Nhóm
bạn Lạc Thư thay Lời Tựa Mở Đầu tập thơ “TỪ THUỞ
TRỜI CAO CHẺ ĐÁ BIA” của thi sĩ Mịch La Phong đã qua
đời mấy năm nay, bằng một đoạn văn, mà tôi thấm ý,
cứ đọc đi đọc lại cả tập thơ chỉ vỏn vẹn có 50
bài, gói tròn trong 80 trang, kể cả bìa:
“Có
những người làm thơ không phải để được nổi tiếng,
hay để được trở thành Thi Sĩ. Họ chỉ làm thơ để
ghi lại những rung động, những ước mơ hay những bức
xúc, băn khoăn… bất chợt nắm bắt được trong một
khoảnh khắc nào đó giữa cuộc đời. Mịch La Phong là
một trong những con người đó…”.
Biết
ý của quý vị Lạc Thư như thế, nhưng tôi không thể
nào tìm được danh xưng hay hơn thiên chức Thi Sĩ dành
tặng Mịch La Phong, một nhà thơ khẩu khí mà khí phách
vô cùng:
Yêu
Tổ Quốc như anh em ruột thịt
Yêu
thiết tha như vợ, như chồng
Ôi
Tổ Quốc khi cần ta sẽ chết
Cho
mỗi xóm làng, ngọn núi, khúc sông
(Những
Con Đường Biên Giới – trang 30)
Không
phải chỉ khí phách trước núi sông, thôn làng, biểu
cho quê hương đất nước. Mà khí phách cả cách
nhìn, lời nói bâng quơ, không mời gọi ai nghe, chỉ xôn
xao cảm xúc:
Ta
tung vài giọt nước chơi
Giọt
đưa người đến, giọt mời người đi
Giọt
tim làm mực thịnh suy
Còn
đây một giọt chờ ai đầu nguồn…
(Giọt
Nước – tr. 47)
Quý
vị bắt đầu phân vân trước cửa vườn thơ Mịch La
Phong rồi, nhưng chưa thực sự yêu mến thơ thi sĩ đương
nêu đâu, xin đọc thêm vài dòng tác giả ngơ ngẩn hỏi
Trăng:
Đong
đưa vài sợi tóc mây
Tuổi
thanh xuân cũng vơi đầy sao Trăng?
Chén
vàng đây hỡi tri âm
Đỉnh
chung tìm nẻo hoa râm mà về
Rồi
vân vân tiếp:
Đợi
chờ vàng cuộc bể dâu
Lứa
đôi chả lẽ vay màu tà huy
(Hỏi
Trăng – tr. 44)
Cuộc
đời từ tuổi thanh xuân, nỗi băn khoăn thế sự, bạn
tri âm hỡi, chẳng lẽ vầng trăng như chén vàng đỉnh
chung, địa vị, công danh, ôi, tóc đã hoa râm, đợi chờ
chi nữa nhỉ, lứa đôi giờ cũng ngả màu… chiều.
Trích
dẫn đôi câu thơ Mịch La Phong theo cảm quan của người
đang tán tụng thơ ông, e có điều chủ quan chăng? Tôi
xin được hân hạnh giới thiệu tác giả Mịch La Phong là
ai, mà làm thơ… đẹp đến thế. Những bài trong tập
“Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá Bia” là những nỗi xúc
động chân tình, mà ngôn ngữ thời nay thường liệt vào
trạng thái bức xúc, ẩn ức, không đối thoại được
với ai như ý, nên đành trải nó ra thơ, những suy
tư, tuyệt vọng của một người mang tên Phạm Tồn
Nguyên, sinh quán tại Phú Mỹ, Bình Định, đã từng là
sinh viên Đại Học Khoa Học Sài Gòn, rồi nhập ngũ, đã
lên tới chức Trung Úy, phục vụ trong binh chủng Hải
Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tan cuộc đao binh, vào
tù cải tạo, ra trại, vượt biên, định cư tại Hoa Kỳ,
mất tại Boston ngày 25-6-2007.
À
ra thế, Mịch La Phong vốn là một trung úy Hải Quân VNCH,
nên suốt bề dày tập thơ “Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá
Bia”, chỗ nào cũng có sông nước, hải hà, từ trong
cuộc tình riêng đến ngoài đời chung cùng thiên hạ, nỗi
khát khao phải nhường bước cho một niềm thương tủi
vô bờ về quê hương, tổ quốc. Tôi có thể thêm vào
bản tiểu sử trên, Mịch La Phong còn (có thể) là một
chiến sĩ phục quốc, ông hiện diện ở mật khu, biên
giới sau cuộc đổi đời. trong thơ ông nhắc nhiều lần
đến các dòng sông, đỉnh núi, đến những địa danh
Việt, Miên, Lào, v.v…
Theo
chân quân Phục Quốc
Từ
năm châu lũ lượt về…
Như
nước vỡ bờ đê…
(Lên
Đường – tr. 22)
Đây
Tân Châu, Hồng Ngự
Chiến
khu ta đã lập giữa lòng người
Đuốc
nhân bản sáng ngời đường lịch sử…
(Cửu
Long Giang Nối Tình Kháng Chiến – tr. 33)
Khi
nói tới ra đi, là để làm nên một sự việc gì, thực
hiện một hoài bão v.v… Mịch La Phong khẳng định những
chuyến về quê hương, để phục quốc, tái tạo cuộc
sống an lành xưa ở miền Nam, ông luôn đặt nặng trách
nhiệm của các đấng nam nhi, nên:
Hưng
vong lạnh đến cao sâu
Nhắc
chi bia đá mà đau tượng đồng
(Ta
Về… - tr. 37)
Song
song với tình yêu non sông, tổ quốc, là tình yêu quý vợ
con, bạn bè, toàn tập bài thơ nào cũng rải rác những
vần thơ đẹp, những câu thơ hay, kể cả chuyện vợ,
con đã ra đi về cõi vô cùng, thật buồn cho một số
phận người (tác giả), và số phận thơ (tác phẩm).
Vì
thế, nhóm bạn Lạc Thư của ông, và nhà thơ Hồ Công
Tâm, chủ nhiệm nhà xuất bản Hải Ngoại Nhân Văn vừa
tái bản tuyển tập “Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá Bia”
của thi sĩ Mịch La Phong mùa Xuân năm 2013 tại Texas. Lần
phát hành đầu tiên do nhóm bạn Lạc Thư ấn hành ở
Boston năm 1995.
Như
vậy đã 12 năm, kể từ lúc xuất bản tập thơ lần thứ
nhất, vào năm 1995, tới ngày rời khỏi chốn vãng sanh
25-6-2007, Mịch La Phong có lẽ chỉ xẻ chia tiếng sáo, cho
âm thanh bay bổng đến chân trời, ngậm nỗi u sầu tận
tuyệt cùng cây trúc, đón đợi gió tri âm.
Mịch
La Phong hay là gió thổi trên sông Mịch La, con sông mang
huyền sử một danh nhân, Khuất Nguyên thời Đông Châu
Chiến Quốc bên Tàu - một chí sĩ, tôi trung của Sở
Vương – đã viết nên tình khúc “Ly Tao” để diễn tả
điều: “Cả đời đục, một mình ta trong”, cuối cùng
phải trầm mình, chết nơi sông Mịch La đó, vì chán nản
vua, quan nước Sở ươn hèn làm mất nước.
Thi
sĩ Mịch La Phong một lần nữa “giải mã” tâm tư ông
trong bài thơ Đường luật như sau:
Thời
Gian
Con
nước nào dâng ngập địa cầu
Xem
thuyền phiêu lãng giạt về đâu
Hồn
vương mộng mị xanh bờ mắt
Sương
nhuốm tài hoa bạc mái đầu
Tuyết
dẫu vùi chôn hương nguyệt bạch
Mai
còn phảng phất vị thương đau
Một
tràng tóc rụng trong xa vắng
Mường
tượng trời xanh cũng đổi màu
Mịch
La Phong
(TTTCCĐB
– tr. 73)
Tức
khắc có 9 vị thi hữu đáp họa, theo thứ tự, ghi nhận:
Người
đã đi qua mấy nhịp cầu
Một
trời tâm sự… biết về đâu
(Tâm
Sự Người Đi - Hồ Công Tâm – tr. 73)
Tài
hoa ở lại dòng thanh sử
Tâm
sự vùi theo sóng bạc đầu
(Đọc
Thơ MLP, Nhớ Khuất Nguyên - Nguyễn Kinh Bắc – tr. 74)
Đầy
sông gió lạnh, sầu tha thiết
Đẫm
lệ mi buồn, hận đớn đau
(Trở
Lại Cầu Xưa - Nhật Hồng – tr. 74)
Bao
năm dõi bóng trăng triền núi
Cố
quốc vời trông, tóc đổi màu
(Bóng
Trăng - Diễm Chi – tr. 75)
Không
không sắc sắc vầng trăng mộng
Một
thoáng trần gian bạc mái đầu
(Vãng
Lai – Quang Nguyên – tr. 75)
Hun
hút dòng sông hờn trước mặt
Tan
tành cơn lũ buốt trên đầu
(Thời
Gian Năm Cũ – Đông Anh – tr. 76)
Chiếm
lại Hoàng Sa bao tủi nhục
Phục
hồi hải phận dứt buồn đau
(Giấc
Mơ Thủy Thủ - Hoài Việt – tr. 76)
Tiếng
sáo, lời thơ… đời mộng ảo
Thời
gian hoa lá cũng phai màu
(Nhớ
Mịch La Phong - Tuấn Linh – tr. 77)
Rùa
thiêng buồn bã khôn phơi mặt
Tháp
cổ xót xa khó ngẩng đầu
(Thăng
Long Mất Máu - Đỗ Quý Bái – tr. 77)
Đan
cử những vần thơ xướng họa giới thiệu với quý bạn
đọc, không phải là để so sánh, mà để bày tỏ, những
bạn thơ của thi sĩ Mịch La Phong, đã mỗi người tìm
thấy ở thi sĩ tài hoa này một điểm gì gần gụi với
các tác giả ấy, hay là ít nhất nói lên cảm nghĩ về
tập “Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá Bia”, một giọng
thơ bi hùng, sầu thảm trong đau thương, cô quạnh, đến
nỗi nhóm bạn Lạc Thư phải viết ra:
“Tiếc
cho một nguồn thơ lai láng, trác tuyệt, căng tràn mạch
sống, và đầy sức thuyết phục, nhưng không có cơ hội
được nhiều người chia xẻ. Nhóm bạn Lạc Thư đã sưu
tập thơ Mịch La Phong qua nhiều thời kỳ khác nhau”,
có nghĩa thơ cũng bị thất lạc nhiều, để chỉ với
mục đích hay cao vọng duy nhất của nhóm bạn Lạc Thư
là giới thiệu “Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá Bia” cùng
những người có duyên với thơ Mịch La Phong như là một
cách tỏ tình tri ngộ với một thi sĩ tài hoa mệnh bạc.
Cũng
trong suy nghĩ đó, từ rất lâu, tôi
được biết quý danh nhà thơ, qua người giới thiệu bộ
tranh tứ bình miền Tây Sơn Bình Định, gồm 4 tác giả
văn nhân tài tử xếp theo thứ tự bình phong là: Cù Hòa
Phong, Đặng Phú Phong, Lâm Bình Phong, Mịch La Phong.
Cho
tới khi được tin nhà thơ Mịch La Phong mệnh chung rồi,
thì tập thơ “Từ Thuở Trời Cao Chẻ Đá Bia” mới
được nhà xuất bản Hải Ngoại Nhân Văn của Hồ Công
Tâm chuyển đến. Thế mới biết duyên thơ đôi lúc cũng
như tình người ở đời, có dịp biểu lộ tâm tư chữ
nghĩa, nào phải… quan san gì trước rừng đào lý thịnh
khai.
Để
kết thúc, tôi xin trích dẫn 4 câu thơ của thi sĩ Mịch
La Phong, mà tác giả Phan Đức Tuấn ở Boston đã diễn tả
chút tình ở thơ Mịch La Phong:
Dưới
gốc cây đào, lý
Có
vết mòn thời gian
Đào,
lý không nói được
Kinh
kệ vãng hư ngôn
(Mịch
La Phong – tr. 7)
Vâng,
đào lý vốn là biểu tượng tri âm tri kỷ. Nếu thời
làm mài mòn tình thân thương ấy, thì kinh kệ mà chi, đào
lý sẽ nhạt phai thôi, huống chi tình thơ trong nghĩa bạn
bè, bởi thơ là mộng, khó kiếm ở đời thường, nên
càng trân trọng, chắt chiu nghĩa tình hiu hắt ấy.
Hawthorne,
ngày 10/7/2013
Cao
Mỵ Nhân