Chúng
ta chừng như mất hết
Chỉ
còn có nhau.
Gửi
các anh trại hai Sơn La năm 1976-77 như là
lời nhắn gọi.
Người
ta nói người già thường sống quay về với quá
khứ. Vâng, điều này đúng ! Càng đúng
cho chúng tôi, những “cựu tù” trại hai, liên trại
hai, đoàn 776 Sơn La. Tháng chín vừa qua
(9/2012), bọn “bất chiến tự nhiên bại”
chúng tôi lại có dịp gặp nhau tại
nhà “cựu tù” Lê Hùng ở thành phố Westminster,
California.
Cho
dù quá khứ dù có vui hay buồn, dù có hay hoặc dở;
chúng tôi bây giờ đã là những người
“thất thập cổ lai hi”, từ nhiều nơi trên đất
Mỷ, quay về gặp nhau để cùng ôn lại, hướng về
một dĩ vãng “tối tăm” của những năm 1976-1977.
Là những người lính chiến đã “gảy súng” gần
40 năm về trước, vào một ngày cuối tháng Tư, ngày
mà nhiều nhà văn, nhà báo đã gọi là Tháng Tư
Đen, và thi sĩ Thanh Nam đã viết:
Một
năm người có mười hai tháng
Ta
trọn năm dài một tháng Tư
*
Sau
một năm tại các “ trại tập trung cải tạo” Suối
Máu, Long Giao trên miền Nam; tháng
Sáu năm 1976, bọn tôi có lệnh “chuyển trại
”. Cứ 40 người lên một chiếc GMC,
hoặc Molotova bít bùng để bị chở xuống Tân Cảng
Sài Gòn, nhét chật cứng vào những khoang tàu mang
tên Sông Hương, dùng để chở súc vật, chở
than... Suốt đêm mất ngủ, trong tâm trạng thất
vọng đến tận cùng, bọn tôi lặng lẽ nhìn nhau
thở dài. Chen chúc trong những hầm tàu hôi
hám, bẩn thỉu, những tiếng thở dài lặng lẽ,
những tiếng chép miệng âm thầm. Hình ảnh cha
mẹ, vợ con, anh em, các bạn đồng ngũ, bạn đồng
tù kẻ đi người ở.... với tương lai đen tối thăm
thẳm, mịt mù trải dài trước
mặt.
Ban
đầu, chúng tôi cứ nghĩ là họ đưa chúng tôi ra
Phú Quốc, nhưng sáng hôm sau khi nhìn những vệt
nắng chiếu trên thành tàu, đoán được là tàu
đang chạy về hướng bắc.
Sau bốn ngày đêm lênh đênh trên biển
trong những khoang tàu người chật cứng. Kẻ nằm
người ngồi, say sóng la liệt; ăn
uống, đại, tiểu tiện một
chổ.
Tàu
cặp bến Hải Phòng, chuyển sang xe lửa, lại dồn
cứng vào những toa tàu bẩn thỉu cũng dùng để
chở thú vật, than củi. Xe lửa chạy suốt đêm lên
Yên Bái, qua phà Yên Bái, bọn chúng tôi lại bị lùa
lên Molotova. Điểm cuối cùng họ đưa chúng tôi
đến là bản Mường Thải, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn
La. Chúng tôi những người sanh ra và lớn lên
tại miền Nam quen với ruộng vườn, sông rạch, cơm
gạo, cá tôm của đồng bằng bát ngát, trù phú.
Bây giờ đối diện với núi rừng mù mịt, âm u,
lạ lẫm từ cây vầu, cây sặc, cây nứa, cây
bương.... với những âm thanh lạ tai, với tiếng kêu
của con chảo chuộc, tiếng chim “bắt cô trói cột”
hay tiếng oẳng tác, tiếng vượn hú trong rừng....
Chúng tôi ngỡ ngàng nhìn nhau, lắc đầu xót xa cho
số kiếp của những người bại trận.
Sau
một tháng trên miền đất xa lạ của
đất nước Việt Nam; quyết
không chấp nhận lao tù, đầy đọa; bốn người
bạn tù vượt trại, gồm các
anh: Nguyễn văn Nhơn, nguyên tiểu khu Kiên Giang, Mai văn
Tấn, gốc Thủy Quân Lục Chiến, Lê Hùng, gốc tiểu
khu Bình Tuy, Nguyễn văn Ninh, hoa tiêu trực thăng.
Cả trại không ai bảo ai đều cầu nguyện cho bốn
người can đãm này thoát được. Một, là mong
cho những người bạn minh thoát khỏi cảnh giam cầm
tù ngục. Hai, là để nhờ vào họ nói lên cho
thế giới biết rằng đang có một chế độ tù
đày, man rợ tại Việt Nam. Ba, là thể hiện tinh
thần bất khuất của người chiến sĩ miền Nam, để cho
bọn CSVN biết rằng chúng không thể giam cầm, hành hạ
được chúng tôi như họ muốn và rằng họ không
phải là vô địch như họ vẫn tự hào, tự khoe.
Hai
tuần sau, chúng tôi được lệnh dựng gấp năm cái
lều nhỏ bằng tre nứa. Lúc đó, có tin đồn đoán
chừng bốn người vượt trại đã bị bắt lại.
Nhưng, anh em chúng tôi cứ thắc mắc: sao lại tới
năm cái lều? Sáng hôm sau, Linh mục Thành bị
bắt vào trại kiên giam này. Như vậy, cha Thành
là người đầu tiên bị cùm vào một trong các khu
kiên giam ở trại hai này. Nghe nói cha Thành là
người đã trang bị tinh thần, đã cầu nguyện,
khuyến khích cho bốn người đào thoát. Quả
thật, bốn người bạn mà chúng tôi đặt rất
nhiều kỳ vọng đã thất bại sau 16 ngày
trèo đèo, lội suối. Thiên nhiên quá khắc
nghiệt, chỉ sau một cơn mưa, những suối cạn trở
nên đầy nước, chảy xiết qua các gềnh
đá thật nguy hiễm, họ không thể nào vượt qua
được. Chúng tôi nhìn nhau thở dài lặng lẽ.
Lại
chuyển trại, không chỉ chuyển
người, mà chuyển tất cả vật liệu xây đựng
trại. Cả đoàn tù buồn nản khiêng vác, gồng gánh
từ cây cột nhà, từ cái chảo nấu cơm, bàn ghế,
tre nứa... Từ bản Mường Thải chúng tôi bị chuyển
về bản Mường Cơi.
Suốt
ba tuần lễ liền, sáng đi chiều về. Bắt
đầu cho chế độ hành xác từ đây. Đến
một bãi tranh cao ngập đầu hạ trại, cất nhà, làm
rào. Tự dựng trại, tự làm rào, tự giam
mình vào trong, trên mảnh đất dưới chân một ngọn
núi trong dãy Tam Đảo, gần bản Mường Cơi, bên dưới
đèo Lũng Lô, cách huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La khoảng
6 cây số. Chúng tôi đốn nứa đan thành những
tấm tranh - gọi là tranh nứa – lợp nhà. Đốn
cây rừng làm cột, làm kèo. Đan phên nứa làm
giường ngủ....Tự ổn định lấy cuộc sống lao
tù. Tại đây chúng tội được nghe những tiếng
Việt mới, lạ tai như: nội vụ, ăn gô óng cóng,
xích đông,... Nước sông,
công tù, chúng tôi vào rừng chặt cây, đốn củi,
cắt tranh, đào cấp chè thuê cho hợp tác xã bản
Mường Cơi, chuyển gỗ cho hợp
tác xã cưa xẻ. Chuyển gổ là một công việc
lao động rất nặng nề, và rất nguy hiểm; ăn
đói, khuân vác những mảnh gỗ nặng trên triển núi
đá tai mèo trơn trợt, chỉ sơ sẩy là mất mạng
như không. Phải chăng đây là chủ đích triệt
tiêu sức đề kháng, tiêu diệt tinh thần chống đối
của chúng tôi; là sách lược
giết người để trả thù của bọn người thắng
trận trong thế kỷ thứ 20? Chúng
tôi chia xẻ gian khổ, nhọc nhằn, đói rét tại
đây hơn một năm dưới chế độ quân quản của
đoàn 776 (thành lập tháng 7 năm
1976 ). Phải nói, thời gian
này là thời gian dễ chịu nhất trong những năm trên
đất Bắc, được đi ngoài lao động tương đối
tự do; ăng-ten, tuy có, nhưng rất
ít vì dù sao quân đội quản lý cũng dễ thở hơn
ở các trại do bọn công an canh giữ, sau này.
Ở
trại này một thời gian, Ninh lại vượt trại. Đang
đêm, một mình Ninh thoát ra ngoài, đạp lên đá tai
mèo của núi rừng Tam Đảo mà đi. Toàn
trại ngưỡng mộ lòng can đảm, lo
lắng và cầu nguyện cho Ninh. Người sĩ
quan trẻ tuổi của Quân Lực miền Nam,
người đã được đào tạo để
bay bổng, sở trường đi mây về gió, một mình len
lỏi trong rừng già bạt ngàn chớm chở, chấp
nhận hiễm nguy, quyết thoát
vòng tù ngục. Nhưng, thiên
nhiên lại quay mặt với người thất thế. Trong
đêm tối, Ninh trượt ngã, bị thương chân không di
chuyển được, nằm lại hai ngày đói khát, lạnh
lẻo trong tận cùng tuyệt vọng. Cuối cùng Ninh
bị bắt lại.
Đang
từ miền nắng ấm của miền Nam (ấm
cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) chúng
tôi bị đày ra miền lưới núi – Nước Sơn La ma
Vạn Bú – Ở đây, chúng tôi phải nhận chịu cái
lạnh khủng khiếp mùa Đông đầu tiên trên đất
Bắc, có ngày nhiệt độ xuống dưới một, hai độ
bách phân. Người dân địa phương cho biết đã
lâu lắm mới có năm lạnh quái ác như thế. Ăn
đói, áo quần không đủ, đi chân đất trên đường
ướt trơn trợt, dưới mưa, đá tai
mèo sắc như dao, lao động khổ sai. Đói trong,
lạnh ngoài, lao động nặng nhọc sức khỏe chúng tôi
như tuột dốc. “Họa vô đơn chí”, trại chúng
tôi bị cháy trong mùa Đông năm đó. Những gian nhà
dựng tạm; sơ sài che mưa chắn gió, ngăn đở phần
nào sương lam chướng khí, đã bị tai nạn, bắt lửa
trong lần đốt cỏ khô gần trại. Vật liệu
xây dựng trong tinh thần “khó khăn khắc phục” và
“lao động sáng tạo” của chế độ
“Xả Hội Chủ Nghĩa ưu việt”, gồm tre nứa, tranh
cỏ nên bắt lửa thật nhanh. Loáng cái, toàn
trại bị lửa san bằng. Có một số nhà (đội)
bị cháy hết chăn màn, áo quần. Lại màn trời
chiếu đất, trong thời tiết cuối Đông, sương khí
lạnh lẻo của núi rừng thượng du Bắc Việt. Chúng
tôi phải lên rừng khiêng củi (phải
chọn củi to mới cháy bền qua
đêm) về đốt sưởi. Đêm
đêm, mọi người nằm quây co ro bên những đống lửa
hắt hiu như cuộc đời tù hiu hắt. Lại chặt
nứa, cắt tranh; lần này phài đi xa hơn, mãi tận
đèo Lũng Lô, vì “vật liệu xây dựng” gần
trại đã bị chúng tôi khai thác, tận dụng lần
trước.
*
Sau
trên dưới 20 năm lưu lạc trên đất người, những
người tù trại hai Sơn La năm xưa, bây giờ ai cũng đã
trên dưới 70, sau những tháng năm dài làm việc trả
nợ áo cơm, để ổn định cuộc sống trên vùng đất
mới, tự do mà chúng tôi đã chấp nhận là quê hương
mới của mình. Bây giờ, cho dù ổn định hay
chưa, ai nấy cũng đã mắt mờ, tóc bạc, sức khỏe
đã mỏi mòn, quỹ thời gian trước mặt được
tính bằng năm tháng.
Theo
lời đề nghị, kêu gọi của Lê Hùng, chúng tôi gặp
lại nhau tại nhà Hùng vào đầu tháng Chín
vừa qua. Tuy rằng gặp nhau hơi muộn, cũng
có phần vội vàng, nên chỉ kêu gọi được những
anh em ở gần, thường xuyên liên lạc. Nhưng cũng
có những người ở xa về hợp mặt. Đó là Mai Văn
Tấn từ Indiana; Huỳnh Hồng từ Houston, Texas;
Nguyễn Như Được từ San Jose, California; cùng một
số các anh từ các vùng phụ cận.
Hẹn
nhau 2:00 giờ chiều, nhưng 12:00 giờ trưa, anh em đã
lần luợt đến. Những người của 35 năm về
trước, bây giờ hoàn toàn thay đổi ( tất
nhiên rồi !), thật khó nhận được
nhau. Hùng, là chủ nhà, phải giới thiệu lại
từng người, lời
giới thiệu luôn luôn bắt đầu bằng câu hỏi: “Nhớ
ai đây không?”. Chỉ với câu hỏi đã nói lên
sự quen biết ngày nào. Sau những tiếng “ À!”
, “Ồ!” hoặc “
Trời ơi!” là những cái siết
tay và những tiếng cười dòn dả, nhưng vẫn ẩn
chứa vẽ ngậm ngùi. Có
hàng ngàn chuyện để nói, để hỏi, để kể.
Sau đó nó chuyển ông về đâu? Ra trại năm
nào? HO hay vượt biên? Định cư ở đây
(đó) từ đó
tới giờ à ? Còn đi làm hay đã
nghỉ hưu? Tụi nhỏ có
ở gần ông bà không ? ....
Điều
cảm động là Linh Mục Thành cũng đến hợp mặt
với chúng tôi. Trông cha không thay đổi mấy,
nhận ra cha liền, khỏe mạnh hơn những ngày ở tù
nhiều (là tất nhiên !). Cha vui
vẻ đùa “Hôm nay lại được ăn tươi đấy à
? Nhớ chia chác cho đều, cân đong
đo đếm cẩn thận nhá !”; chỉ
là lời đùa, nhưng cả hình ảnh đói rét ngày nào
chúng tôi đã gánh chịu, chia xẻ hiện về. Chen
lẫn những lời kể, những lời nhắc lại những
ngày ở trại hai, và các trại sau đó, là
những câu hỏi về sức khỏe: cholesterol, áp huyết,
đường, mở trong máu ....
Câu
chuyện lại xoay quanh những ngày ở
trại hai, rừng vầu, rừng sặc, nương tranh, đồi
sắn, con suối mát trước bản Mường Cơi, những
buổi trưa hè vác vầu về nghĩ, những cối giã
gạo bằng sức nước trên những con suối nhỏ trong
rừng.... Cả những ngày “đói” thuốc lào,
thuốc lá....
Chúng
tôi cùng ôn lại quảng thời gian nhọc nhằn, tủi
cực, đày ải, lao tù.
Người kể, người hỏi, người nhắc
bổ khuyết. Chen lẩn trong tiếng cười tiếng nói
là tiếng thở dài uất nghẹn. Có lúc không
gian như chùng xuống, mọi người im lặng ngậm ngùi
khi nhắc đến những người đã nằm xuống trong
ngục tù; xác thân đã vùi nông
bên bìa rừng, dưới chân núi trên miền đất đầy
thù nghịch, tàn ác. Chừng
như:
Nước
mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những
người đã chết, chết như rơm.
Tô
Thùy Yên
Sau
vài phút chuyện trò, hình ảnh củ hiện về cho dù
năm tháng đã làm thay đổi không ít. Nguyễn
Hoàng Lâm âm thanh vẫn dòn tan, Nguyễn Như Được
điềm đạm như ông đồ không mặc áo lính, Huỳnh
Hồng, Lê Đình Long vẫn thon thả, nhanh nhẹn như thanh
niên. Còn Bùi Ngọc Long rôm rả bắt chuyện từng
người, Mai Văn Tấn mái tóc muối nhiều hơn tiêu
cười hoài không nghỉ, Lê Công Hân trầm tư như
ông giáo làng, anh Xuân vừa qua cơn stroke nhẹ vẫn cố
gắng tìm về, bình thản chiết tự “chử lâm do
ba chử mộc hợp thành”, anh Sang người thủ
kho, “thủ trưởng” của dao tông, dao quắm trại hai
cũng cười cười kể chuyện, Trần Ngọc Vân, ôn
nhu trầm tỉnh ngồi nghe,
Phùng Quang Thế, người cựu
sĩ quan Lực Lượng Đặc
Biệt giữ “eo” thật khéo,
chừng như “trẻ mãi không già” ....
Duy có người chủ nhà, Lê Hùng xem chừng vui hơn
hết, nhanh nhẹn bắt chuyện người này, hỏi thăm,
đùa cợt người kia, nói cười luôn miệng.
Buổi hợp mặt được nối dài bằng điện thoại
với Võ Ngọc Long, thiết giáp, ở Tennessee; Nguyễn
Văn Chương , BĐQ ở Arizona; Nguyễn Gia Khánh ở
Sacramento.... Nói hoài không hết chuyện:
Ta
về như lá rơi về cội
Bếp
lửa nhân quần ấm tối nay
Chút
rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải
oan cho cuộc biển dâu này
Tô
Thuỳ Yên.
Ánh
đèn từ các trụ điện bắt đầu tỏa sáng lên
thành phố Westminster, một số anh ra về, một
số ngồi lại; cha Thành kiên nhẩn, từ tốn ngồi
lại, thỉnh thoảng góp lời, bổ khuyết cho những
lời chuyện kể. Ninh đến, dù nhà xa và bận
việc, muộn màng vẫn góp mặt. Câu chuyện
lại quay về với lần vượt trại thứ hai
“solo” của Ninh và những ngày nằm trại kiên giam.
Ninh điềm đạm, nhẫn nha thuật chuyện, thỉnh thoảng
thoáng lên nụ cười thú vị về cách hành xử của
bọn người Bôn- sê- vich. Ninh nói:
-
Đánh tôi nhiều nhất là tên cán bộ mập mập đen
đen đội nhà bếp, tên gì tôi quên mất, và tên
cán bộ y tá, cứ cái chân đau của tôi mà nó
đạp. Nhưng đánh độc nhất là tên cán bộ
Hướng và tên cán bộ Dự, nó đứng hẳn lên chân
đau tôi tung những cú đấm thẳng tay vào mạn sườn
tôi. Cứ mỗi cú đánh , kèm theo tiếng chửi
“Địt mẹ mày, địt mẹ mày. “
-
Có cách gì né né, đở được không ?
-
Không, hai tay mình bị còng quặt ra phiá sau, ngồi
bệt trên nền đất, hai chân duỗi thẳng về phía
trước; cả phần thân thể phía trước bày hàng ra
hết, hứng trọn (cười).
Có lúc tôi tưởng xương sườn tôi
gãy vụn. Thú thật, lúc đó tôi kể như mình
đã chết, cả phần thân thể này coi như không còn
là của mình nữa. Mà thật vậy, mình đã
chết từ ngày 30 tháng Tư rồi mà. Kệ.
Có lần, đi uống rượu đâu về, hai thằng luân
phiên vào đánh tôi, thằng này mệt ra nghỉ, thằng
khác vào đánh. Thấy tôi không kêu la, tên đứng
ngoài cười khẩy “Lì nhẩy! “. Từ đó
nó đổi cách chửi sau mỗi cú đánh “địt mẹ
lì, địt mẹ lì” hoặc “lì
này, lì này”..... Bởi nhà
kiên giam hẹp, nếu không chắc hai thằng chơi tôi một
lượt rồi ( cười).
Bọn nó mệt thở ồ ồ mà không
chịu nghỉ, sao hăng thế không biết ( cười).
-
………………………………………………………………
Có
chăng hận thù giửa thế hệ thanh
niên của hai miền đất nước?
Phải
chăng hận thù là “chất xúc tác” cần thiết
để người Cộng sản tiến hành cuộc chiến tranh
bất chánh, vô nhân, phi nghĩa. Khi kéo một người
thanh thiếu niên 15, 16 tuổi ra
khỏi gia đình, khỏi vòng tay của cha mẹ; kéo ra khỏi
trường học, để lại sách vở, giấy viết; nhét
vào tay họ khẩu súng, lùa đi “xẻ dọc Trường
Sơn”, những người Cộng sản cần có lý do để
biện minh cho chính sách cứng rắn, tàn ác của
họ. Trường học, xã hội là nơi nuôi dưỡng,
tạo ra hận thù, xây dựng nên tính ác cho học sinh,
cho thanh thiếu niên, và cho người dân tại miền Bắc,
để chuẩn bị cho chiến tranh. Trong giáo dục qua
sách vở, họ lợi dụng tối đa ngôn ngữ để phát
tán, làm nẩy nở hận thù cho mục đích mà họ
đã nhận từ Cộng Sản Quốc Tế. Với lập
luận “lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện”,
họ không từ một phương tiện nào để thực hiện
mục đích.
Chính
trị, tuyên truyền được CS đưa vào học đường,
vào giáo dục nhồi nhét hận thù vào trí óc non
nớt của trẻ thơ bằng những bài học, bài làm,
trong lớp học từ văn tới toán như: bắn rơi máy
bay Mỹ, bắt giặc lái, diệt phản động, giết
Việt gian... và ngoài xã hội họ xử dụng lời ca,
câu hát, hò, vè để kích động, tạo dựng hận
thù.... Cũng qua sách vở, bằng giáo dục
họ xây dựng tính ác cho trẻ thơ ngay từ trong lớp
học, ngay từ lúc “nhân chi sơ...” và ngay cả
trong xã hội bằng những động từ kích động
như: diệt gọn, trừng trị, đền tội, tiêu
diệt.... Đồng thời dùng những tỉnh
từ khích động như: dũng cảm, ngoan cường, anh
dũng, vẽ vang, kiên quyết…. Ngôn
ngử được lợi dụng tối đa nhằm mục đích tuyên
truyền, tạo dựng hận thù để chuẩn bị chiến
tranh. CS dùng những hình ảnh tưởng tượng, dựng
đứng ra như: Lê văn Tám tẩm xăng vào người
đốt cháy làm đuốc, đi hiên ngang vào đốt cháy
kho đạn, Cù chính Lan tay không bắt sống xe tăng, Tạ
thị Kiều đánh đoạt đồn Bảo An bằng một con
khỉ, hoặc Nguyễn văn Trổi “trước phút thiêng
liêng anh gọi bác ba lần”(1)...
Trong xã hội, trong giao tiếp họ luôn dùng những từ
ngữ như nhản hiệu có mục đích kích động, tuyên
truyền, khêu gợi hận thù như: thực dân, Việt
gian, đế quốc, tay sai, bán nước, phản động, phản
quốc, ác ôn, ngoan cố.... Hận thù bao trùm lên
xã hội miền Bắc như không khí hít thở.
Người thanh niên miền Bắc lớn lên trong môi trường
thù hận, như cây cỏ của miền nào lớn lên trong
điều kiện thời tiết khi hậu của miền đó.
Giáo dục, tuyên truyền, khủng bố đã gây sự biến
thái về nhận thức đạo đức của con người; thụ
động, lệch lạc trong quan niệm thiện ác, tốt
xấu, đúng sai. Học đường,
xã hội, đã nuôi dưỡng họ lớn lên bằng thù
hận, cho nên có cơ hội là tính ác của họ phát
tác một cách tự nhiên, tích
cực; mù quáng trong phán xét và nhận định, làm
ác mà không biết là ác. Họ
trở nên vô tâm, tàn nhẫn, bắn giết, pháo kích
vào trường học, vào phố xá, vào dân cư, vào đàn
bà trẻ con đang hốt hoảng tìm nơi trú ẩn. Họ
cứ nghĩ, cứ tưởng họ đang làm nhiệm vụ bảo
vệ chân lý, chính nghĩa. Tính ác đó được
nuôi dưỡng cho tới tận ngày nay, họ thản nhiên
sống xa hoa hưởng thụ, phung phí bên cạnh trẻ con,
người già tìm sống lang thang bên lề đường hay
đống rác.
Trong
khi người thanh niên miền Nam lớn lên trong xã hội
với nền văn hóa đạo đức: nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín và trưởng thành trong nền giáo dục nhân bản
“Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn”. Trong xã hội,
trong giao tiếp, trên tinh thần tương thân và nhân ái
“ Thương Người Như Thể Thương Thân” hoặc “ Lá
Lành Đùm Lá Rách”. Những người thanh niên
miền Nam đứng lên cầm súng bảo vệ phần đất
mà mình đang sống, đã nuôi dưỡng mình khôn lớn,
như điều Tâm Niệm Thứ Nhất : “ Tôi là chiến
sĩ Việt Nam Cộng Hòa, nguyện chấp nhận mọi hy
sinh gian khổ để bảo vệ cho sự sống còn của Tổ
Quốc, gia đình và của chính bản thân tôi”(2).
Những người thanh niên miền Nam đi vào chiến trận
chỉ để bảo vệ sự sống còn của chính bản thân
mình, gia đình mình, và Tổ Quốc. Không mảy
may gợn chút hận thù, người thanh niên miền Nam đi
vào chiến trận bằng tình yêu thơm nồng nhân ái :
tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu tự do, yêu
lịch sử, văn hóa, yêu xóm giềng, làng mạc, yêu
đồng bào.... Ta hảy nghe người lính miền Nam,
Nguyễn Bắc Sơn đi vào chiến trận:
Ta
vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi
hành quân rượu đế vẫn đem theo
Mang
trong đầu một ý tưởng trong veo
Xem
chiến trận như là chuyện tai trời ách nước.
Chính
thế, người thanh niên miền Nam đi vào chiến trận
bằng tình yêu bát ngát, với “ ý tưởng trong
veo”, và ý niệm tự bảo vệ mình, phần đất
mà minh đang sống, và bảo vệ tự do, và
chiến trận chỉ là ...“ tai
trời ách nước”. Tôi cũng
nghiệm ra rằng phải chăng ý tưởng trong veo, hồn
hậu nầy là một nhược điễm trong cuộc chiến
tranh với bọn người gian manh quỉ quyệt, lắm thủ
đoạn, tinh ma, tàn ác. Tôi cũng chợt nhớ ra
rằng để bảo vệ mùa màng, cây trái; ở quê tôi,
người nông dân đã phải dùng thuốc sát trùng cực
độc mới diệt được sâu rầy, côn trùng phá hại
mùa màng, bảo vệ hoa màu.
Ngồi
tựa lưng vào tường, lơ đãng nhìn ra những mảng
bóng tối dưới tàng cây ăn trái trong sân sau nhà
Hùng, những lời kể “trong veo” của Ninh đã đưa
tôi trở về một đêm tối của núi rừng Sơn La.
Trong
lúc Ninh đang cắn răng hứng trọn những quả đấm
thẳng cánh vào mạn sườn với những cú đạp
bằng tất cả sức mạnh vào vết thương chân trong
trại kiên giam, kèm theo những tiếng chửi tục tằn,
thô bỉ. Ở một góc sân
trại trước nhà đội 7 và đội 8, có một cái
bàn, trên đặt một cái đèn bão tỏa ánh sáng nhờ
nhờ, tên chính trị viên trại vung tay múa chân kể
lể “công lao trời biển cuả đảng và nhà nước”,
kết án bằng những lời lẽ nặng nề nhất, sĩ
vã cả chế độ miền Nam, cả những người thua
trận, thằng này, thằng nọ, lên án nặng nề hành
vi chối bỏ “học tập cải tạo” cuả Ninh.
Toàn
thể trại viên (tạm gọi thế)
ngồi bó gối co ro trên nền đất, cố thu mình
thật nhỏ lại trong hơi lạnh toát ra từ núi đá,
dưới sương đêm lạnh lẽo từ trời cao. Sau một
lúc lâu, có lẻ đã cạn lời kể lể và nhục mạ;
tên chính trị viên trại kêu gọi phát biểu “liên
hệ bản thân, nói lên tội lổi, sai trái, để từ
đó thấy được ...”, tiếp tay lên án Ninh.
Một
trại viên “cò mồi” nhanh nhẩu đứng lên, trong tư
thế đứng nghiêm, tên cò mồi cố nâng cao âm lượng,
như để cố đạt được tối đa hiệu quả của
ngôn từ cho tròn vai ăng-ten, phản bội. Sau thủ
tục: “Thưa,..., thưa....” Tên trại viên cò mồi dằn
từng tiếng một, bắt đầu: “Chó khôn không chê
chủ khó.....”. Tai tôi như ù đi, âm thanh hoảng
loạn: “ tốt, tốt, học tập, lao động, khoan hồng,
độ lượng...tốt, tốt...”.Tôi nhắm mắt, không
còn phân biệt được lời nói và những âm thanh
nhiểu loạn từ mãi tận đâu đâu. Có lúc
tưởng như lạc vào một trại chăn nuôi; lạc vào
chuồng vịt, cả đàn vịt hốt hoảng kêu la, chạy
tán loạn; có lúc thấy như lạc vào chuồng heo, bầy
heo gào thét ồn ào, ầm ỉ, náo loạn,....
Bổng
nhiên mọi âm thanh im bặt, yên ắng trở lại. Tôi
mở mắt ra, rùng mình vì hơi lạnh; mọi người
ngồi im lặng, hơn 350 người ngồi yên như hơn 350 pho
tượng, không khí như đặc lại mặc dù đang ngồi
ngoài trời. Tên trại viên cò mồi tưởng đã
làm xong nhiệm vụ, tưởng đã đủ điểm, hân hoan
ngồi xuống. Tên chính trị viên trại tiếp tục
nói, sau cùng lại kêu gọi phát biểu, không ai đưa
tay, hắn xử dụng quyền chỉ định, Cha Thành được
gọi tên.
Tưởng
nên có đôi dòng về vị linh mục kiên cường này,
Cha Nguyễn Công Thành nguyên là
Linh Mục Tuyên Úy của Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến,
đơn vị hàng đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Như trên đã kể, cha Thành là người đầu
tiên bị cùm vào trại kiên giam tại miền Bắc và
tên chính trị viên trại hai đã đánh giá: ”Anh
Thành cứ mổi lần đọc một câu kinh là thêm một
câu chống cộng”. Mặc dù trong trại tù kềm
kẹp, ăng-ten như rươi , cha vẫn âm thầm làm lễ và
rửa tội cho các anh em bổn đạo. Sau đó, cha
có rất nhiều lần bị cùm chân trong các trại kiên
giam vì đã hành xử thiên chức của mình, nhưng
không bao giờ khuất phục. Có lẽ cha đã nhận
lấy trách nhiệm phải hổ trợ, an ủi, làm điểm
tựa tinh thần cho những người đang ở tận
cùng địa ngục, kể cả Lương lẫn Giáo nên không
bao giờ chùng bước. Cha thản nhiên hy sinh, chấp
nhận mọi nhục hình để hành xử thiên chức của
mình. Người mảnh khảnh tưởng như không
chịu nổi một ngày lao dịch, nhưng cha đã qua tất
cả những trại tù hắc ám nhất tại miền Bắc,
kể cả trại Cổng trời ở Hà Giang (nơi
có độ cao gần đụng trời, và là nơi
tù chuẩn bị về trời); nhận chịu tất cả mọi
hình phạt, mà những người Cộng sản đã nghĩ ra
được để trả thù, để thỏa mãn bản tính hung
ác, thù hận của họ. Nhưng lúc nào cha cũng
vẫn kiên cường, bất khuất, an
nhiên, điềm đạm âm thầm hành xử thiên chức của
mình trong tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.
Cha
Thành từ từ đứng lên, sau vài giây im lặng như
để quyết định thái độ, và chọn lựa ngôn từ.
Cha nhỏ nhẹ, rỏ ràng, từ tốn, bắt đầu: “Tôi
xin phát biểu trong tinh thần kính Chúa và yêu
người.....”. Mọi người như tỉnh dậy, căng
mắt ra nhìn, chăm chú lắng nghe, có phần hồi hộp
vì thái độ bất khuất của người lãnh đạo tinh
thần này. Trong suốt thời gian phát biểu cha
không hề xử dụng những ngôn từ mà
người cộng sản thường dùng, cũng
như không nhắc tới những tiếng “tội lổi”
hay “khoan hồng, độ lượng” gì cả. Bằng
lời lẽ trong sáng, tự tin, cha chấm dứt trong sự
ngưỡng mộ của mọi người. Một sức bật
phi thường, một lằn ranh giửa thiện và ác hằn
lên rỏ rệt.
Trong
những năm tù đày, quả thật chúng tôi đã trả
một gíá quá đắt cho sự thất bại của miền
Nam, nhưng cũng từ đó mà nhận ra được con người
trong đời sống đã “thiên thần” ra sao và “ác
quỷ” như thế nào. Cũng từ đó mà phát sinh
tình cảm vui và buồn lẩn lộn; vui vì trong hàng
ngủ mình vẫn có những người thua nhưng không đầu
hàng, không khiếp nhược, không cúi đầu trước
loài quỷ dử. Buồn, vì vẫn có người vì
chút “ân huệ” hoặc lời hứa hẹn của người
giam giử mình, hay vì để được chút nhàn hạ tấm
thân mà hèn mạt bán rẻ danh dự, phẫm chất của
mình chạy theo ve vuốt, xu nịnh kẻ thù; bán rẻ bạn
bè, đồng đội, đồng cảnh....
*
“Đại
hạn phùng cam vũ, tha hương ngộ cố tri ”. Huống
chi, chúng tôi những người cùng hoàn cảnh, đã chia
sẻ nhọc nhằn, đói rét, tủi nhục nhiều năm liền
trong tù ngục . Có cơ hội gặp nhau trên xứ
người, chuyện hoài không dứt. Những người “
cùng một lứa bên trời lận đận” hẹn năm
sau lại tập hợp điểm danh.
Người
trại hai năm cũ
Từng
vác nứa, gánh tranh,
Bản
Mường Cơi, Mường
Thải,
Tháng
năm dài lao dịch
Đói
rét ta cùng chia
Khi
mẩu sắn, củ khoai
Bi
thuốc lào, thuốc lá
Bây
giờ bạn ở đâu ?
Ta
tìm nhau gặp lại
Dung
Ngã
...........................................................................
(1)
Tố Hửu
(2)
Điều thứ nhất, sáu điều Tâm Niệm
của người Chiến sỉ Việt Nam Cộng Hòa