Ngy Do Thái NHT |
Tiểu
sử văn học: NGY DO THÁI
Tên
thật: NGUYỄN HẢI THỆ
Sanh
ngày 18.4.1940 ( Canh Thìn ), giờ Ngọ 12 giờ trưa
Quê
quán Long Sơn, Tân Châu – Châu Đốc
Năm
1954-1961: học sinh trường Thủ Khoa Nghia-Châu Đốc
Năm
1961-1962: trường Sư Phạm Sài Gòn
Ngy
Do Thái còn ký nhiều bút hiệu khác : Huyền Dân, Dân,
Phương Mai, Nguyễn Thiếu Khanh, Nguyễn, Nguyễn Viên
Phương…
Tác
phẩm thơ, văn, kịch, kịch thơ… đăng trên nhiều báo
chí Sài Gòn từ năm 1958-1975: Văn, Văn Nghệ Học Sinh,
Bông Lúa, Thời Nay, Gió Mới, Văn Học, Đối Thoại, Khởi
Hành… Các tỉnh như: Đất Mới, Tham Dự…
TÁC
PHẨM :
Ngy
Do Thái Nguyễn Hải Thệ lưu trữ hơn ngàn bài thơ, được
phân bố trong
4
tác phẩm đồ sộ:
1/
Phù Du ( 2003 )
2/
Ảo Ảnh ( 2004 )
3/
Cúc Trùng Dương ( 2006 )
4/
Thu Không ( 2009 )
Ngoài
ra, những bản thảo đều viết tay mỗi tác phẩn chỉ
lưu một bản duy nhất, nên trong thời gian khốn khó ở
làng quê, những tác phẩm thơ – văn - kịch thơ - thoại
kịch…của Ông đã thất lạc như:
1/
Đêm Da Vàng ( tuổi trẻ, quê hương, chiến tranh )
2/
Khuyết Nguyệt Động ( tình yêu, bạn bè )
3/
Buồn Phố Nhỏ ( thân phận, kiếp người )
4/
Chiếc Lá Me Vàng ( truyện, kịch, đối thoại )
Những
tác phẩm thất lạc nầy, nhiều bài đăng tải trên các
báo và tạp chí xưa.
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * Ngy Do Thái, hạt bụi trăm năm ôm đất quạnh
“Bầy
chim hồng hạc xưa bay mất/ Tiếng gáy còn đồng vọng
núi xa/Về gì? Đâu chẳng chốn quê nhà/Nhật nguyệt đâu
ghen người tóc bạc”. Lãng vãng đâu đây thần khí
của bài Hoàng Hạc Lâu xa xưa, khiến tôi chất ngất trên
hàng hàng lớp lớp những sợi tơ trời. Như vướng mắc
thiên la địa võng trong hàng ngàn bài thơ Ngy Do Thái, giao
truyền tận tay tôi vào một buổi chiều đầy phong vũ.
Tôi mường tượng bóng dáng nhà thơ trong phong thái cẩn
trọng lịch thiệp và đầy nét lãng du, được chất đầy
trong bốn bản thảo nhờ lưu chuyển về thư trang Quang
Hạnh. Thì ra, tận phương trời mây nước biên thùy quê
xa, một lòng ký gởi những tâm huyết suốt hơn nửa thế
kỷ thơ về nơi tri ngộ…
Thời
gian bay nhảy trên mái tóc thanh tân đến ngày bàn hoàn
bạch phát, quả thật nhìn đi nhìn lại chớp nhoáng như
làn chớp mơ hồ giữa khoảng không. Tất cả qua đi không
bao giờ trở lại, họa chăng chỉ còn vương vấn vài
hình ảnh kỷ niệm xa mờ! Chính vậy, tôi ngơ ngác ngồi
bên bốn tác phẩm thơ của Ngy Do Thái, một người mà
suốt đời người có lúc sôi nổi trong dòng trào lưu tân
hóa nghệ thuật của đầu thập niên 60, đến hiện tại
quang quả bước lên cõi hư phù mà mở rộng tâm thức
hạo nhiên với vũ trụ và đạo vị .
Cách
đây hơn 50 năm, ở một thời điểm miền Nam mở rộng
cỗng nhà, để đón những làn gió sáng tạo của nền
văn minh văn hóa khoa học bốn phương. Trong nước, tiếp
nối phong trào tân hóa văn nghệ khai hoang từ thời tiền
chiến, nay lại đón nhận những ý thức triết học tràn
ngập, làm phong phú thêm tư tưởng sáng hóa nghệ thuật,
giúp đầy đặn sáng tác đa dạng. Ngy Do Thái nằm trong
lớp người say mê năng nổ và cật lực gom hết tinh hoa
tri thức bước vào lãnh vực văn chương. Nhóm Thế Kỷ
Mới thành lập khoảng thời gian 1959-1960, quy tụ những
cây viết đầy uy lực gồm Ngy Do Thái , Mặc Lan Hoài,
Song An Châu… thường xuyên xuất hiện trên các tạp san
đương thời như Văn Nghệ Học Sinh, Bông Lúa, Gió Mới,
Mã Thượng… Ngy Do Thái là cây viết đầu đàn, đa
dạng…trải dài qua các báo Văn, Văn Học, Thời Nay, Đối
Thoại, Khởi Hành…với thơ, văn, kịch, kịch thơ, từ
những năm 1958 đến 1975.
Thời
niên thiếu, khi còn ngồi trên ngôi trường trung học miền
núi quê nhà, những mộng mơ tuổi thơ phải chăng là định
nghiệp, khiến tôi cũng tập tành du hành vào những câu
thơ tĩnh lặng cho riêng mình. Những tiếp cận si mê văn
nghệ, giúp những người tương lân gần nhau và thân nhau
một cách tình cờ. Thường xuyên hò hẹn những người
làm thơ, trong những buổi trưa vắng lặng nhẹ nhàng
trong công viên bên dòng sông Hậu, ở những năm tháng
cuối thập niên 50. Quây quần giữa bạn bè thi phú, vạn
hạnh nào hơn những thời khắc tương giao, ngoài những
tài hoa đương thời trước mặt như Mặc Lan Hoài, Thương
Hoài Diệp, Song An Châu, Hàn Thanh, Mai Thanh Tuyền, Nguyễn
Huy Chương...mỗi người một khí phách riêng tư, sừng
sững với tương lai hiện rõ trên khuôn mặt. Mặc Lan
Hoài giới thiệu Ngy Do Thái… một nhân dáng độc đáo
đa dạng trong sáng tác. Ngy Do Thái học trước tôi khoảng
1 năm, nhân dáng sĩ phu hiện rõ trên cung cách. Thật tình,
sự ngưỡng mộ tài năng đã hiện hữu từ lâu trong tôi,
vì khi tôi chỉ làm thơ thì giai đoạn nầy Ngy Do Thái
hiện diện nhiều trên báo chí Đô Thành ngoài thơ còn
truyện và kịch…Cái say mê tài năng vì sự đa dạng
trong sáng tạo, khiến anh em nể nang và cùng tập tành
viết lách, hy vọng cũng chan hòa trong đường nét đa dạng
đó.
Bản
tính khiêm cung, đầy tâm huyết giúp Ngy Do Thái viết
nhanh, tác phẩm đầy đặn giá trị. Thời gian như gió
thổi, tất cả đều trôi chảy xuôi theo dòng đời. Cái
còn cái mất, cũng chỉ là phù du. Ngy Do Thái hầu như
sáng tác rất nhiều trong suốt khoảng đường đời hơn
50 năm qua… Nhiều thi phẩm, kịch bản, truyện ngắn, ký,
kịch thơ…những sáng tác đã đưa tên tuổi ông suốt
quãng đường dài trôi nổi.Đáng tiếc, Ngy Do Thái làm
thất lạc nhiều tác phẩm… điều mà khiến không biết
bao nhiêu văn nghệ sĩ khổ sở trầm cảm canh cánh trong
lòng suốt cuộc sống hóa sinh nầy.
Riêng
tôi, khi được trao tặng và đang lưu trữ cũng gần ngàn
trang thơ , truyện và kịch của nhà văn nhà thơ Ngy Do
Thái-Nguyễn Hải Thệ ( 4 thi phẩm/Phù Du-Thu Không-Cúc
Trùng Dương-Ào Ảnh, 1 truyện/Trong Nắng Hạ Vàng, và 5
vở kịch/Chút Gì Trống Trong Kẽ Bàn Tay -Hư Tưởng Của
Dòng Sống - Chiếc Lá Me Vàng - Tiếng Súng Trong Đêm - Chờ
Sáng… ).
Tác
phẩm của người làm văn nghệ bao giờ cũng lả những
bảo vật sống, trôi nổi theo tác giả suốt quãng đời
hư thực. Hình và bóng giao thoa không thể tách rời, đã
là định luật bất biến trong cõi hư phù nầy. Chính vì
Ngy Do Thái hầu như chỉ viết tay những tác phẩm thành
một bản chính thức lưu giữ, nên khi thất lạc bản
thảo thì là điều tuyệt vọng vô cùng. Nên thỉnh thoảng
khi có bằng hữu tâm giao ông mới sao y vài bản gởi
tặng. (Phải chăng, muộn còn hơn không, nhờ vậy đến
nay mới góp nhặt lại và giữ được những tác phẩm kể
trên).
Sự
bay nhảy ngạo nghễ trong thơ văn của thời trẻ tuổi ,
cũng không khác với những tư tưởng sáng tác của hầu
hết thanh niên thời trước. Trong giai đoạn du nhập nhiều
triết thuyết, nền văn minh văn hóa thế giới, và nhất
là giai đoạn quê hương trong dầu sôi lửa bỏng… ảnh
hưởng rất nhiều tới tư tưởng anh em văn nghệ. Chính
vậy, khi Ngy Do Thái bước vào trường Sư Phạm Sài Gòn,
( 1961 ) hầu như tác phẩm cũng dằn dặt trong nỗi nhớ,
lưu đày trong thân phận, tuổi trẻ, tình yêu, chiến
tranh, bạn bè và sự trầm luân của con người…Sự xáo
trộn trong tâm thức được hoạt biến mãnh liệt trên
sáng tác. Nhưng những gì còn sót lại trong đời sống và
lòng người, bất biến theo thời gian mới là giá trị
chính thống của nghệ thuật. Nhiều lúc, đọc lại nhiều
tác phẩm anh em, khi tỉnh thức hay đang nghiêng ngửa trong
cơn say khướt, chợt ngâm nga vài câu thơ …hình như thấy
không gian thời gian ngưng đọng lại. Thơ Ngy Do Thái cũng
đầy chuyển biến trong cùng một dòng xoáy như vậy, bàng
bạc trong tận cùng ngõ ngách cuộc đời, tình yêu, và
thời thế .
Thời
gian sau, bẳng đi gần mấy mươi năm gặp lại Ngy Do Thái
nhẹ nhàng, khiêm dung , lãng du, hàm chứa phong thái đầy
đạo vị. Một ấn tượng không nghi ngờ về chuyển biến
tâm thức, vắng lặng, hạnh phúc, mà tương đồng đến
nhật nguyệt đâu ghen người tóc bạc, bởi sự
hoác ngộ như sấm sét đang nhoáng vào tâm linh, hóa thân
trong một kỳ khu Nhất tức nhất thiết/Nhất thiết
tức nhất , và bóng dáng thi nhân đang hiển hiện
ngoài dòng chảy hư không như:
Lão
hốt nhiên điếng lặng
Một
niềm vui vô tận
Chảy
tràn lan. Bao la
Thanh
khiết. Như trăng ngà
Một
dòng sông huyền bí
Đang
trôi chảy. Trôi chảy
Tuôn
miên man. Chan hòa
Tuôn
không ngừng. Vào ta
Ta
tan hòa. Rào rạt…
(
Ánh trăng./ Thi tập Cúc Trùng Dương )
Thi
phẩm Cúc Trùng Dương là điển hình ghi lại cái nhìn của
nhà thơ trước cái hư không cuộc đời. Thơ ông như đang
bước vào một quả vị trung đạo, vô tận vô biên vì
không có gốc rễ đâu mà nương náo, vì chớp mắt vào
đời chớp mắt ra đi, chân trời góc biển chẳng dựa
vào đâu mà bền vững, chỉ tại nơi lòng mà thôi:
Thiên
địa vô cùng
Trên
đầu mảy lông
Nhật
nguyệt trùng trùng
Trong
lòng hạt bụi
(
Người tới, ta về./ Thi tập Cúc Trùng Dương )
Suốt
đời người trôi nổi qua hàng bao nhiêu ngày tháng nẩy
hạt vươn chồi, trái ngọt bùi lẫn đắng cay mà sao con
đường hướng tới vẫn phía trước? Ảo ảnh giăng mắc
trùng điệp quanh không gian, thì sự tịnh tiến an lạc
của chân tâm đã khiến Ngy Do Thái như muốn hoà nhập
cùng thơ, muốn di chuyển linh hoạt như đi trên thập mục
ngưu đồ:
Đuôi
trâu biến mất. Mênh mông cõi ngoài
Mục
đồng hôm trước qua đây
Bỏ
quên ngọn sáo dưới cây bên đường
(
Bóng thuyền quyên xưa/ Thi tập Cúc Trùng Dương )
Thoát
khỏi bóng dáng đầy vướng mắc tục lụy ngày xưa, dòng
thi ca Ngy Do Thái chuyển động thoát ra ngoài những mênh
mông hư tưởng. Những bến bờ xa xôi vô tận giờ trả
về ngàn phương với những cuồng nhiệt cháy lửa ngày
nào của sắc không. Cái ẩn hiện của đạo pháp xê
dịch luân chuyển trong thi pháp, ẩn mặc trong những
khuynh hướng như tiên tri trước cái hữu nhiên với vô
hư. Khiến khách viễn phương nhiều lúc nhìn thấy nhà
thơ như đang quẩy hồn thơ bước trên những sấm giảng
lão đạo:
Hốt
nhiên. Từ trời đất
Thênh
thang cất tiếng cười
Tiếng
cười màu tím ngát
Vụt
nổ tung giữa đời
Trời
mười phương rúng động
Bão
tố dậy hắc phong
Tiếng
sắt cầm lồng lộng
Núi
cổ cháy bập bùng
Cồn
đá xưa nát vụn
Muôn
tinh cầu vỡ tung
Triệu
vì sao xa rụng
Cơn
hồng thủy mịt mùng
Đất
cuồng quay đảo lộn
Cõi
người biển xanh dâu
Bụi
tiếng cười xô cuốn
Sập
cầu ngang bạch hà
Biển
sóng dâng muôn trượng
Đánh
chìm dãy đảo xa.
(
Ta nghe ta mịt mùng/ Thi tập Cúc Trùng Dương )
Luân
hồi vẫn còn giăng mắc suốt kiếp số, nên định mệnh
của thơ dù đang trên đường thiền hành, nhưng vẫn
loáng thoáng hạt bụi trăm năm ôm đất quạnh và
thi nhân đang nhìn y bát mà gói lời kinh tụng thì coi
như giấc chiêm bao thôi vậy…..
NGÔ
NGUYÊN NGHIỄM
Viết
tại Thư trang Quang Hạnh
Ngày
Xuân phân, Quý Tỵ