小
酌
拙 妻 不 信
尙 朱 顏
笑 把 菱 花 送 與 看
試 酌 小 杯
還 自 炤
分 明 红 氣 動 眉
端
高伯适
Tiểu chước
Chuyết
thê bất tín thượng châu nhan
Tiếu
bả lăng hoa tống dữ khan
Thí
chước tiểu bôi hoàn tự chiếu
Phân
minh hồng khí động mi đoan
Cao Bá Quát
Dịch
nghĩa:
Người
vợ vụng về của ta không tin mình còn nhan sắc mặn mà
Mỉm
cười cầm cái bông ấu đưa cho ta cùng
xem
Nàng
rót cho ta chung rượu nhỏ (trong đó) phản chiếu
Rõ
ràng khí sắc hồng nhuận (khiến nàng cũng) nhíu động đôi mày đoan chính.
Ghi
chú về cái bông ấu trong bài:
Ấu, tên Hán Việt là lăng (chữ Hán: 菱 – bính âm: ling), tiếng Anh gọi bằng nhiều tên: water
caltrop, water chestnut, buffalo nut, bat nut, vân vân, thuộc hai loài Trapa
natans và Trapa bicornis, một loại cây thủy sinh, được trồng trong
ao hay ruộng nước như sen hay súng để lấy trái làm lương thực. Trái ấu, thường
được gọi lầm là củ (ca dao: “Thương nhau củ ấu cũng tròn…”), loài Trapa
bicornis màu đen hay nâu cũ trông giống bộ sừng trâu tí hon (cho nên tiếng
Anh có tên là buffalo nut). Trái của
loài Trapa natans có bốn cạnh, đầu
mỗi góc cạnh là một gai nhọn. Cả hai loài ấu này đều có ở Việt nam, nhưng dường
như củ ấu “sừng trâu” được biết nhiều hơn.
Đây
là loại cây lương thực phụ lâu đời của nhiều dân tộc cho đến thế kỷ trước, có mặt
ở khắp cả châu Phi, Châu Âu và châu Á. Người ta thấy củ ấu được ghi chép từ rất
sớm trong sách Chu Lễ của Trung quốc,
khoảng thế kỷ 2 trước công nguyên. Thời đó, củ ấu được coi là một loại lương thực
quan trọng dùng làm lễ vật cúng tế. Còn theo sách Bản thảo bị yếu của Uông Ngang (Tàu), thế kỷ 17, thì củ ấu có tính
mát, giải cảm và giải rượu.
Củ
ấu luộc chín, gọt bỏ vỏ bên ngoài, thịt bên trong màu trắng, ăn bùi bùi, như hột
mít. (Có người nói ngon hơn hột mít). Ngay ở thành phố Sài Gòn thỉnh thoảng thấy
có người đẩy xe ba-gác chở củ ấu đi bán dạo.
Dường
như không mấy người quan tâm chuyện củ ấu có mặt ở Việt Nam từ bao giờ. Chỉ biết
củ ấu mang một hình ảnh mộc mạc, dân dã và rất quen thuộc. Bông ấu cũng chẳng
phải loại hoa sang trọng hay hiếm quý gì. Đó chỉ là một thứ hoa màu trắng đơn
sơ có bốn cánh, (Google image cho thấy loài Trapa
natans hoa có màu đỏ), là một trong những thứ hoa bình dị, chất phác của đồng
quê. Khi đưa cái bông ấu cho chồng xem,
có lẽ bà Cao Chu Thần muốn nói mình giờ đây không còn giữa thời xuân sắc, mà giống
như cái bông ấu quê mùa bình dị này. Nhà thơ tài hoa họ Cao, người mà theo một
số giai thoại văn học nói, từng tự cho mình chiếm hai trong số bốn bồ chữ của
thiên hạ, đã gián tiếp cải chính cái ý tự khiêm của vợ và đã khen bà một cách
kín đáo và tao nhã: trong bài thơ, ông mô tả sắc mặt hồng nhuận đoan trang của
bà phản chiếu trong chung rượu bà rót mời chồng.
Do
kiến thức văn học hạn hẹp, người viết không biết bài thơ Tiểu Chước này được chép hay lưu truyền ở đâu hay trong tác phẩm
nào của Cao Bá Quát. Bài được dịch và giới thiệu ở đây là căn cứ theo bản chữ
Hán do người bạn rất nhiệt tình tìm tòi và giới thiệu thơ chữ Hán của tiền
nhân, là Lại Quảng Nam, đưa cho đọc. Cám ơn người bạn đất Quảng này.
Dịch
thơ:
Mời chồng uống
rượu suông
(lục
bát)
Nhà
tôi đang nghĩ mình già
“Chàng
xem cây ấu nở hoa đây này!”
Mời
chồng chén rượu trên tay
Ánh
vui tươi nhuận nét mày đoan trang
*
(song
thất lục bát)
Nàng
nghĩ mình lúc này già xấu
Đưa
chồng xem bông ấu trên tay
Mời
ta chung rượu rót đầy
Lung
linh phản chiếu nét mày thắm tươi
*
(thất ngôn tứ tuyệt)
Nàng
nghĩ dung nhan đã luống rồi
Trao
chồng hoa ấu để xem chơi
Mời
ta chung rượu còn tương ánh
Hồng
nhuận đoan trang nét rạng ngời
Bài
dịch tiếng Anh:
Having a
small glass of wine
By
Cao Bá Quát
My wife
doesn’t believe in her charm and beauty
Smiling she
shows me a flower of trapaceae family
Then she
offers me a small glass of wine
Which reflects
herself - so lovely and benign.
Thiếu
Khanh.