà.
Anh vẫn còn nhớ rất rõ, hôm ấy, hai người có vẻ tương đắc và nói chuyện với nhau đến
gần cả tiếng đồng hồ. Cách đây không lâu, nhân tiện có dịp xuống thăm người bạn thân
ở dưới khu ông Tạ, anh có nghe người ta xầm xì, bàn tán rất nhiều về cái tổ chức này.
Chẳng cứ gì ở khu ông Tạ, mà ngay đến cả bên Xóm Chiếu cũng thế. Đâu đâu người ta
cũng khen nức, khen nở, cho đấy là chỗ đàng hoàng, tử tế, chứ không giống như mấy tổ
chức lừa đảo, xa lạ khác!
Cứ mỗi lần nhắc đến bà bạn thân ở trong xóm và hiện đang sinh sống ở nước ngoài,
mẹ anh thường tỏ ra xúc động, rồi quay sang nói với anh bằng câu hết sức là thấm thía,
buồn vô hạn:
“Lúc nào mẹ cũng muốn cho con đi, chứ chẳng phải là mẹ không muốn đâu! Mẹ vẫn để
tâm nghe ngóng từ đầu này sang đến đầu khác! Nhưng! Khổ nỗi, mẹ chẳng biết chỗ nào
là chỗ khả dĩ mà mình có thể trông cậy, phó thác và tin tưởng vào ngưởi ta được! Nhìn
vào thực trạng của gia đình mình hiện giờ thi cũng chẳng có dư giả gì! Lỡ gẫy một
chuyến thì kể như không còn có chuyến thứ hai! Mẹ nói như thế, chắc con cũng hiểu
được phần nào cái ý của mẹ ở trong đấy. Chẳng cứ gì gia đình mình, mà ngay đến các
gia đình khác cũng đều lâm vào tình trạng nghèo đói, tồi tệ, bấp bênh như nhau. Mẹ con
mình sống được ngày nào thì biết ngày nấy, chứ đâu có biết được ngày mai sẽ ra sao!”
“Ngày nào mẹ cũng tất bật. Ngày nào mẹ cũng phải chạy đôn, chạy đảo. Phải lăn xả
vào cuộc sống. Phải xông xáo, bươn trải. Phải trầy vi, tróc vẩy ra mới kiếm được đồng
tiền. Phải quần quật, ngược xuôi hết chợ này sang đến chợ khác! Chưa khi nào mẹ dám
hở môi, than vãn với bất cứ một người nào ở trong họ, về những tủi nhục, đắng cay, chua
chát mà mẹ đã phải hứng chịu cả hằng bao nhiêu năm nay. Chung qui cũng chỉ vì hai
chữ gia đình! Cũng chỉ vì chồng, vì các con, nên mẹ mới phải cắn răng, cắn lợi để chịu
đựng. Ngày nào mẹ cũng phải thức khuya, dậy sớm. Phải đầu tắt, mặt tối. Phải vã cả
mồ hôi hột ra mới có được miếng ăn cho gia đình. Bây giờ là thời buổi bao cấp. Thời
buổi gạo châu, củi quế. Thời buổi đi đâu cũng nghe người ta ca thán, oán trách về tình
trạng khốn khó hiện nay. Về chính sách be bờ, o ép của nhà nước. Về nền kinh tế què
quặt đã xô đẩy người dân xuống tận cùng của sự nghèo đói, của khổ cực, lầm than. Đi
đâu cũng nghe người ta than vãn, bình phẩm, chê trách, ca thán về đường lối cay nghiệt
của nhà nước. Chỗ nào cũng nghe người ta xầm xì, rỉ tai với nhau! Nào là, miền Nam
đang bước vào thời kỳ đổi đời. Thời kỳ đảo lộn từ ở dưới lên trên. Thời kỳ của thằng
khôn đi học và thằng ngu dạy đời. Chưa khi nào người dân ở miền Nam lại lâm vào tình
trạng hụt hẫng, lao đao như thời buổi hiện nay! Chưa bao giờ người dân o miền Nam lại
phải ăn độn. Phải nhai bo bo để trừ cơm. Trong khi đó, nhà nước cứ ra rả, kêu gọi mọi
người dân phải thắt lưng, buộc bụng. Phải khắc phục mọi hậu quả chiến tranh, dể tiến
mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa. Xét cho cùng thì Xã Hội Chủ
Nghĩa cũng chẳng có đẹp đẽ gì! Nhìn vào thực trạng nheo nhóc của người dân, nhà nước
chỉ biết o ép, bóp nghẹt và chẳng khi nào quan tâm đến những nguyện vong thiết tha của
nhân dân. Có nhiều người thường nhận định, cho rằng: Kể từ ngày ba mươi tháng tư
năm bảy mươi lăm, đã mở ra thời kỳ tồi tệ và đen tối nhất cho toàn thể nhân dân ở miền
Nam. Hay nói một cách khác! Xã hội miền Nam đang bước vào thời kỳ tụt hậu, xuống
dốc. Và! Cũng kể từ ngày đen tối ấy, xã hội đã mất hẳn đi hai chữ tình người cao đẹp ở
trong đấy. Giờ đây, người ta chỉ thấy toàn là những bất công. Những mánh khóe xảo trá
cùng mọi thủ đoạn bẩn thỉu, đê hèn để lừa lọc, cạnh tranh lẫn nhau.”
“Trong đời sống hôm nay, chúng ta chẳng còn nghe ai nhắc đến hai chữ nhân phẩm
cũng như hai chữ sĩ diện nữa! Chung qui cũng chỉ vì cái bao tử! Cũng chỉ đồng tiền! Vì
miếng ăn mà thôi! Tóm lại, mẹ con mình đang sống trong một xã hội đầy nham hiểm,
đầy nghi kỵ lẫn nhau. Chính vì thế, chúng ta chẳng còn biết tin tưởng vào nơi ai bây giờ!
Ngày nào, ở trên chợ, mẹ vẫn thường nghe người ta đề cập đến khá nhiều tổ chức vượt
biên khác nhau. Tổ chức nào thì cũng nói ngon, nói ngọt. Đường dây nào cũng vỗ ngực,
xưng tên, cho mình là chỗ đàng hoàng, tử tế. Nhưng! Khổ nỗi! Mẹ làm sao có thể biết
được! Ở đâu là thực và chỗ nào mới là giả!”
“Cũng may, bà chủ tàu lại là chỗ quen biết, đi lại với dì anh ở dưới Lam Sơn. Cứ
theo như lời cua dì anh, thì bà chủ tàu là mẫu người hiền lành, đạo đức. Mẫu người chỉ
biết nghĩ sao, nói vậy. Có thế, trong suốt gần cả tiếng đồng hồ, bà ta cứ say sưa kể cho
mẹ anh nghe, lan man từ chuyện này sang tới chuyện khác! Thậm chí, ngay đến chuyện
bãi bến, bà ta cũng con lôi ra, thổ lộ hết cả moi chi tiết tỉ mỉ, khúc mắc cho me anh nghe.
“Em chẳng nói dấu gì chị! Lỡ rơi vào cái nghề này, thì điều kiện tiên quyết là phải có
tiền để trang trải. Có tiền thì mọi chuyện mới êm thắm được. Giả dụ, nếu mình muốn
cho chuyến đi được an toàn, thì điều kiện trước tiên là phải có tiền để mua bãi bến. Nói
vậy, chứ bãi bến cũng đều có cái giá riêng của nó hết chị ạ. Mình muốn nói chuyện trực
tiếp với mấy ông này, thì phải nói bằng vàng, chứ không thể nói bằng tiền như chúng ta
vẫn thường giao dịch, buôn bán với nhau ở bên ngoài được! Năm nay, họ đưa cái giá có
phần hơi cao so với mấy năm trước. Nhưng em vẫn phải gồng minh, ráng sức để mua
cho bằng được. Em luôn luôn nghĩ rằng: Chẳng thà tốn thì tốn, nhưng ngược lại, mình
đỡ phải hồi hộp, lo lắng. Phải không chị! Chính vì thế, từ trước cho tới giờ, chẳng xót
chuyến nào mà em không để tâm đến sự an toàn cho khách khứa của mình.”
Thắc mắc, mẹ anh liền lên tiếng hỏi:
“Làm thế nào chị có thể luồn lỏi, móc nối, lung lạc được với mấy ông chính quyền ở dưới
đó!”
Nghe đến đấy, bà chủ tàu chỉ cười xòa rồi điềm nhiên chậm rãi:
“Chị quên rồi à! Chẳng có thứ gì mà qua được đồng tiền, và nhất lại là vàng, thì còn gì
mà quí cho bằng! Chị cứ thử ngẫm nghĩ lại xem: Ở trên đời này, chẳng có ai mà không
muốn sung sướng, hở chị! Ai thấy vàng mà lại không nổi lòng tham! Ai mà chẳng muốn
quơ vào để làm của riêng cho bản thân mình! Thế mới biết, lòng tham của con người ta
ghê thật. Nó chẳng khác nào như cái túi không đáy, phải không chị! Mấy ông này thì
cũng chẳng có ngoại lệ! Bề ngoài thì mấy ông ấy cứ ra vẻ, ta đây là con người trong
sạch, liêm chính. Nhưng! Sự thật ở bên trong thì trái hẳn. Cỗ đã dâng lên tới tận miệng,
thì dễ gì mấy ông ấy bỏ qua. Nhất là trong thời buổi gạo châu, củi quế này, ông nào mà
chẳng ham muốn hở chị! Ông nào thấy vàng mà chẳng sáng mắt lên! Ông nào cũng móc
ngoặc. Ông nào cũng nham nhúa như nhau. Đạo đức cách mạng là một chuyện, còn tiền
bạc thì lại là chuyện khác nữa! Chẳng có ông nào mà không nhờ vào đồng tiền tham ô,
bất chánh, nên mới sắm được nhà cao cửa rộng. Thời buổi nào thì cũng giống như nhau
thôi. Có vàng là có tất cả. Chị chỉ cần có vàng để lót đường thì mọi chuyện đều trơn tru,
xong xuôi đâu vào đấy. Nhưng! Có điều, đi đêm thì mình phải biết ngóc ngách từng nơi,
từng chỗ. Phải biết khôn khéo. Phải kín đáo, đồng thời phải biết gõ đúng tần số thì mới
được việc chị ạ. Em nói vắn tắt, ngắn gọn như thế. Chắc chị cũng hiểu được cái ý chính
nằm ở trong đấy. Rất tiếc là em không có rộng thì giờ để nói chuyện với chị! Còn có rất
nhiều chuyện kinh thiên động địa hơn nữa! Có những chuyện rất khó tin, nhưng lại là
chuyện có thật. Quanh năm, suốt tháng, chị cứ quanh quẩn với công việc làm ăn ở trên
đây, nên chị đâu có biết được chuyện gì đã xảy ra ở bên ngoài! Chị đâu có ngờ rằng: Có
chuyến, người ta còn thuê cả công an đứng ra để giải quyết các vụ căn me, đi hôi vào
những giờ phút chót. Giả dụ, nếu chị có mặt ở ngay tại bãi bến vào lúc ấy, chị sẽ chứng
kiến tận mắt, cảnh người ta xô đẩy, giành giựt, chen lấn nhau để xuống tàu. Người ta kéo
xuống không phải là vài ba người đâu chị! Có khi, con số còn lên đến cả hằng chục
mạng nữa là đằng khác! Đứng trước tình trạng hỗn tạp như thế, nói dại, nếu không có sự
can thiệp của công an, thì thử hỏi, số phận của chiếc ghe khi ra đến ngoài khơi thi sẽ ra
sao! Nói tóm lại, tất cả những gì em vừa kể cho chị nghe đều là sự thật. Sự thật một
trăm phần trăm, chứ em không hề thêm mắm, thêm muối gì lẫn vào trong đấy! Xuyên
qua mấy câu chuyện vừa kể, chị em mình mới thấy rõ được cái bề trái nhơ nhớp của mấy
ông này. Từ đó, chúng ta mới nhìn thấu được, thế nào là cái mãnh lực ghê gớm của đồng
tiền! Chỉ có đồng tiền mới làm cho người ta mờ mắt rồi quên đi cả lý trí. Có phải đúng
như vậy, không hở chị!”
“Sau khi xuống tới Lam Sơn thì có người luôn luôn túc trực, chờ sẵn, chở thẳng vào địa
điểm ấn định bằng phương tiện xe đạp. Kể ra thì họ tổ chức thật chu đáo. Xem ra, chỗ
này cũng rất uy tín. Theo như lời của dì anh cho biết, thì đây là chuyến thứ ba hoặc thứ
tư gì đó. Tất cả các chuyến trước họ tổ chức đều trót lọt. Anh không biết đến chuyến này
thì ra sao! Hơn nữa, chuyến này lại là chuyến cuối, đặc biệt dành riêng cho gia đình. Vì
thế, họ chỉ bốc khách lấy lệ để trám vào các mục như bãi bến chẳng hạn. Đặc biệt nhất,
khách đi trong chuyến này đều là chỗ quen biết, thân tình.”
“Còn về vấn đề tiền bạc thì sao hở anh!”
“Khi nào người nhà mình ở bên đây nhận được điện tín đánh về từ bên đảo, báo tin thân
nhân mình đến bến bình an thì lúc đó mình mới chung tiền. Còn bây giờ, mình chỉ đưa
trước cho họ hai chỉ tượng trưng, để chi phí cho việc dầu, mỡ, thực phẩm cùng mấy thứ
lặt vặt, linh tinh khác!”
“Nhưng gia đình họ đi hết trong chuyến này, như vậy thì mình sẽ chung tiền cho ai!”
“Em rõ thật ngây thơ. Họ còn người thân ở bên đây chứ. Gia tỷ, nếu như mình có khả
năng, hay nói một cách khác, mình có thân nhân hoặc bạn bè hiện đang sinh sống ở nước
ngoài mà mình có thể mượn trước được, thì trả thẳng chọ họ ở bên đấy. Bằng không thì
gia đình mình sẽ thu xếp rồi trả cho người thân của họ ở bên đây.”
Khánh ngừng lại suy nghĩ. Lát sau anh mới hạ thấp giọng buồn buồn:
“Rất tiếc là không có em đi chung với anh trong chuyến di này. Đấy mới chinh là điều
làm cho anh cứ phân vân, đắn đo và khổ tâm vô cùng.”
Nga ngắt ngang, giọng nàng đanh lại:
“Anh phải đi! Không đắn đo, chần chờ gì hết! Bác gái còn đủ sức chạy đầu này, vay đầu
kia thì anh phải đi. Đừng lo lắng gì cho em mà bỏ lỡ cơ hội hiếm có. Mỗi người đều có
hoàn cảnh riêng biệt khác nhau! Bên anh khác! Còn nhà em khác! Mẹ em thì bệnh
hoạn, đâu có thể so bì với bác gái được! Thậm chí, ngay đến bản thân em đây cũng còn
phải nghỉ học, nhảy ra để chạy chợ, cáng đáng cho mẹ em, thì thử hỏi, làm gì mà có khả
năng! Nói dại, ngộ nhỡ, nếu em đi rồi, thì ở nhà lấy ai ra để mà lo cho mẹ cùng các em!
Nói thì nói như thế, chứ thực ra cũng chẳng biết trông cậy, nhờ vả vào nơi ai bây giờ! Vì
thế, mình chỉ biết trông cậy vào đôi bàn tay của chính mình. Bao nhiêu họ hàng, thân
thích đều tìm cách lẩn trốn, xa lánh. Họ sợ mình đến để quấy rầy, để vay tiền. Chưa chi
họ đã rào trước, đón sau, nào là thời buổi này chẳng biết lấy gì để xoay sở làm ăn! Nao
la, hoàn cảnh gia đình đang rơi vào tình trạng cạn kiệt, túng thiếu. Nói trắng ra là không
có khả năng để lo cho cháu lớn vượt biên! Họ viện ra đủ mọi lý do này sang đến lý do
khác! Quanh đi, quẩn lại cũng chỉ thấy toàn là những lời giả tạo. Những lời bịa đặt,
gượng gạo, sượng sùng, nghe chẳng suông tai chút nào! Càng nghe, mẹ em càng cảm
thấy ngao ngán, chán ngấy về mấy chữ họ hàng, thân tộc. Ở đây, em chỉ đề cập tới vài
gia đình ruột thịt, kề cận với bên nhà em. Mấy gia đình từng thọ ơn mưa móc của nhà em
trước kia. Từng được bố mẹ em cưu mang, giúp đỡ họ trong những con hoạn nạn, sa cơ,
thất thế. Có khi, đến cả hai, ba năm, họ cũng chẳng ghé qua nhà em tới một lần! Thỉnh
thoảng lỡ gặp mẹ em ở ngoài đường, họ tỏ ra săn đón, quấn quít rồi đon đả:
“ Lâu lắm vì quá bận rộn làm ăn, nên em không tiện ghé thăm chị được! Mong chị thông
cảm cho em.”
Hoặc:
“Lâu nay chị có tin tức gì về anh không!”
Họ chỉ nói vài câu qua loa, lấy lệ rồi rút êm. Anh thấy họ đối xử với nhà em như
vậy có tệ lắm không!”
Nói xong, Nga đột nhiên bật khóc. Giọng nàng đổi thành rung rung:
“Anh đi rồi, có lẽ em phải mất một thời gian khá lâu thì họa may mới mong lấy lại được
bình thường. Em không biết, rồi đây chúng mình có còn cơ hội gặp lại nhau nữa hay
không!”
Khánh vừa khom người đạp chiếc xe, vừa dỗ dành:
“Nín đi em! Kẻo người ta nhìn thấy cười cho bây giờ. Em chỉ hay nói dại. Gặp chứ sao
lại không! Anh tin là như thế. Ngay đến bà thầy bói cũng còn quả quyết với anh rằng:
Chúng mình sẽ gặp lại nhau cơ mà.”
Nga phì cười, dơ tay đập nhẹ lên vai Khánh:
“Hơi đâu mà anh cứ tin vào mấy bà ấy làm gì cho mệt. Bói ra ma, quét nhà ra rác. Theo
em thì khó lắm. Chuyện đời khó có thể nào mà lường trước được!”
Chiếc xe chạy bon bon trên mặt đường Nguyễn Huệ. Trời nóng, mồ hôi rịn đầy
trên trán hai người. Khánh liếc mắt nhìn sang hai bên, rồi hướng về phía trước mặt.
Chung quanh anh, là cả một cánh rừng xích lô cùng xe đạp trùng điệp. Tiếng máy nổ ì
ạch, ngắt quãng của chiếc xe lam cọc cạch, già nua, quyện theo mùi xăng, nhớt khét lẹt,
pha lẫn với mùi ngai ngái, tanh hôi của cá và nước mắm. Ai nấy đều đăm chiêu, tư lự.
Chẳng một nụ cười nào dấy lên! Chân dung Sài Gòn mất hẳn đi tính chất hồn nhiên, vô
tư như trước đây. Nó chìm theo ánh lửa đạn bức tử của những ngày tháng tư oan nghiệt
năm nào. Sài Gòn hôm nay khác hẳn với Sài Gòn ngày xưa. Một Sài Gòn hào nhoáng,
chói lọi, lấp lánh không còn nữa! Nó tuần tự ngả màu, úa dần rồi chìm theo bóng tối của
thời gian. Nguyên nhân xuất phát cũng từ cái khúc quanh nghiệt ngã, đắng cay của lịch
sử. Nỗi oan khiên cùng cuộc thay ngôi, đổi chủ đã diễn ra ở tại nơi này. Có nhiều người
thường tỏ ra ngây ngô, hỏi nhau với luận điệu đầy mỉa mai, chua chát ở trong đấy:
“Tôi hỏi thật! Anh thấy được điều gì đặc sắc và nổi bật nhất trong bức tranh hòa bình
của đất nước hôm nay!”
Người kia liền cau mày thở dài:
“Tôi chẳng nói dấu gì anh! Tôi chỉ thấy toàn là những ánh mắt ủ rũ, phiền não, buồn
muôn thuở. Những nếp nhăn chằng chịt lên ngôi, cùng các khuôn mặt cằn cỗi, gầy gò,
hốc hác, đen đúa, già nua đi trước tuổi.”
Ngày nào cũng giống như ngày nấy. Ngày nào, người ta cũng bươn trải, quần quật,
ngược xuôi, lăn lộn với cuộc sống. Ngày nào, người ta cũng lo lắng, ngao ngán về chén
cơm độn hẩm hiu chiều nay. Về bóng tối đen kịt đang đè nặng, trùm kín xuống thành
phố này. Thành phố được mệnh danh là thủ đô của miền Nam trước đây. Người ta chán
ghét Cách Mạng. Cách Mạng làm cho người ta khổ. Cách Mạng đẩy họ vào đời sống cơ
cực, túng quẩn. Từ ngữ giải phóng bỗng nhiên trở thành mỉa mai, chua chát. Nhãn hiệu
giải phóng hầu như chẳng còn ngự trị nơi tâm khảm của mỗi người dân tại thành phố này
nữa! Người ta không muốn nghe những luận điệu khoe khoang, lập đi, lập lại về hai chữ
giải phóng. Họ đề cao, ca tụng chủ nghĩa xã hội. Họ hô hào cải tạo xã hội, kêu gọi mọi
người dân phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng, kiến tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam lên
ngang hàng với xã hội miền Bắc. Miền Bắc là cái nôi, là thiên đường của xã hội chủ
nghĩa. Vậy xã hội chủ nghĩa là gì! Là kéo cho người giàu tụt xuống, ngang hàng với giới
bần cùng thấp nhất. Giới chân lấm tay bùn, và lúc ấy, xã hội chỉ còn lại có mỗi giai cấp
duy nhất là vô sản. Là buổi sáng, mọi người phải hối hả, chầu chực, xếp hàng ngay từ lúc
còn sáng sớm để chờ mua thực phẩm. Người ta kêu gọi người dân phải thắt lưng, buộc
bụng. Phải đi đúng theo tinh thần của xã hội chủ nghĩa. Tât cả đều phải đi lao động
không công. Phải đào kinh, vét mương. Phải lao mình vào các nông trường xa xôi, hẻo
lánh. Người ta hô hào, khuyến khích người dân nên về sinh sống, lập nghiệp tại các vùng
kinh tế mới. Thoạt đầu, có nhiều người nghe bùi tai, mềm lòng, bán cả nhà cửa rồi bồng
bế nhau ra đi. Đến khi sực tỉnh, mới thấy mình dại dột, lếch thếch, dắt díu nhau thành
từng đoàn, từng lũ, quay về sống tạm bợ, lang thang trên các vỉa hè trong thành phố.
Buổi chiều, sau khi mặt trời xế bóng, người ta sẽ thấy nồi bếp được dọn ra, đồng thời ánh
lửa hồng chập chờn ngún lên và khói lam bắt đầu cuồn cuộn tỏa ra mù mịt. Lát sau, cả
nhà đều quây quần, chen chúc nhau trên chiếc chiếu manh nhàu nát, cũ mèm, phơi trần
những tấm thân gầy gò, đen đúa trong bữa cơm về chiều tẻ nhạt, ngao ngán. Đó là hậu
quả tệ hại, ê chề nằm trong chính sách phát triển của nền kinh tế mới. Người ta quen với
đời sống thành thị. Người ta quen với ánh sáng lâu rồi. Cuộc đời họ gắn liền với thành
phố này cũng giống như đáp số của bài toán cộng không bao giờ thay đổi! Người ta
không thích tối tăm! Người ta không chịu nổi cảnh lầy lội về mùa mưa phải ngồi trên
chiếc xe máy cầy cả hằng mấy tiếng đồng hồ trên con đường nhầy nhụa, trơn trợt. Người
ta đâm ra sợ. Sợ từng lũ đom đóm lập lòe về đêm. Sợ từng đàn muỗi vo ve khi màn đêm
xụp xuống. Người ta ngán ngẫm về hai chữ hòa bình. Hòa bình có, nhưng tự do thì
không! Hòa bình trong lam lũ, cơ cực. Hòa bình trong đói khổ, lầm than. Hòa bình
trong chiếc bánh vẽ về một tương lai chói ngời, chập chờn ở phía trước. Tương lai đó
không bao giờ có thực! Nó chẳng khác nào như cái bong bóng nổi phập phồng vào ngày
mưa dầm dề, dai dẳng. Trước đây, mọi người đều khao khát, mong đợi hòa bình. Hòa
bình để nối lại tình tự dân tộc. Hòa bình để cho người hai miền được nhìn nhau, giao hòa
cùng nhịp thở. Hòa bình để hàn gắn, băng bó lại vết thương chiến tranh cho lành lặn,
bình phục. Hòa bình để cho mọi người cùng chung lưng, sát cánh bên nhau, hầu bắt tay
đi vào công cuộc tái thiết, phát triển và xây dựng một tương lai hứa hẹn, ngời sáng đến
với đất nước.
Thường thường, bất cứ quốc gia nào sau chiến tranh, họ đều có cái nhìn lạc quan
về tương lai đất nước họ. Nhưng! Đặc biệt trên giải đất thân yêu, gấm vóc này thì trái
hẳn! Thảm nắng hòa bình đã trải xuống từ lâu, nhưng người dân vẫn còn cảm thấy khe
khắt, chật vật nơi cuộc sống. Người ta chẳng thấy tia sáng hy vọng nào, le lói, báo hiệu ở
dưới cuối đường hầm! Chính sách hà khắc của nhà nước càng ngày càng làm cho người
dân nghẹt thở. Người ta đâm ra liều lĩnh, kéo nhau, đổ xô đi buôn lậu. Tât cả đều lậu.
Nếu ai có dịp đứng trên xa cảng miền Tây hoặc ngã tư Hàng Xanh vào buổi chiều nào đó,
sẽ chứng kiến tận mắt, cảnh người ta chạy gạo lậu, thịt lậu, trà lậu, cà phê lậu từ khắp nơi
về thành phố. Sài Gòn là chỗ tiêu thụ, nên mọi thứ đều đổ dồn về thành phố này. Dọc
đường, con buôn đều phải đóng thuế cho mấy trạm kiểm soát kinh tế. Nhiều người bị
lâm vào hoàn cảnh sạch vốn, trắng tay, khóc sướt mướt cũng chỉ vì không có tiền để đội
gạo nuôi chồng, hiện đang nằm khắc khoải trong các trại tù được mệnh danh là cải tạo.
Đường lối trả thù thâm độc của nhà nước, đã làm cho biết bao nhiêu gia đình phải lâm
vào tình trạng đổ vỡ, tan nát. Người ta chán Cách Mạng. Chán chủ nghĩa xã hội. Họ
đâm ra thù ghét công an. Căm thù kiểm soát kinh tế. Họ không còn thiết tha gì về hai
chữ hòa bình! Họ muốn có chiến tranh trở lại. Người ta đánh bóng lại hào quang về một
thời chinh chiến ở quá khứ. Quá khứ là quá khứ. Lịch sử sẽ chẳng bao giờ ngừng lại!
Lịch sử vẫn tiếp tục quay đều vào chuỗi không gian lẫn thời gian bất tận. Đấy là điều
hiển nhiên, chăc chắn. Người ta mong đợi trang sử mới được lật sang. Một năm. Hai
năm. Ba năm. Rồi năm năm vẫn chẳng thấy động tĩnh gì! Thời gian cứ lạnh lùng, thờ ơ
đi qua. Buổi sáng, thức dậy, vẫn còn bị ám ảnh, quấy rầy bởi những nhạc phẩm còn
mang nặng sắc thái tuyên truyền, của Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, của Cô Gái
Vót Chông chẳng hạn. Người Sài Gòn không thích loại nhạc này mà ngay đến tất cả
người miền Nam cũng thế. Người ta thích trữ tình, thích ướt át, thích những dòng nhạc
nhẹ nhàng, êm dịu. Người ta không khi nào quên được Nghìn Trùng Xa Cách, Nha
Trang Ngày Về, Bên Cầu Biên Giới, Diễm Xưa, Áo Lụa Hà Đông, Lá Đổ Muôn Chiều,
Thu Quyến Rũ....Người ta thích nghệ thuật trong giá trị cao quí của nó. Đó là món ăn
tinh thần, đã thấm sâu vào cốt tủy của người dân ở tại miền Nam. Nếu đem ra đối chiếu
hoặc so sánh giữa hai dòng nghệ thuật của miền Nam với miền Bắc, thì hầu hết ai nấy
cũng đều phải công nhận rằng: Sự chênh lệch quá xa đã nghiêng hẳn về phía miền Nam.
Con đường nghệ thuật tại miền Nam phát triển không ngừng, biểu hiện đầy tính chất sáng
tạo và đa dạng ở trong đấy. Trong khi đó, tại miền Bắc, nghệ thuật bị ép vào quĩ đạo của
nhà nước, cũng giống như con đường độc đạo, chỉ có mỗi mục đích duy nhất, là phục vụ
và ca ngợi cuộc đấu tranh. Chính vì thế, nghệ thuật bị mất hẳn đi tính chất thuần túy và
cao đẹp của nó. Thoáng chợt, có tiếng còi xe nổi lên inh ỏi ở phía trước. Nga giật mình
lên tiếng hỏi:
“Có chuyện gì đó hở anh!”
Khánh đáp chẳng cần suy nghĩ:
“Anh cũng không biết! Hình như ở phía trước bị đụng xe thì phải.”
Ngoái cổ lại sau lưng, Khánh buột miệng:
“Mình đi đâu bây giờ hở em!”
“Em cũng chẳng biết mình đi đâu bây giờ!”
Khánh đề nghị:
“Hay mình đi xem chiếu bóng đi em. Nghe đâu ở rạp Đồng Tháp, có phim của Cộng Hòa
Dân Chủ Đức hay lắm.”
Lưỡng lự trong giây lát, Nga đột nhiên đổi giọng buồn buồn:
“Bây giờ mình còn tâm trí đâu để mà coi phim nữa, hở anh! Hay mình về nhà đi anh, kẻo
bác gái đợi. Nhiều khi bác còn muốn căn dặn anh thêm điều gì nữa cũng không biết
chừng!”
Khánh bẻ gi đông cho chiếc xe rẽ sang phải, trực chỉ xuống đường Lê thánh Tôn.
Con đường trầm mặc, râm mát, gợi cho anh nhớ đến những năm tháng tươi vui thuở nào.
Những năm tháng mà người ta rạo rực, nhộn nhịp dẫn nhau đi mua sắm, để chuẩn bị cho
mùa giáng sinh bừng đến. Giáng sinh là mùa tràn trề hy vọng. Mùa của yêu thương.
Mùa mà thiên chúa trước đây được sinh ra trong máng cỏ thấp hèn, nơi hang Bê Lem
hoang vắng. Mùa mà ai nấy đều cảm thấy hân hoan, rạo rực trước âm điệu nồng nàn, thôi
thúc của những bản thánh ca bất hủ. Những mùa giáng sinh tuần tự chìm khuất ở trong
anh từ lâu. Nó mất hẳn đi tính chất hồn nhiên, vô tư như trước đây. Khánh thoáng chợt
nghĩ đến bố, đến mọi kỷ niệm êm đềm của một thời thơ ấu dật dờ hiện về. Khánh nhớ
đến từng đôi xăng đan nhỏ nhắn, xinh xắn mà bố thường sắm cho anh vào những dịp
giáng sinh. Từng cây kem ngọt lịm, thơm phức mà anh đã có dịp đi xem chiếu bóng với
bố cùng mẹ ở rạp Rex. Từng tô phở bò viên còn bốc khói, ngạt ngào với những lát hành
Tây trông thật đẹp mắt, xinh xắn, hấp dẫn ở góc chợ Bến Thành. Khánh mường tượng ra
từng nụ cười hiền từ cho đến mọi cử chỉ cùng lời nói dịu dàng, trầm ấm mà bố thường nói
với anh. Âm thanh đó hình như vẫn còn vất vưởng, luẩn quất ở quanh đây. Chuỗi ngày
tháng mộng mị, hồn nhiên ấy, đã lần lượt tan loãng theo tuổi thơ, rồi lịm ngấm, khoanh
tròn, ngủ say ở dưới tận chiều sâu của ký ức. Anh ngoảnh lại bùi ngùi, luyến tiếc. Khánh
ném niềm suy tư về bố, về nhà tù, về nỗi mệt mỏi, chán trường cùng chuỗi thở dài nghe
thật não nề buồn vô hạn. Anh nghĩ đến ngày về của bố thật mơ hồ, thăm thẳm, cùng nỗi
xót xa, tuyệt vọng mà bố thường thố lộ với mẹ vào các dịp thăm nuôi gặp mặt. Anh liên
tưởng đến cái gánh nặng, mà mẹ đã phải đưa vai ra gồng gánh suốt cả bao nhiêu năm
trường miệt mài, ròng rã. Khánh không biết, rồi đây, mẹ sẽ còn phải chịu đựng cho đến
chừng nào nữa! Một khi mà tình trạng sức khỏe cứ từ từ bước vào thời kỳ hao mòn, suy
yếu. Nghĩ đến đấy, tự dưng anh thấy dơm dớm nước mắt. Con đường chạy dài hun hút,
hàm chứa với biết bao nhiêu nỗi rã rời đương bành trướng, đục khoét ở trong anh. Ngày
mai anh đi rồi. Xa rời khỏi thành phố này. Thành phố đã gắn liền với anh, kể từ khi anh
mở mắt, cất tiếng khóc đầu tiên để chào đời. Thành phố mà trước đây anh cứ ngỡ rằng,
chẳng bao giờ anh phải rời xa nó! Ngày mai anh đi. Rời xa tất cả mọi người trong gia
đình cùng họ hàng thân thuộc. Giã từ Nga cùng bạn bè. Ra đi là để xây dựng nền móng
hứa hẹn cho tương lai. Khánh không biết, rồi đây đời mình sẽ ra sao! Tương lai là cả
những dấu chấm, dấu hỏi to lớn, chập chờn, mờ ảo, lunh linh ở phía trước. Khánh miên
man suy nghĩ. Câu nói mẹ dặn đi, dặn lại còn văng vẳng ở bên tai:
“Nếu Chúa thương mà cho con sang đến bên đấy được bình an, thì con phải ráng chịu
khó học hành để nên người. Con phải ra sức cố gắng. Phải nỗ lực phấn đấu, bởi vì, chỉ
có mình con cô thân độc mã nơi xứ lạ quê người. Mẹ biết rằng: Cho mình con đi là mẹ
đã phải đau lòng, đứt ra từng khúc ruột, nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu, nên mẹ mới buộc
lòng phải cho con đi. Giả thử, nếu con có ở lại, thì cũng chẳng bao giờ ngóc đầu lên
được! Bây giờ là thời buổi của người ta. Bởi thế, mẹ nhận thấy, chỉ có mỗi con đường
duy nhất là lo cho con đi. Chỉ có ra đi là thượng sách, là còn có tương lai. Chứ mẹ cũng
đâu có còn cách nào khác hơn được nữa! Lo cho con đi, là mẹ phải chạy đôn, chạy đảo,
vay đầu này, nợ đầu kia, chứ mẹ đâu có thể lo thêm được nữa! Hiện giờ bố con còn nằm
ở trong tù. Các em con còn nhỏ dại. Mẹ không biết, rồi đây mẹ sẽ còn lo được như thế
này nữa không! Mẹ chỉ sợ, đến một ngày nào đó, tình trạng sức khỏe của mẹ sẽ tuần tự
yếu đi. Chính vì thế, mẹ chỉ biết trông cậy, đặt hết sự tin tưởng ở nơi con. Bởi vì, con là
đứa con lớn ở trong gia đình. Nói dại, nếu con không biết suy nghĩ, rồi đâm ra hư hỏng,
thì hậu quả sẽ mang đến cho gia đình mình hết sức là tai hại biết chừng nào. Và! Đấy
cũng chính là điều mà mẹ chưa khi nào dám nghĩ đến! Mẹ tin rằng, con sẽ hiểu được
điều đó. Mẹ không muốn cắt nghĩa cho nó dài dòng văn tự ra làm gì! Bao nhiêu năm mẹ
cho con ăn học, con phải biết nghĩ đến bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với gia
đình. Chớ dại dột mà đua đòi, tập tành theo chúng bạn ăn chơi rồi sao lãng việc học
hành thì phí cả một đời con ạ! Con nên nhớ rằng: Mọi người trong gia đình minh đều
đặt hết sự tin tưởng ở nơi con. Nếu con biết thương mẹ thì đừng bao giờ để cho mẹ phải
thất vọng!”
“Con hiểu! Hiểu tất cả mọi điều mà mẹ vẫn thường nói với con. Phải phấn đấu. Phải nỗ
lực. Phải kiên trì để vươn lên. Có phải đúng như vậy, không hở mẹ!”
“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông.”
Mẹ vẫn thường mượn câu nói bất hủ này của nhà văn Nguyễn Bá Học để khuyên
bảo, dạy dỗ cho con nên người. Con xin hứa với mẹ. Con biết rằng: Gia đình mình đang
đứng trước thảm cảnh đen tối và bi đát nhất. Con thấy rõ điều đó. Thấy mà con chẳng
làm được việc gì để đỡ dần cho mẹ! Đấy mới chinh là điều làm cho con khổ tâm và chua
xót vô cùng.”
Thoáng chợt, Khánh bật lên tiếng thở dài. Nga rót nhẹ bên tai anh:
“Anh buồn à!”
Khánh gật đầu, không nói. Nga lấy giọng bình tĩnh:
“Ngày mai em phải thay mẹ đi thăm nuôi bố, nên em không thể tiễn chân anh được!
Mong anh thông cảm cho em. Tiện đây, em không biết nói gì hơn, là cầu chúc cho anh
được mọi điều an lành và tot dep trong chuyến đi này, đồng thời gặt hái được những
thành quả rực rỡ ở tương lai.”
Ngừng lại để thấm giọng, nàng thỏ thẻ nói tiếp:
“Em có mua cho anh ít thuốc say sóng. Số lương thực cùng mấy bọc chanh nhào đường.
Anh nhớ giữ kỹ ở bên mình để mà đi đường. Đừng có hoang phí rồi đem cho người này,
người khác, tới lúc cần đến thì không có để mà dùng! Em nghe nói, có nhiều chuyến bị
trục trặc, phải lênh đênh ở trên biển đến gần cả tháng trời. Anh nên nhớ kỹ những điều
em căn dặn. Anh cứ yên tâm mà đi, đừng lo lắng gì cho em hết cả! Nếu may mắn mà
thoát được đến bên đảo, anh lập tức phải đánh điện tín về cho gia đình và em biết tin, để
mọi người khỏi phải sốt ruột, lo lắng về anh! Anh nên nhớ rằng, anh đi rồi thì mọi người
trong gia đình đều trông ngóng tin tức về anh từng giờ từng phút. Còn về chuyện riêng
của hai đứa mình, thì chúng ta hãy phó thác cho định mệnh đưa đẩy. Anh thì em không
biết sau này sẽ ra sao! Còn riêng em, thì lúc nào cũng trước sau như một. Tình yêu em
sẽ đi theo anh, còn thể xác, em sẽ ở lại với lòng người tại thành phố này, để ấp ủ mọi kỷ
niệm bóng bẩy, tươi tốt, vàng son của chúng mình.”
“Anh thành thật cảm ơn em về những gì mà em đã dành cho anh. Thực ra thì hai chữ
cảm ơn nó có vẻ gượng gạo, khách sáo đối với chúng ta kể từ lâu lắm rồi. Nhưng! Anh
không biết phải dùng từ ngữ nào cho nó thật chính xác, hợp lý và sát nghĩa hơn nua!”
Ngừng lại vài giây, anh chậm rãi:
“Quả thật! Em lo cho anh quá đầy đủ, quá chu đáo. Chính vì thế, nó đã gây ở trong anh
một sự xúc động vô biên. Làm sao anh có thể quên được những ân tình mà em đã dành
trọn vẹn cho anh! Những ân tình đó hầu như đã thấm sâu vào huyết quản, vào tim não,
vào từng thớ thịt ở trong anh kể từ lâu lắm rồi. Không bao giờ anh quên! Không bao
giờ! Anh có thể quả quyết với em là như thế.”
Khánh quay sang hỏi cậu bé có thân hình mảnh khảnh, gầy yếu nằm ở bên
cạnh:
“Em tên gì!”
“ Em tên Bình. Còn anh!”
Khánh đáp cụt ngủn:
“Khánh.”
“Hình như suốt từ tối đến giờ anh không ngủ thì phải!”
Khánh lắc đầu:
“Anh ngủ không được!”
“Chắc anh nhớ nhà phải không!”
Khánh buông giọng cộc lốc:
“Ừ.”
Cậu bé trở nên liến thoắng:
“Nếu em đoán không lầm, thì trong đó có cả người yêu của anh nữa!”
Khánh tròn xoe đôi mắt:
“Sao em biết được chuyện đấy!”
Đứa bé trạc độ mười ba, mười bốn, có gương mặt láu lỉnh chợt reo lên:
“Em chỉ đoán mò vậy thôi. Thảo nào, em cứ thấy mặt anh buồn buồn. Sao anh không
đem chị ấy đi theo!”
Ngập ngừng trong giây lát, Khánh nhỏ giọng:
“Chung qui cũng chỉ vì hoàn cảnh va điều kiện không cho phép!”
“Kể ra thì cũng buồn anh nhỉ!”
Khánh nghiêm nghị không nói. Lát sau anh mới lai lên tiếng hỏi:
“Còn em thì sao!”
Nó nhe răng cười hồn nhiên:
“Em thì chỉ có cu ki một thân, một mình. Sao cũng được! Chẳng nói dấu gì anh, em mồ
côi cha mẹ ngay từ hồi còn nhỏ. Sống với người bác ruột kể từ năm em mới vừa lên sáu.
Gia đình bác em thì quá nghèo, cũng giống như bao nhiêu gia đình khác ở tại vùng này.
Đấy! Anh cũng thấy. Người dân ở đây chỉ biết quần quật, lam lũ với công việc đồng
áng, kiếm củi mà vẫn không đủ ăn! Từ ngày có mấy tổ chức vượt biên nổi lên, nên đời
sống ở nơi đây cũng đỡ thở được phần nào anh ạ. Nay, thì chỗ này gọi đi chuyển dầu
cùng thực phẩm mang theo. Mai, thì có đám khác ngỏ ý muốn thuê chỗ để làm địa điêm
nhốt gà. Nhờ đó, mọi người mới có công ăn, việc làm, rồi dôi ra được chút đỉnh. Còn
riêng về phần em, trong mấy năm gần đây, em chỉ làm cho mỗi bà chủ tàu này mà thôi.
Ngoài mấy việc lặt vặt, linh tinh ở trong nhà, thỉnh thoảng, em cũng được bà chủ cho đi
theo mấy người lớn, để chuyển dầu hoặc thức ăn chẳng hạn. Lâu ngày, bà chủ thấy em
siêng năng, cần mẫn, nên bà cũng thương tình, cho em đi chung với gia đình bà trong
chuyến đi đặc biệt này. Sau khi nghe được cái tin ấy, em có cảm tưởng giống y như
người ở trên trời rơi xuống. Thú thật với anh! Chưa khi nào em có cảm giác mừng rỡ và
sung sướng đến như vậy! Sung sướng đến nỗi em không cầm được hai hàng nước mắt!
Em chỉ mong rằng: Nếu may mắn sang được đến bên đấy, em sẽ cố gắng làm lụng, dành
dụm để đền ơn cho bà chủ tàu được phần nào. Sau đó, em sẽ gửi về cho gia đình bác em
ở bên đây. Gia đình bác em đã nghèo xơ, nghèo xác, rồi còn phải đùm bọc, nuôi nấng
cho em suốt cả hằng bao nhiêu năm trời. Em chỉ mong có bằng đấy thôi. Ngoài ra, em
chẳng dám mơ ước đến bất cứ chuyện viển vông, xa vời nào khác anh ạ.”
Bất chợt, cậu bé ngồi bật dậy, khoát tay, ra dấu cho Khánh ngừng lại, rồi ghé sát
vào tai anh nói nhỏ:
“Em nghe có tiếng động ở bên ngoài. Hình như có người nào đó đang đi về phía mình thì
phải!”
Khánh cố gắng lắng tai nghe. Có ánh đèn pin quét ngang rồi vụt tắt. Tiếng chân
người dẵm nhẹ trên lá khô, gây liền ở trong anh thứ cảm giác hồi hộp, lo lắng.
“Ai mà đến giờ này vậy kìa!”
Có tiếng khàn khàn phát ra từ ở dẫy bên kia. Tiếp đến là giọng nói lí nhí nổi lên:
“Làm sao mà biết được!”
Không khí đột nhiên trở nên căng thẳng tột cùng. Có chuyện gì xảy ra bất
thường chăng! Có phải, tất cả mọi người đang hiện diện ở tại nơi đây, đều trở thành vật
hy sinh, lót đường cho chuyến đi đặc biệt này chăng! Khánh thường nghe loáng thoáng
về số trường hợp xảy ra tương tự như vậy. Không bao giờ anh tin! Không bao giờ! Bà
chủ tàu là mẫu người hiền lành, đạo đức. Đâu có lý nào lại trái ngược như thế! Tiếng
chân mỗi lúc một gần và cuối cùng thì dừng lại ở bên ngoài. Tấm liếp được nhẹ nhàng
mở ra. Ai nấy đều hồi hộp, lo lắng. Có tiếng người đàn bà cất lên vừa đủ nghe:
“Chú đứng ở ngoài này trông chừng dùm chị.”
Tiếp đến, là giọng của gã đàn ông nổi lên:
“Vâng! Em biết rồi chị.”
Người đàn bà có thân hình đồ sộ, dềnh dàng bước vào. Mọi người đều thở phào
ra nhẹ nhõm và tươi tỉnh trở lại. Thì ra là bà chủ tàu. Bà đến để làm gì! Để nhắc nhở vài
điều quan trọng liên quan đến chuyến đi này chăng! Bà ta liền dơ hai tay vỗ nhẹ vào
nhau:
“Tất cả hãy thức dậy. Tới giờ rồi.”
Một người nào đó chợt buột miệng lên tiếng:
“Từ tối đến giờ, đâu có ai chợp mắt được tý nào đâu chị!”
Bà chủ tàu liền cất giọng nhỏ nhẹ:
“Chỉ còn mươi mười lăm phút nữa thì chúng ta sẽ rời khỏi nơi này, di chuyển đến một địa
điểm khác để lên tàu. Vậy trước khi rời khỏi nơi đây, tôi chỉ yêu cầu tất cả mọi người, la
phải tuyệt đối giữ im lặng trong khi di chuyển, đồng thời tuân theo sự hướng dẫn của mấy
chú trật tự. Có như thế, chúng ta mới mong đạt được cái kết quả mỹ mãn như ý chúng ta
hằng mong muốn. Nếu rủi ro có trường hợp bất trắc xảy ra. Tôi nói đây là giả dụ thôi
nhé. Lúc đó, chúng ta hãy êm thắm, rút nhẹ ra con đường nhựa mà hôm qua chúng ta đã
xuống xe, tìm một chỗ ẩn nấp thật kín đáo, ngồi chờ sáng để đón xe về thành phố. Bây
giờ thì chúng ta bắt đầu chuẩn bị để di chuyển. Dẫy bên này đi trước. Nhớ là chỉ di
chuyển có một hàng dọc và phải đi sát vào với nhau để tránh khỏi bị thất lạc.”
Ngoái cổ ra bên ngoài, bà ta căn dặn gã đàn ông:
“Chú Hùng chịu khó đi sau dùm chị. Đằng trước có chú Thắng. Còn ở giữa thì có chú
Bằng rồi.”
Gã đàn ông đáp:
“Việc đấy chị cứ để cho em lo.”
Mọi người đều lục tục bước xuống nền đất trong tư thế sẵn sàng chuẩn bị. Khánh
ghé sát vào tai Bình nói nhỏ:
“Nhớ là phải theo sát người đi trước, nghe em!”
“Vâng! Anh cứ yên tâm. Em sẽ không rời họ nửa bước!”
Đoàn người lặng lẽ, âm thầm đi trên con đường mòn nhỏ hẹp. Hai bên, lũ đom
đóm lập lòe, chập chờn trên các hàng dậu, giống như những bóng ma chơi, mà anh vẫn
thường được bà nội kể cho anh nghe hồi còn nhỏ. Đêm tối đen như mực tàu. Đàn chó đã
bắt đầu đánh hơi, gầm gừ, rần rật đuổi theo sau, rồi đột nhiên rống lên, đua nhau sủa ầm ĩ
như muốn phá tan sự tĩnh mịch của đêm buồn. Khánh thả trôi niềm suy tư về với gia
đình. Về Nga. Bạn bè cùng thành phố thân yêu mà anh đã bỏ lại ở sau lưng. Giờ này,
mẹ cùng mấy em đương làm gì! Còn Nga! Chắc mọi người đang trằn trọc, thao thức,
nằm chờ sáng để trông ngóng tin tức về anh, về kết quả sơ khởi của chuyến đi này.
Khánh ngước mắt nhìn lên cõi không gian tĩnh lặng đầy sao. Những vì sao long lanh, lấp
lánh, chập chùng, lung linh lạ. Anh muốn gửi về Nga nỗi xót xa thầm kín, chất ngất ở
trong anh hiện giờ. Cõi trống vắng cùng mọi luyến tiếc về khung trời mộng mị ở quá
khứ. Cuộc đời được ví bằng hai chữ tan” rồi lại “hợp.” Vậy thì chừng nào chúng mình
mới hợp lại hở em! Chắc ngày đó còn xa lắm em nhỉ!
Hiện giờ thì anh đương di chuyển đến địa điểm khác để lên tàu. Rồi đây, con tàu
sẽ đưa anh ra khơi và khoảng cách sẽ càng ngày càng dãn ra thành nghìn trùng cách trở.
Con tàu dù có đưa anh đến bến bờ xa xôi nào đi chăng nữa, thì quê hương vẫn là tiếng
gọi thiêng liêng, trung thực và thiết tha nhất. Với anh! Gia đình, tình yêu, que huong
cùng bạn bè là những món hành trang cao quí nhất, hiện diện thường xuyên nơi đầu óc
anh. Tình yêu cũng giống như sợi mưa đầu mùa, rơi xuống cho cuộc đời thêm tươi mát,
có màu sắc, có thi vị cùng mọi ý nghĩa thầm kín và đặc biệt của nó.
Màu xanh là màu của hy vọng. Màu của tình yêu. Anh muốn màu xanh ấy cứ tô
đậm mãi mãi, cho nó thành mượt mà, óng ả nhiều hơn nữa nơi tâm khảm của mỗi người
trong chúng ta, và đừng khi nào ngả màu, nhạt phai theo thời gian! Anh đặt hết niềm tin
trọn vẹn vào mai sau. Vào chuỗi ngày tháng xa xăm ở trước mặt. Anh tin chăc rằng:
Ngày đó sẽ đến và phải đến. Ngày mà anh vẫn thường nói với em về hai chữ trùng
phùng. Chắc ngày đó vui lắm em nhỉ! Đến khi ấy, anh sẽ chở em trên chuyến xe đi vào
cuộc đời, vào những năm tháng rạng ngời, bất tận của tương lai, của hứa hẹn, của ngà
ngọc hạnh phúc./.
TRANG LUÂN