Sàigòn đang vào Tết Trung Thu. Sàigòn, bấy giờ đã được đổi tên.
Cũng đúng thôi !
Bởi vì “nó” không còn giống cái “Sàigòn” của thời trước, cái thuở mà
mỗi món vật mỗi con người đều được nhận diện một cách trung thực,
cái thuở mà tiếng nói chưa bị thâm nhập bởi những “mỹ từ... dao to
búa lớn”, cái thuở mà tình cảm còn thật là tràn đầy... Cái tên mới
của Sàigòn có hơi... dài, nên sau này, người ta chỉ còn gọi là
“thành phố”, vừa ngắn gọn lại vừa hợp... thời trang !
Sàigòn bình thường đã rộn rịp. Vào dịp Tết Trung Thu lại
còn rộn rịp gấp bội. Xe cộ – đông nhứt là xe mô-tô, loại sau này
được gọi chung là Honda – chạy đầy đường, chạy loạn, tiếng máy nổ
điếc tai thêm bóp kèn liên hồi inh ỏi. Quán lều cũng đầy đường. Hàng
họ chưng bày cũng đầy đường. Bánh mứt đèn lồng Trung Thu cũng đầy
đường. Coi thật là phồn vinh sung túc.
Trong rừng xe cộ đó, có một người đàn ông cởi xe đạp chở
ba đứa nhỏ. Nhìn anh ta là thấy ngay rằng anh ta không “hợp thời”.
Anh ta còn đội nón Panama, một loại nón mà thời trước người ta nhập
cảng từ Nam Mỹ. Mặc dù cái nón – vốn là màu trắng – đã ngã màu vàng
và vành nón có nhiều chỗ rách tưa..., cái nón đó vẫn thấy lạc lõng
giữa phố phường đầy nón cối, mũ tai bèo, nón lá, nón rơm, nón kết.
Anh ta còn mặc áo sơ-mi sọc, cổ đứng tay dài, mặc dù sơ-mi bỏ ngoài
quần và mang đầy nếp nhăn vì đã không được ủi. Anh còn mặc quần tây
dài màu sậm còn đủ bờ-li và nhứt là còn mang đôi giày da đen mũi
nhọn – loại “xịn” – mặc dù giày đen đã ngã màu xam xám vì đầy bụi
đất.
Trong lúc mọi người ăn mặc rất tự do, rất... giải phóng,
đại loại như áo thun ba lỗ quần đùi dép cao su, hoặc sơ-mi ngắn tay
phạch ngực quần pi-da-ma chim cò dép nhựt hoặc những bộ đồ màu xanh
cỏ úa rộng thùng thình dép lớp xe... thì lối ăn mặc của anh ta –
thật tình – không đúng “tác phong của thời đại” ! Ngay như chiếc xe
đạp của anh ta cũng không hạp với rừng xe cộ chung quanh. Nó ọp ẹp
cũ kỹ, giống như đã được lắp ráp chắp vá bằng những món đồ góp nhặt
được từ những chiếc xe đạp phế thải. Cái giỏ sắt gắn ở phía trước
ghi-đong (thường dùng như pọt-ba-ga) đã được cắt xén để trở thành
cái ghế ngồi cho thằng bé, đứa nhỏ nhứt trong ba đứa. Còn cái
pọt-ba-ga phía sau thì được nối dài ra một chút, mặt được lót ván và
phía dưới có hàn hai thanh sắt ngắn để gác chân. Hai đứa nhỏ còn lại
ngồi trên đó, đứa lớn ôm đứa bé, đứa bé – vì còn nhỏ quá không ôm
được eo ếch của gã đàn ông – nắm chặt lấy vạt áo sơ-mi, nắm bằng cả
hai tay...
Trong luồng xe cộ chạy như điên, hối hả, lòn lách...
người đàn ông thản nhiên đạp chậm rãi vững chắc dọc theo hè phố. Mấy
đứa nhỏ nhìn ngang nhìn dọc, tranh nhau hỏi, tranh nhau nói, líu lo:
- Ba ! Ba ! Coi kìa ! Đèn Trung Thu ở đâu mà nhiều quá
hén ba.
- Ba ! Ba ! Cái gì mà bự quá xá đàng kia vậy ?
- Tại sao ông già ổng ôm cột đèn vậy ?
- Sao ông xích-“dô” ổng nằm ngủ trên xe vậy ?
- Bộ ở đây người ta đái ở gốc cây được hả ba ?
- Cha... Ông này ổng mua tới bốn cái đèn Trung Thu.
- Mình cũng đi mua đèn nữa, hén ba ?
Đứa nhỏ ngồi ở giữa, giọng khàu khàu:
- Anh Việt nói chừng ảnh “dớn” ảnh mua cho con cái đèn
máy bay bự bằng cái nhà ớ !
Đứa lớn ngồi phía sau cười hắc hắc, ôm em nó lắc qua lắc lại:
- Ừa ! Mà Nhi phải đừng nói ngọng mới được. “Lớn” thì
nói “lớn”, chớ cái gì mà “dớn” hả ?
Đứa nhỏ nhứt ngồi trong giỏ phía trước, nói chen vào, cũng ngọng
trớt :
- Anh Nhi ảnh nói “nhọng” “vá” hà. Há ba ?
Làm cả bọn cười vang. Tiếng cười của cha con nhà đó hồn nhiên, thanh
thoát, bị chìm lấp trong dòng thác tiếng động điếc tai, vừa ô-hợp,
vừa khô khan của phố phường đầy người, đầy xe, đầy bụi...
Đến một gốc đường khá thoáng, nghĩa là vỉa hè còn có chỗ
trống, thấy có một xe đẩy treo đầy đèn Trung Thu đủ kiểu đủ cỡ và đủ
màu sắc đang nằm gần đó, người đàn ông rà xe đạp vào lề:
- Tụi con coi kìa, đèn Trung Thu kìa ! Để ba ngừng đây
cho tụi con xuống lựa nghen !
Mấy đứa nhỏ “ồ” lên sung sướng. Đứa bé nhứt bỗng vỗ tay cười hắc hắc
giống như bị cù léc. Nó la
lớn:
-
Đèn ! Đèn ! Đèn ! Đèn !
Thả bầy con
xuống xong, người cha bảo:
-
Tụi con lại đó coi đi ! Lựa đi ! Ba ngồi đây đợi.
Trong lúc mấy
đứa nhỏ vây quanh xe bán đèn lồng, người đàn ông chống chân lên bờ
hè, rút ở túi áo sơ-mi một điếu thuốc . Đó là loại thuốc vấn tay
(sau cuộc “đổi đời”, vì không còn tiền để hút thuốc loại sản xuất kỹ
nghệ nên phần đông dân “ghiền” mua thuốc rê Gò Vấp về trộn với thuốc
vàng Lạng Sơn rồi vấn hút. Nhiều người vấn sẵn ở nhà rồi cho vào bao
hay hộp mang theo mình cho tiện khi cần đi đâu...). Cầm hộp quẹt máy
trong tay lắc lắc cho xăng thấm lên đầu tim, người cha đó hướng về
bầy con nói to, khá to, để át tiếng ồn man dại của thành phố:
-
Tụi con lựa đi nghen ! Lựa đi ! Thứ nào cũng được hết ! Máy bay, xe
tăng, bươm bướm gì cũng được hết ! Đứa nào thích thứ nào thì nói cho
ba biết. Lát nữa về nhà, ba làm cho y như vậy hà !
Nói xong, anh
ta để điếu thuốc lên môi, chẹt hộp quẹt đốt . Bập vài cái cho lửa
bắt rồi hít một hơi thật sâu để thở khói ra dài, thật dài... Làm như
anh ta muốn trút ra theo khói một cái gì đang nghẹn trong lòng ngực.
Chung quanh, người ta, xe cộ đi như loạn.
Tiểu Tử