Chiều
ngồi trên Đỉnh Đèo Bay
Ngó về
Phan Thiết lòng ray rứt buồn
NĐN
1. Đỉnh
Đèo Bay
Từ đỉnh
đèo nhìn về hướng đông, thành phố Phan Thiết hiện
lên rõ ràng, phân biệt được cả những khu phố, vùng
ngoại ô và bãi biển. Không biết cái tên “Đỉnh Đèo
Bay” có từ bao giờ, nhưng tôi biết chắc nó không thể
có trước năm 1975, vì lúc đó cây gỗ còn nhiều, ít ai
lên đến nơi này. Đây là đỉnh cao nhất trên cụm núi
phụ nằm về phía đông dãy Trường Sơn. Dân làm rừng
chỉ có những người bạo gan mới dám lên nơi này. Tôi
không gan dạ gì, nhưng có chút liều lĩnh nên cũng từng
mò lên tới đây. Ngày đầu tiên đặt chân lên Đỉnh
Đèo Bay, đứng trên một mô đá nhô cao, đưa mắt nhìn
về biển đông, tự nhiên tôi cảm thấy thương quê hương
mình quá đỗi.
“Trông
lên núi ngả đầu chào
Trông ra
ngoài biển, biển nào cũng sâu!”
(Khuyết
danh)
Hai câu thơ
này không biết của ai và cũng không biết đọc nó ở
đâu, nhưng khi đứng trên Đỉnh Đèo Bay, tự nhiên tôi
chợt nhớ ra và nhớ mãi đến bây giờ. Đứng trên Đỉnh
Đèo Bay nhìn về hướng Tây là núi rừng trùng điệp,
nhìn về hướng Đông là biển cả bao la. Ngày xưa ông
Thái Thượng Lão Quân vẽ ra bản Thạnh Thế Hồng Đồ
để phân chia Trời Đất, chắc có lẽ ông ta có một
chút cảm hứng nào đó để “phết” lên quê tôi những
nét đẹp lạ lùng.
Trải tấm
nylon trên phiến đá bằng phẳng. Một xị rượu, vài con
cá khô. Quá đủ. Thật tình quá đủ, tôi cảm thấy như
vậy. Và, chính nhờ cái đạm bạc này mà tôi mới thấy
hết được cái đẹp đơn sơ, giản dị của núi rừng
quê tôi; Cái đẹp vừa uy nghi, kỳ bí vừa phảng phất
một chút đa tình, nên thơ, lãng mạn.
Ngồi trên
Đỉnh Đèo Bay, hớp một ngụm rượu, khà lên một tiếng
thật kêu rồi đưa mắt nhìn ra tám hướng, thả hồn đi
khắp bốn phương mới thấy hết cái thú vị của đời
người. Hình như cái thú vị của đời người không hẳn
hoàn toàn do cảm nhận từ những niềm vui mà đôi khi còn
cảm nhận được từ những nỗi buồn.
Chiều ở
đây thật buồn
Mây đùn
quanh tám hướng
Thung lũng
dày sương mù
Tôi ngồi
nghe gió hú
Lão tiều
phu đốn rừng
Nghe đau
từng nhát búa
Có con
chim lạc đàn
Xoải cánh
chiều qua núi
Rừng ngàn
năm vẫn buồn
Chôn sâu
niềm u uẩn
Người
ngàn năm vẫn còn
Đi trong
vòng lẩn quẩn
Rừng ngàn
năm còn đó
Tôi trăm
năm còn đây
Rừng lắc
lay theo gió
Tôi nhìn
mưa thu bay
Mưa thì
thầm trên lá
Tôi thì
thầm với ai!?
(Thơ
NĐN)
Từ
làng tôi, dân làm rừng đi lên núi Ông (1) bằng nhiều
ngã khác nhau. Tất cả những ngã đường này đều phải
băng qua con đường sắt xuyên Việt, đoạn từ ga Mường
Mán đến ga Ma Lâm. Mỗi giao điểm của lối mòn xe bò và
con đường sắt đều được giới khai thác lâm sản đặt
cho mỗi nơi một cái tên nghe rất là “địa phương”:
Đồi mồi bàu lon, đồi mồi bàu đá, đầu mồi giếng
cỏ v.v… Đầu mồi (2) là nơi xe bò bắt buộc phải
đi qua. Thời chiến tranh Việt – Pháp, lính Tây thường
phục kích ở các nơi này và gây chết chóc rất nhiều
người. Đoạn đường sắt này, hai đầu nối liền với
Mường Mán và Ma Lâm, lập thành một khu vực địa dư mà
thời chiến tranh được mệnh danh là “chiến trường
tam giác”. Sau khi ra tù, tôi trở về sinh sống ở một
ngôi làng nhỏ nằm trong khu vực này. Ngoài việc làm cho
hợp tác xã nông nghiệp, tôi thường lên rừng đốt củi,
hầm than để kiếm sống. Tôi chọn lộ trình “đồi mồi
giếng cỏ” để qua con đường sắt. Khi ấy tôi dành
dụm được một ít tiền, sắm đươc một chiếc xe bò
bánh sắt (3) và, cứ mỗi tuần tôi cùng thằng con trai tý
tẹo của tôi lên núi một lần.
Thong dong
một chiếc xe bò
Nhạc khua
lóc cóc giữa bờ truông sâu
Ngoảnh
nhìn phận số ta đâu
Bóng hình
xưa đã nhạt vào xa xăm
Ở đâu
còn một chỗ nằm
Cho người
thua cuộc về thăm núi này!…
(Thơ Trần
Yên Thảo)
2. Đèo
Vòng Xoay
Trên lộ
trình đến Đèo Vòng Xoay, đường núi cheo leo, xe bò bắt
buộc phải qua một vài địa thế vô cùng hiểm trở,
thường xẩy ra những tai nạn chết người.
“Không
đi thì đói thì nghèo
Mà đi thì
sợ cái Đèo Vòng Xoay”
Hai câu lục
bát dân gian này không biết có từ lúc nào, nhưng cái Đèo
Vòng Xoay thì đã có từ lâu đời. Nếu cái tên “Đỉnh
Đèo Bay” gợi lên một cảm giác chơi vơi trên một đỉnh
núi cao chót vót, thì cái tên “Đèo Vòng Xoay” lại cho
ta một cảm giác quay mòng mòng như con vụ. Thực ra thì
cũng không đến nỗi như vậy. Đèo Vòng Xoay chỉ là một
khúc quanh rất ngặt, nhưng khổ nỗi là khúc quanh này lại
nằm giữa hai bờ con sông hẹp nhưng rất sâu. Khi chiếc
xe lao xuống dốc, người đánh xe không thể nào điều
khiển được hai con bò. Mà trời sanh cũng ngộ, hai con
vật tự nó cũng biết phải làm thế nào để bảo đảm
an toàn cho chiếc xe (!). Khi gần tới đáy sông thì có một
“gôn” đá lớn nằm chắn ngang. Chao ơi! nếu đâm đầu
vào đó thì… “tía tôi cũng lìa!”. Nhưng không sao,
người đánh xe sau mấy phút đi “six flag” cũng vừa
tỉnh hồn, kịp điều khiển hai con bò quay một vòng rất
ư là đẹp mắt. Khi qua được bờ bên kia, người đánh
xe cảm thấy mình vừa thoát qua một tai nạn! Hú hồn…
3. Đèo
Thằng Cuội
Qua khỏi Đèo
Vòng Xoay một đỗi thì tới “Đèo Thằng Cuội”. Cái
đèo này mới thật “ê ám”. Chiếc xe qua khúc đèo này,
gần như chỉ lăn có một bánh, còn cái bánh kia thì nhảy
“cà tưng, cà tưng” trên những phiến đá lồi lõm như
người ta nhảy đầm. Chiếc xe nghiêng hẳn về một bên.
Người ngồi trên xe lại thêm một dịp “thả hồn theo
mây gió”. Tại sao lại có cái tên “Đèo Thằng Cuội”
nhỉ? Ông Sáu Lầu, người cao tuổi nhất trong làng kể
lại.
– Chú Tám
à! Cạn hết cái chén đó đi rồi tôi sẽ kể cho chú
nghe.
– Dạ được.
– Thực ra,
chuyện này tôi cũng nghe tía tôi kể lại, còn sự thật
thế nào thì tôi cũng không rõ.
Ông Sáu
ngừng lại vài giây, nhấm thêm một ngụm rượu, khà ra
một tiếng rồi kể tiếp.
– Nghe nói
hồi mới khai thông khúc đèo này, chiếc xe đầu tiên qua
đèo bị lật đè chết một người. Người ta không rõ
danh tánh người xấu số. Chỉ biết người này dùng sức
phụ đỡ chiếc xe cho khỏi lật nên bị chiếc xe đè
chết. Những người dùng sức chống đỡ những vật nặng
phụ giúp cho một việc gì đó, người làng mình gọi là
“cuội”. Nên vì vậy mà mới có cái tên “Đèo Thằng
Cuội” đó chú Tám.
– Thưa bác,
còn tại sao mỗi chiếc xe qua đây đều phải ném vào cái
mô đất một nhánh cây hay một hòn đá vậy bác?
– Ừ,
chuyện này kể ra cũng lạ. Nghe nói sau cái tai nạn đó,
đêm đêm thằng Cuội hiện về bảo là ai đi ngang qua đèo
phải ném vào mộ nó một vật gì đó, coi như vun bồi
cho ngôi mộ, nếu không thì lần sau ngang qua đây sẽ bị
lật xe. Chuyện đó hư thực thế nào thì không ai rõ,
nhưng mọi người đều có một ý nghĩ giống nhau “thà
tin có còn hơn không!” và, vì vậy mà cái mô đất mỗi
ngày một cao thêm.
4. Râm
Tiếng
Qua khỏi
đường sắt một đoạn thì phải chui vào một khu rừng
dày đặc, dài chừng vài ba cây số. Ban đêm đi vào khu
rừng này, người đánh xe không thể nào quan sát được
mọi vật chung quanh, nên chỉ nhịp roi “chừng chừng”
vào lưng bò, để tự nó theo lối mòn mà đi. Đây cũng
là một kinh nghiệm của những người đánh xe. Vì quá
rậm rạp, nên nhiều loại thú dữ thường trú ẩn trong
khu rừng này, nhất là cọp. Ban đêm chúng thường ra
đường chận xe. Chúng dọa trâu bò nhảy tán loạn, người
trên xe không may bị té xuống đất là chúng vồ đi ngay.
Cũng tại khu rừng này có một con cọp hung tợn vô cùng.
Người hay súc vật không may gặp phải nó là vô phương
sống sót. Người ta đặt cho nó một cái tên nghe cũng
anh hùng hảo hán lắm: “cọp ba dấu”. Nghe nói, một
đêm nọ, con cọp này phóng đại vào chiếc xe, chân trước
thọc vào bánh xe để kéo lại, không may bị bánh xe
nghiền nát, nên từ đó nó chỉ còn ba chân. Người làm
rừng thường hay quan sát dấu chân cọp để biết chừng
mà tránh, nên mới phát hiện ra con cọp ba dấu này. Nghe
nói từ ngày mất một chân, con cọp lại càng hung dữ
hơn. Nó “hoành hành bá đạo” ở khu rừng này, nên vì
vậy mà khu rừng đâm ra nổi tiếng, rồi dần dà người
ta lượt bỏ đi một vài chữ trong cụm từ “khu rừng
nổi tiếng” để đặt luôn cho nó cái tên là “Râm
Tiếng”.
Một
điểm đặc biệt nữa là khu rừng này có một loài chim
mà trong tác phẩm “Đất Rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi
gọi là “chim lệnh” (4). Loài chim này có một giọng
kêu nghe the thé giống như tiếng trẻ con khóc. Ban đêm mà
nghe tiếng kêu của nó, ắt có người “són” ra quần.
Đặc biệt hơn nữa là loài chim này thường “ở chung
với cọp” bởi vì cọp là loài ăn thịt sống, nên thịt
thối ở kẻ răng làm cho nó đau nhức. Chim lệnh biết
“khai thác” nhược điểm này, nó cà rà theo cọp để
mổ thịt thối ăn. Đang khi răng bị ngứa nhức khó chịu
vô cùng mà có kẻ chịu khó “xỉa răng” giùm thì làm
sao mà không biết ơn cho được! Vì vậy mà vô hình trung
cọp và chim lệnh trở thành đôi bạn thân, sát cánh bên
nhau, nương tựa nhau mà sống (!). Thiên nhiên quả thật
có nhiều điều kỳ diệu. Có lẽ người làm rừng mộc
mạc không hiểu gì về khoa học tự nhiên, cho chim lệnh
là một loài chim linh, muốn giúp người, nên bám sát theo
cọp để lên tiếng báo động kịp thời cho người lẩn
tránh. Vì vậy người làm rừng mới truyền kinh nghiệm
cho nhau bằng một câu nói mà mới nghe qua giống như một
câu châm ngôn nhật tụng: “Nơi nào chim lệnh kêu, nơi
đó có cọp!”
5. Giếng
Tiên
Đến Giếng
Tiên thì phải đi bằng một ngã khác, thực ra tôi rất
ít đến nơi này, vì không thuận đường.
Câu chuyện
dưới đây, tôi cũng chỉ nghe người ta kể lại, không
biết đúng sai và cũng không biết còn có câu chuyện nào
nữa nói về cái huyền thoại “Giếng Tiên” hay không?
Hai chữ “Giếng Tiên” gợi lên cho người đọc một
hình ảnh nên thơ thoát tục. Thực ra nó cũng chỉ là một
khu rừng bình thường, chỉ khác một điểm là ở đây
có một giếng nước rất trong, nhúng tay vào người ta có
cảm giác như đang ngâm bàn tay trong nước đá.
Người
ta thường lên núi đốn củi, hầm than vào mùa nắng, nên
nước uống là một vấn đề vô cùng phiền toái cho
người làm rừng. Thường thì người ta phải mang nước
theo để xử dụng, nếu rủi ro bị đổ thì chỉ còn
cách quay trở về. Cái nắng nóng hừng hực của núi rừng
giữa trưa mà xối lên người một ca nước “Giếng
Tiên” lạnh ngắt thì cho dù người phàm cũng biến thành
tiên. Tôi có nghe lõm bõm một câu chuyện thần bí về
khu rừng này:
Ngày
xưa, có một lão tiều phu đầu tóc bạc phơ, mùa nắng
thường hay lảng vảng ở khu rừng Giếng Tiên. Người ta
không biết ông ở đâu và cũng không biết ông làm gì.
Không ai tới gần ông được. Ông thường ẩn hiện, thấp
thoáng trong rừng như một bóng ma. Một hôm có một cô
gái làm rừng bị ngất xỉu vì cơ thể thiếu nước, ông
già xuất hiện mang cô gái vào một hốc núi rồi hú vang
một tiếng. Cô gái giật mình tỉnh lại, nhìn chung quanh
không thấy ai, nhưng phát hiện ngay bên chỗ mình nằm là
một cái giếng nước trong. Cô gái vì quá khát, nên múc
nước lên uống mà không e dè chút nào. Không ngờ vừa
uống xong, cô gái thấy toàn thân lạnh như băng và rùng
mình một cái, biến thành một nàng tiên xinh đẹp bay
bỗng lên trời.
Nghe
tiếng hú kỳ lạ, có một người tiều phu tò mò lần
theo vách núi đến nơi thì phát hiện ra nơi này có một
bộ quần áo của phái nữ. Người tiều phu tò mò mở ra
xem thì thấy trong túi có một bức tượng hình thù quái
dị, lớn bằng nắm tay. Người làng biết được chuyện,
bèn rủ nhau lên xây một bức tượng cao chừng ba thước,
hình dáng giống như bức tượng trong túi áo. Bức tượng
đó lâu ngày biến thành một hòn đá thiên nhiên, trông
từa tựa như một cố gái đang đứng dựa vào vách núi.
Hòn đá đó ngày nay vẫn còn. Truyền thuyết còn cho rằng
ông lão kỳ bí ở rừng Giếng Tiên chính là vị thần
năm xưa được Thượng Đế sai gánh hai hòn núi từ Bắc
vào Nam. Khi bay ngang qua Phan Thiết, không may bị đứt dây,
nên hai hòn núi rớt xuống nằm ngay bên cạnh quốc lộ 1
ở hai đầu Nam – Bắc thị xã Phan Thiết (5). Có người
còn nói hai hòn núi này là hai ông “tà”, cho nên người
xưa mới đặt tên là “Tà Dôn” và “Tà Cú”. Hai ông
tà này rất ác ôn, “đì” dân Phan Thiết ngóc đầu
không nổi, nên chẳng có ai được làm Vua hoăc làm Tổng
Thống (!). Còn ông thần gánh hai hòn núi thì bị Thương
đế giáng xuống làm “Giám đốc sở kiểm lâm” canh
gác hai ông “Tà”. Ông thần này thích “chạy nhảy
lung tung” hết rừng này tới núi nọ và cứ mỗi năm
đến mùa nắng nóng thì mò lên Giếng Tiên để tắm.
Nghe sao kể vậy, còn đúng sai thế nào thì thật tình tôi
đây cũng “bù”.
6. Đồng
Cá Sấu
Qua khỏi
Râm Tiếng chừng một đỗi, có một ngã rẽ về bên
phải. Đi thêm vài cây số nữa thì đến một cánh đồng
hoang nằm gọn lỏn giữa một khu rừng già mênh mông.
Giữa cánh đồng có một đầm nước sâu. Người làm
rừng gọi cánh đồng này là “Đồng Cá Sấu”. Địa
danh thường thường được người ta dựa vào một biểu
tượng nào đó để đặt ra. Đồng cá sấu cũng vậy, vì
ngay trên mé rừng dọc theo cánh đồng có một hòn đá
nổi, hình thù giống hệt một con cá sấu đang nằm.
Chiều dài khoảng chừng ba thước, bề ngang khoảng năm
tấc. Trên lưng có một vết sẹo dài vắt chéo từ chân
trái ở trước đến chân phải phía sau. Ngoài ra bên hông
còn có ba dấu chân lõm sâu vào khoảng một lóng tay.
Trong một buổi trà dư tửu hậu, tôi nghe người ta kể
rằng, khi xưa có một gã nông phu đang cày ruộng, bất
chợt có một con cá sấu thật lớn bò đến. Người nông
phu này dùng roi cày và đôi chân giết chết con sấu. Con
sấu nằm đó lâu năm, biến thành hòn đá với vết tích
còn hằn rõ trên lưng. Chuyện thật đấy. Nếu độc giả
nào không tin, chịu khó “bao” tôi về Việt Nam một
chuyến, tôi bảo đảm sẽ đưa đến tận nơi để xem
cho biết (!).
Núi rừng
quê tôi còn nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng già rồi
trí nhớ không còn như xưa, nên nhớ đâu kể đó vài
chuyện cho vui, và cũng xin nói rõ đây không phải là một
tài liệu biên khảo.
Nguyễn
Đức Nhơn
———
(1) Núi
Ông nằm phía tây thành phố Phan Thiết,
trong hệ
thống dãy Trường Sơn.
(2) Đầu
mồi là giao điểm của lối mòn xe bò và con
đường
sắt.
(3) Bánh
gỗ bọc niền sắt.
(4) Có
người nói ngoài Bắc gọi là “chim linh”, còn
ở quê
tôi thì gọi là “chim chuông”.
(5) Núi Tà
Dôn nằm phía bắc, cách Phan Thiết
chừng vài
chục cây số. Núi Tà Cú nằm phía
nam, cách
Phan Thiết chừng 30 chục cây số.