(Sự kiện có thật, chi tiết do tác giả hư
cấu)
Sau 7
năm tù cải tao, Hữu được tha. Từ trại tù Xuân Lộc,
Hữu về thẳng Saigon, địa chỉ của Hữu trước khi
“đóng tiền đi ở tù” (1). Tuy nhiên nhà cũ của gia
đình Hữu ở đường Trương Minh Giảng không còn. Nhà ấy
đã bị tịch thu trong đợt “Đánh Tư Sản” của Việt
Cộng hồi năm 1978. Vợ Hữu đem con về ở Cư Xá Thanh
Đa, sang lại căn nhà của một sĩ quan chế độ cũ, sau
khi, giống như “mèo tha con”, vợ Hữu đem con đi lang
thang sống tạm vài nơi ở Saigon.
Từ bến xe, Hữu đi
xe ôm về nhà. Xuống xe ngay trước chợ Thanh Đa, nhìn
quanh, Hữu nghĩ thầm: “Chỗ nầy không thể để cho các
con của mình ở được.” Hữu có một kinh nghiệm sống
khi còn đi học, những chỗ chợ búa, không nên để cho
trẻ con ở. Hữu cũng bị ám ảnh bởi câu chuyện “Mạnh
mẫu dời nhà” trong cuốn sách “Cổ Học Tinh Hoa.”
Khi Hữu lên tới cầu
thang chót của lô cư xá gia đình Hữu đang ở, đứa con
gái thứ tư, đang ngồi học thêu với một người quen
trong căn hộ ở ngay đầu cầu thang, thấy Hữu, con bé
chạy ra hành lang, la to “Ba về! Ba về!” Rồi nó nắm
tay chàng dẫn Hữu về nhà, cách đó mấy căn. Đứa con
gái giành lấy cái bao nylon trên tay Hữu. Hữu về tay
không. Tất cả những cái được gọi là “hành trang”
người tù, Hữu để lại cho bạn tù. Đó là những bộ
“quần áo lao động”, là những cái áo, cái quần
treillis vá chằng vá đụp nhiều lớp vì dùng đã quá
lâu, quá cũ, rách, mòn nhiều chỗ. Một ít thức ăn chưa
dùng hết do vợ Hữu thăm nuôi tiếp tế cho… Hữu chỉ
đem về một cái “gô”, là tiếng gọi tắt tiếng
Guigoz, loại hộp nhôm đựng sữa bột của hãng nầy. Hữu
có những mấy cái “gô” còn mới, trắng sáng nhưng Hữu
để lại cho các bạn dùng. Hữu chỉ đem về cái “gô”
dùng lâu nhứt, đen hùi vì khói và móp méo. Hữu muốn
giữ nó để làm kỷ niệm mấy năm tù.
Khi ghé lại sang xe ở
bến xe Tam Hiệp, Hữu mua một bịch chôm chôm, đem về
làm quà cho vợ và các con, như thói quen của Hữu trước
khi ở tù, mỗi khi Hữu đi xa về.
Mấy đứa con gái của
Hữu có mặt đủ ở nhà. Khi cửa mở và Hữu bước vô,
các con chàng reo lên mừng rỡ: “Ba về! Ba về!” Rồi
chúng xúm nhau lại, ôm chầm lấy Hữu. Hữu đưa tay xoa
đầu các con, từ đứa nhỏ nhất trước, sau tới các
đứa lớn. Hữu cảm động, mừng được tha khỏi trại
tù, muốn khóc, nhưng cố nín. Khóc trước mặt các con là
điều không nên, mặc dù, trong trại tù, nhiều đêm Hữu
khóc thầm vì thương - vì thương hơn vì nhớ - các con và
vợ Hữu.
Hữu ngồi xuống ghế,
sau khi đi lên mấy bậc cầu thang cao, Hữu thấy đau ở
mắt cá chân. Đứa con gái ban nãy, lấy cái dĩa lớn, lôi
chùm chôm chôm ra khỏi bao nylon, bỏ vào dĩa, đặt lên
bàn. Hữu bảo các con ăn, nhưng chẳng đứa nào ăn. Chúng
nói: “Chờ má về!”
Mặc dù hôm nay là
ngày học, nhưng khi Hữu về tới nhà thì đã quá giờ
tan trường, các con đã về đủ, chỉ còn cậu con trai
duy nhứt, đi chơi đâu dó, chưa về. Nghĩ tới đứa con
trai ấy, Hữu thấy buồn buồn trong lòng. Riêng về các
đứa gái, Hữu lại thấy vui vui vì đứa nào cũng học
giỏi. Đứa lớn nhứt đang học năm cuối ở đại học
sư phạm, thay vì học y khoa như đã ghi trong đơn xin thi,
vì lý lịch số 13 (2). Đứa kế, đang học lớp cuối cấp
3, từ kinh nghiệm của chị, nó đang xin mẹ cho vượt
biên để được vào đại học.
Đứa con út, con gái,
tới đứng sát bên chân Hữu. Hữu đang ôm nó vào lòng.
Khi Hữu đi tù, đứa út ấy mới 3 tuổi, chưa đi học.
Bây giờ nó 10 tuổi, đang học lớp 5, lớp cuối cấp 1.
Bỗng đứa con thứ
hai nói:
- “Ba quên rồi ba?”
- “Ba quên gì?” Hữu
hỏi con.
Con bé cười rúc
rích, trước khi trả lời:
- “Con út ba nó đang
chờ ba chê thúi đó.”
Hữu “à” lên một
tiếng, xin lỗi và cười vui:
- “Thôi chết rồi!
Ba ở tù lâu quá, ba quên mất rồi.”
Khi chế độ cũ còn,
Hữu đang làm việc. Mỗi chiều đi làm về, thay áo quần
xong, Hữu ngồi vào ghế xô-pha uống nước, tay vòng ôm
đứa con út đứng bên cạnh. Tính Hữu hay đùa. Sau khi
hôn con xong, Hữu đưa tay giả bộ bốc vào đít nó một
cái, đưa lên mũi ngửi, cười nói: “Đít thúi quá!”
Vợ con Hữu xúm lại cười. Hữu nói đùa: “Thúi nhưng
ba thích. Ba thích ngửi cái đít thúi nầy!” Tất cả các
con phá lên cười. Có đứa còn nói đùa “Ba dơ quá! Ba
dơ quá”.
Cái trò đùa “Ba dơ
quá” diễn ra mỗi chiều như vậy, sau khi Hữu đi làm
về. Con bé út nghĩ rằng qua cái trò bốc thúi đó, nó
được ba cưng. Nếu như có một hôm nào đó, chưa kịp
“bốc đít” đứa con út thì nó cứ xẩn vẩn bên cạnh,
chờ Hữu diễn trò. Những lúc đó, Hũu lại đùa, vừa
bốc đít nó mấy cái, vừa xin lỗi, vừa nói: “Đít
thúi quá. Thúi quá! Ba thương cái đít thúi nầy quá!”
Bây giờ, đứa con út
lại đứng bên cạnh Hữu. Hữu không để ý con chàng nhớ
và muốn diễn lại cái trò cũ hay không, nhưng đứa con
gái thứ hai, tinh ý, nhớ chuyện cũ và nhắc Hữu. Hữu
sực nhớ, bốc vào cái đít nó, lại nói to “Đít thúi
quá! Ba thương quá!” Nhưng Hữu chợt thấy cái trò diễn
ấy có phần nhạt đi. Đứa con út của Hữu đã lớn, và
Hữu thấy cái gì cũng hơi lạ lẫm, ngay cả với con.
Chúng đã lớn cả rồi, và Hữu thấy băn khoăn, nghĩ tới
tương lai. Trước kia, Hữu ít khi nghĩ xa, nghĩ tới tương
lai. Tương lai của Hữu có gì phải lo, phải suy nghĩ. Hữu
sống bình thường như mỗi ngày, ăn, ngủ, làm việc chăm
chỉ, cần cù và lãnh lương về đưa cho vợ…
Khi chưa lập gia đình,
Hữu thường lo lắng cho tương lai của Hữu. Kể từ khi
Hữu có vợ, có con, Hữu lo làm việc, việc nội trợ có
vợ Hữu đảm đang. Mỗi ngày, Hữu có cơm ăn ngon, có áo
quần sạch, ủi thẳng để mặc, cuộc sống êm đềm, có
chi phải lo. Vã lại, từ khi đọc câu thơ của Trần Dần
“Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người, Người vẫn kinh
hoàng trước tương lai” thì Hữu cho rằng, sống trong
chế độ đó, người ta mới phải “kinh hoàng trước
tương lại.” Câu nói của bà Jacky Kennedy cũng ảnh hưởng
tới cách suy nghĩ của Hữu “Đừng đầu độc mình bằng
tương lai của mình.” Theo Hữu nghĩ, đó là một câu nói
“chống Cộng” nhưng với bản thân Hữu, trong chế độ
cũ, Hữu thấy cuộc đời nó như thế, có gì phải bận
tâm.
Một lúc sau, đứa
con lớn của Hữu nói: “Cuối cùng rồi ba cũng về.”
Tuy Hữu hiểu ý con,
nhưng chàng cũng hỏi: “Nếu ba không về thì sao?”
- “Không ai hại mình
được cả, nếu trời không muốn.”
Hữu lại hỏi: “Cách
mạng” cũng vậy, phải không?”
Con gái Hữu nói: “Nếu
“Cach mạng” làm được như họ muốn thì gần hai mươi
triệu người miền Nam nầy chẳng ai sống được cả, có
riêng gì những người như ba.”
Tránh không muốn nói
đến chuyện chính trị với con, Hữu đi tắm rồi ăn
cơm. Hữu nói với con gái lớn: “Ba ăn một ít cho đỡ
đói thôi, chờ má về rồi ăn chung.”
Đứa lớn nói:
- “Má về trễ lắm
ba! Ba chờ được không?”
Hữu nói: “Chờ được
chớ! Má đi xa lắm à?”
- “Ngày nào má cũng
đi, xa lắm, má xuống tận Cần Giuộc mua gạo rồi về
theo ngã cầu Ông Thìn hay qua ngã Phú Lâm. Nhiều ngày Công
An bắt dữ lắm, má đi tắt qua ngã Tầm Vu, thuộc Rạch
Kiến, qua bến đò trên con rạch nhỏ đầu nguồn sông
Bình Giao mà về Saigon, vất vả lắm.”
Hữu ngồi thừ ra.
Vậy mà vợ Hữu dấu chàng. Khi thăm nuôi, vợ Hữu nói
là chỉ ra tới Phú Lâm mua gạo rồi chở về bán ở
Saigon. Từ Phú Lâm về Saigon, chưa dài bằng một phần ba
con đường từ Cần Giuộc về. Những con đường vợ Hữu
lén Công An đi buôn gạo, Hữu đã từng đi qua. Ngã cầu
Ông Thìn thì phải đi qua bót Cảnh Sát Ký Thu Ôn, cửa
ngõ Saigon ở quận 6. Qua Phú Lâm là đi trên quốc lộ 4.
Ngay cả Tầm Vu, một khu vực nằm giữa Quốc Lộ 4 và
cầu Ông Thìn trên liên tỉnh lộ 5A, Hữu cũng đã từng
đến rồi. Trong chiến tranh, Tầm Vu là nơi chiến cuộc
xảy ra không ít lần, có những trận rất lớn. Hữu từng
tham dự vài trận đánh ở đó. Một lần, một đơn vị
lớn Việt Cộng chưa kịp rút về mật khu Ba Thu, bị vây
ở Tầm Vu. Việt Cộng phản công dữ, đơn vị của Hữu
phải xin pháo binh của chi khu Bình Chánh yễm trợ tối
đa, lại chi viện thêm 4 khẩu pháo của pháo binh sư đoàn
7 nữa, rồi xin thêm hai phi tuần oanh kích vị trí địch
trong rừng dừa nước. Dù sao thì hồi đó Hữu cũng không
gian khổ như vợ chàng bây giờ. Di chuyển tới trận địa,
Hữu đi bằng xe hơi quân đội. Chỉ khi vô mục tiêu, Hữu
mới phải lội bộ với lính. Đường liên tỉnh 5A hay
Quốc lộ 4 là đường nhựa. Ở Tầm Vu, toàn đường rải
đá, chưa có khúc nào có nhựa, gập ghềnh, khó đi. Vậy
mà vợ Hữu ngày nào cũng đạp xe đạp trên con đường
đó để trốn Công An. Mỗi ngày, mỗi năm 365 ngày, có lẽ
chỉ trừ vài hôm Tết ta, cũng gần năm, bảy năm trời
đằng đẵng như vậy, từ Thanh Đa đạp xe đi và về, xe
đạp của vợ Hữu phải nuốt một đoạn đường dài
hơn 50Km, chở theo ba bốn chục ký gạo trên đường về
để kiếm chút tiền lời nuôi con ăn học, và nuôi chồng
ở trong tù. Nhìn lại một quá trình nặng nhọc như vậy,
hỏi ai không khỏi kinh hoàng. Đúng vậy đấy, đúng là
một chế độ “kinh hoàng trước tương lai.”
Mãi đến khi trời
chiều bên ngoài cửa sổ xuống đã lâu, nhìn mầu trời
thẩm đen dần dần, Hữu thấy lo cho vợ, thì các con Hữu
nghe tiếng guốc gỏ nhẹ ngoài hành lang. Chúng biết mẹ
đang về, bèn kéo Hữu vào buồng, khép cửa lại đẻ gây
cho mẹ sự ngạc nhiên chơi. Hữu ngồi trong buồng, nhìn
qua khe cửa. Hữu thấy vợ vào nhà. Vợ Hữu, nón lá cầm
tay, áo bà ba mầu xanh sẫm, hình như ướt đẫm mồ hôi
ở nách áo, quần đen, guốc cao, trông có vẻ mệt, phờ
phạc. Thấy cơm còn để nguyên trên bàn, vợ Hữu hỏi:
- “Răng mấy đứa
con chưa ăn, chờ má chi! Ăn sớm lo học bài.”
Vợ Hữu thấy chùm
chôm chôm trên dĩa, bèn hỏi:
- “Chôm chôm ai mua?
Ai mua ri?”
Các con, đã dặn
nhau, không đứa nào trả lời, nhìn mẹ cười. Như có
linh tính, vợ Hữu hỏi:
- “Ba về? Ba về
phải không?”
Rồi vợ Hữu nhìn
vào phòng, qua khe cửa thấy Hữu trong đó, liền chạy a
vào, la to: “Ba về! Ba về.” Tiếng la như một sự mừng
rỡ, thảng thốt mà thốt ra, chứ mấy đứa con, đứa
nào cũng biết “Ba về” rồi, vợ Hữu gọi to với ai.
Vợ Hữu, nhanh như một cơn gió, xô cửa chạy vào phòng.
Thấy Hữu ngồi ở mép giường, vợ Hữu ôm chầm lấy
chồng, nói như đứt hơi. “Anh về, anh về rồi.” Rồi
đè ngữa Hữu xuống giường, nằm chồng lên người Hữu.
Vợ Hữu tiếp tục nói, mỗi lúc giọng càng nhỏ lại,
lã đi vì hồi hộp, sung sướng: “Anh về! … Anh…
về…rồi!” Rồi hôn vào mặt Hữu. Hữu có cảm giác
rất rõ, những giọt nước mắt của vợ Hữu chảy tràn
trụa trên má chàng!
Ngày hôm sau, mừng
chồng về, vợ Hữu ở nhà. Cô ta nói với Hữu:
- “Ở nhà một bữa
với anh cho vui. Nghỉ một ngày cũng chưa chết ai!”
Các con đi học cả,
nhà chỉ còn hai vợ chồng. Hữu nằm nghiêng bên vợ, ôm
ngang lưng. Hữu đưa tay sờ từ bụng lên ngực, rồi mặt
vợ, Hữu nói:
- “So với các con,
em ít khác đi. Các con đứa nào cũng lớn mau quá, còn em
thì vẫn cứ như Gina Lollobrigida.”
- “Làm gì?! Già thì
xồ xề đi chớ! Nịnh vợ nữa!” Vợ Hữu vừa cười
vừa nói.
- “Nịnh đâu! Thiệt
mà. Em nhớ hồi đó anh cứ ví em với Gina hay Sophia Loren.
Vòng ngực, vòng eo, tưởng như làm nổ mắt mấy thằng
chạy theo em!”
- “Nhưng có ai được
em đâu! Chỉ có anh không bị nổ con ngươi?”
- “Tại vì, tại vì…
anh có… mắt thần! Hồi ấy “Anh theo Ngọ về” muốn
gãy cả hai chân. Tiếc hồi đó em không chụp hình để
treo chơi.” Hữu nói.
- “Mắc cỡ chết!
Ai mà ở truồng cho người ta chụp hình.”
- “Vậy mà hồi đó,
anh bạn họa sĩ cùng khóa Thủ Đức, thấy em lên thăm
anh, hẹn với anh ra trường sẽ về nhà mình vẽ cho em
một bức khỏa thân. Tiếc thiệt!”
- “Tiếc chuyện
chi?” Vợ Hữu hỏi.
Hữu nói:
- “Anh bạn đó tên
là Quách Hữu Tuyền. Vì bằng tú tài của anh ấy là bằng
Tầu, không được bộ Giáo Dục xác nhận tương đương
với bằng Việt Nam, buộc anh ta phải đi binh nhì nên anh
đào ngũ. Anh ta nói anh trốn về Saigon, hẹn gặp anh ở
nhà ca sĩ Th. Th. Ra trường, anh không có dịp tìm anh ta ở
chỗ đó. Nếu gặp được, nay em có bức tranh đẹp rồi.”
- “Kỳ chết!” Vợ
Hữu trả lời.
- “Kỳ gì! Em nhớ ở
quê, cả thị xã, có ai không nói em giống như tài tử
ciné.”
Một lúc, Hữu nói:
- “Cho anh nhìn thân
hình em lại chút đi, nhớ quá!”
- “Kỳ chết! Ban
ngày ban mặt mà anh.”
- “Nếu ban đêm như
tối qua thì thấy chi mà coi. Coi ban ngày mới đã con mắt
chớ!”
Nói xong, Hữu ngồi
bật dậy, từ từ kéo lưng quần vợ xuống. Hữu nhìn
vào âm hộ vợ, kéo chân vợ dang ra, và Hữu sững sờ
khi thấy một vết nám đen ở phía dưới cái ấy của
vợ. Hữu nghĩ ngay đến những đoạn đường dài vợ Hữu
đạp xe đạp mỗi ngày. Rõ ràng vết nám nầy là kết
quả của những ngày, những tháng, những năm dài đạp
xe đạp trên những con đường gian nan, khổ cực của vợ
chàng.
Dù Hữu không giàu,
nhưng trong những tháng năm vợ chồng sống bên nhau, có
bao giờ vợ Hữu khổ như thế, đạp xe đạp nhiều như
thế. Hồi mới cưới nhau, đầu thập niên 60, Hữu có
chiếc xe Vélo, đi đâu cũng hai vợ chồng đi với nhau,
Hữu đèo vợ sau xe. Rồi Hữu sắm xe Vespa, xe Honda, rồi
tới chiếc xe hơi Mazda 1200, vợ Hữu bán sau khi Việt Cộng
chiếm Saigon. Vậy mà bây giờ, cái vết nám…là chứng
tích nỗi gian khổ của vợ. Hữu xúc động mãnh liệt vì
cái vết nám chứng tích đó, vết nám chứng tích sự đày
đọa của một chế độ hà khắc đối với người dân
của nó. Sự hà khắc đó đã đem đối xử với bất cứ
hạng người nào, giàu nghèo sang hèn thì cái chế đó
cũng cần phả đánh đổ nó đi, không bao giờ người dân
lương thiện chấp nhận một chế độ hà khắc với dân,
không để cho nó được tồn tại một ngày một giờ
nào. Rồi Hữu gục trán vào chỗ u trên âm hộ vợ. Hữu
cảm nhận rất rõ những sợi lông mềm cọ vào trán
chàng. Hữu thương vợ quá… những ngày dài gian khổ,
những đoạn đường dài, đá sỏi, gập ghềnh, khúc
khuỷu vợ Hữu phải đạp xe đi qua suốt những mùa mưa
nắng, những ngày nóng, ngày lạnh của khí hậu miền
Nam. Không ngày nào vợ Hữu không đạp xe đi. Không đạp
xe đi lấy gì nuôi đàn con nhỏ, nuôi chồng trong tù.
Hữu có cảm tưởng
như mình có thể khóc được, khóc ngay tại chỗ. Nhưng
Hữu cố nín. Khóc là xấu hổ, là hèn. Nhưng nếu thương
vợ quá mà khóc, nước mắt Hữu sẽ rơi ngay xuống chỗ
đó. Vợ Hữu sẽ hiểu. Hữu không muốn để vợ thấy
nỗi xúc cảm mãnh liệt của Hữu trong lúc nầy, Hữu cố
nín.
Một lúc vợ Hữu
hỏi:
- “Cái gì vậy anh?”
Lợi dụng lúc đó,
Hữu cởi phăng cái áo may ô ra, kéo lên phía đầu. Trong
một tích tắc rất nhanh, lợi dụng việc cởi áo, Hữu
đưa áo quẹt nhanh vào hai mắt, lau nhanh, nếu như có giọt
nước mắt nào nơi đó. Rồi Hữu quay người nằm chồm
lên người vợ. Có lẽ lúc đó vợ Hữu đang nhắm mắt
nên không thấy gì. Với lòng thương vợ dào dạt và nỗi
uất hận đang dâng tràn lên, Hữu vội vàng vòng hai tay
ôm lưng vợ thật chặt, xiết mạnh, trước khi có những
hành động nối tiếp khác của một người chồng.
hoànglonghải
(1) Câu nói các tù cải tạo thường nói mỉa
về mình
(2) Những học sinh có cha mẹ đi tù cải tạo,
đều bị xếp loại lý lịch số 13, không được vào học
các ngành “quan trọng” (theo sự phân loại của chế
độ) như Y Khoa hay Kỹ Sư. Các học sinh nầy bị chuyển
qua học các ngành khác ít “quan trọng” hơn, dù khi thi
vào có được điểm cao.