Nguyễn Thụy Long (1938-2009)
|
Du
nhập vào những đường hướng mới trong văn học nghệ
thuật thập niên 60, quả nhiên có nhiều ngã rẽ, lập
dựng cho mỗi văn nghệ sĩ thời đó một nét nhìn sáng
hóa đặc biệt, giúp tác phẩm được bùng vỡ mãnh liệt.
Mỗi người văn nghệ đột phát cho mình một phương
hướng sáng tạo riêng biệt, không lẫn lộn vào ai, tạo
cho văn chương miền Nam nhiều hướng đi mới rạng rỡ,
đối chiếu không thua sút văn chương nước ngoài.
Từ
thơ văn nhạc kịch biên khảo hội họa kinh kịch sân
khấu kiến trúc điêu khắc, nhìn lại thật hảnh diện
cho bước đường sáng hóa của nghệ thuật giai đoạn sơ
khai nầy. Từ những bóng dáng khai hoang văn nghệ của lớp
đi trước ở phía Nam như Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu
Chánh, Phú Đức, Phi Long…dần đến Nguyễn Văn Hầu,
Nguyễn Bá Thế, Truy Phong, Sơn Nam, Kiên Giang, Nguyễn Minh
Tâm… Đến lớp sĩ phu Bắc hà như Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Vũ Khắc Khoan và lớp văn nghệ sĩ gần gũi thế hệ
văn chương phía Nam trong thập niên 60 như Mai Thảo, Viên
Linh, Duyên Anh, Lý Hoàng Phong, Hoàng Trúc Ly nối tay cùng
bóng dáng của Trần Tuấn Kiệt, Phạm Công Thiện, Dương
Hà, Ngọc Linh, Dương Trữ La, Hoài Điệp Tử, Phan Bá Thụy
Dương, Võ Hồng, Nguyễn Thi Thụy Vũ, Nhã Ca…Còn nhiều
tên tuổi nữa gắn bó tạo một sinh khí đa dạng, tân
lập cho phong hóa văn chương thời bấy giờ, chuyển biến
cùng cực và kỳ diệu.
Nguyễn Thụy Long là một nhà văn cũng bùng vỡ tài hoa trong giai đoạn thập niên 60 nầy, tác phẩm của Ông chợt bước vào một lối rẽ sáng tạo mới. Ông đi thẳng vào đề tài tuổi trẻ khơi dậy trong nỗi quạnh hiu bất công cuộc đời, đưa nhân vật hùng cứ một phương cách sống trong một xã hội đen biệt lập. Trước 1965, vài tác phẩm của Nguyễn Thụy Long ra đời cũng đã biểu hiện phong cách tự do theo nghĩa ngoài lề xã hội. Từ Vác Ngà Voi vẫn còn mang một bút hiệu khác Mặc Lan Giao, là hình như tác giả còn ẩn nấp trong tư thế chờ đợi. Đến những tác phẩm kế tiếp, tên tuổi Nguyễn Thụy Long bùng sáng trong giới giang hồ văn chương, nhất là những tác phẩm nổi đình nổi đám như Loan Mắt Nhung (1967) rồi Kinh Nước Đen (1969)…Khi Loan Mắt Nhung được chuyển hóa phim ảnh do đạo diễn Lê Dân thực hiện với Huỳnh Thanh Trà, Thanh Nga, Tâm Phan, Ngọc Phu, Kim Xuân, Nguyên Hạnh…phim truyện Việt Nam bắt đầu tiếp nối tranh bá quyền với phim Hồng Kong, Ấn Độ.
Nguyễn Thụy Long là một nhà văn cũng bùng vỡ tài hoa trong giai đoạn thập niên 60 nầy, tác phẩm của Ông chợt bước vào một lối rẽ sáng tạo mới. Ông đi thẳng vào đề tài tuổi trẻ khơi dậy trong nỗi quạnh hiu bất công cuộc đời, đưa nhân vật hùng cứ một phương cách sống trong một xã hội đen biệt lập. Trước 1965, vài tác phẩm của Nguyễn Thụy Long ra đời cũng đã biểu hiện phong cách tự do theo nghĩa ngoài lề xã hội. Từ Vác Ngà Voi vẫn còn mang một bút hiệu khác Mặc Lan Giao, là hình như tác giả còn ẩn nấp trong tư thế chờ đợi. Đến những tác phẩm kế tiếp, tên tuổi Nguyễn Thụy Long bùng sáng trong giới giang hồ văn chương, nhất là những tác phẩm nổi đình nổi đám như Loan Mắt Nhung (1967) rồi Kinh Nước Đen (1969)…Khi Loan Mắt Nhung được chuyển hóa phim ảnh do đạo diễn Lê Dân thực hiện với Huỳnh Thanh Trà, Thanh Nga, Tâm Phan, Ngọc Phu, Kim Xuân, Nguyên Hạnh…phim truyện Việt Nam bắt đầu tiếp nối tranh bá quyền với phim Hồng Kong, Ấn Độ.
Sức
sáng tạo những năm trước 1975 của Nguyễn Thụy Long
thật mãnh liệt, tác phẩm như dòng suối tuôn trào không
thời gian ngừng nghỉ. Tôi bước vào lối đi của Ông,
bằng sự tò mò như tò mò với Hố Thẳm Tư Tưởng của
Phạm Công Thiện, tò mò với những bộ tiểu thuyết Yêu
– Điên – Loạn…của Chu Tử. Nhưng sự bắt gặp kinh
khiếp với những hình ảnh phơi bày cực kỳ ghê rợn
trong tác phẩm Chim Trên Ngọn Khô, ám ảnh tang thương
trong đời sống hạ tầng bi đát quá, bi đát trước
thiên nhiên, trước nhân tình và cuộc đời, khiến tôi
thường xuyên tìm kiếm tác phẩm Ông. Hình như, Chim Trên
Ngọn Khô xuất hiện trước Loan Mắt Nhung, nhưng chính vì
phong cách tài tình trong dựng truyện, khiến Nguyễn Thụy
Long được đặt trên ngôi vị độc đáo trường phái
riêng.
Thật
sự, trước những tác phẩm quyết định hướng đi cho
sự hòa nhập vào xã hội đen, bằng một lối rẽ phải
có trong tận cùng đời sống đầy cá tính phản kháng
với đời thường. Mỗi mặt trái mặt phải đều nặng
nề một cương lĩnh đạo lý khác biệt.Nghĩa khí và cách
trao đổi cuộc sống thắm đẫm tư duy sinh học chênh
nhau như những vòng xoắn hình ống trong một không gian
hình học ba chiều. Nên cách cư xử như thế thường của
lý triết hủ nho không đầy được bản chất phá cách,
liều lĩnh, tư duy của một xã hội tận cùng nếp sống.
Nguyễn Thụy Long hoàn toàn bình tĩnh bước vào môi trường
đột biến như vậy, hóa thân trong tâm thức và hành động
của những con người phá cách đó. Ông thành công mãnh
liệt trong hai bộ tiểu thuyết Loan Mắt Nhung và Kinh Nước
Đen.
Theo
hồi ký viết Trên Gác Bút (NXB Văn Nghệ, California 1999),
Nguyễn Thụy Long bước vào làm ký giả báo Sống của
nhà văn Chu Tử, được sự khuyến khích hợp với cách
viết theo trào lưu của một xã hội có thực những anh
hùng của một xã hội có lối rẽ riêng. Tác phẩm Loan
Mắt Nhung ra đời năm 1967, bằng hình ảnh một cậu học
trò lương thiện sống tại đô thành Sài Gòn trong thập
niên 60, trước những áp bức cuồng rối phủ dập tạo
nên hoàn cảnh xã hội đẩy đưa trở thành du đảng nổi
tiếng. Sống cuồng loạn trong một xã hội đen như một
thủ lĩnh anh chị làng dao búa. Nhưng trong những phút giây
bất chợt, vẫn cảm thấy cô đơn trong cuộc đời, hối
hận đánh mất một thời tuổi trẻ, muốn hoàn lương
bằng cách cuối cùng diệt kẻ ác rồi nộp mình cho cảnh
sát. Cách viết bạch hóa sự gai góc trong cuộc đời của
lớp người sống trong hoàn cảnh của xã hội đen tối.
Thật
ra, trong giai đoạn đầy rẫy hỗn loạn của thời kỳ
thập niên 60, với nhiều sự du nhập những khuynh hướng
ngoại lai, và những hiện trạng bất an trong xã hội
đương thời, khiến cuộc sống phân cách theo xu hướng
nhận định tự kỷ. Chính vậy, sự tách biệt nhiều
thành phần trong xã hội cũng là một logic, Nguyễn Thụy
Long thành công như hoàn chỉnh một luận án sâu sắc của
thế giới tận cùng. Tác phẩm thành công như bước đi
mới trong đoạn đường phá cách lối sáng tác với điển
tích sáo mòn.
Hàng
chục tác phẩm liên tiếp ra đời, nối tiếp những hình
ảnh sinh động trong thế giới như thế, đương nhiên
Nguyễn Thụy Long trở thành một nhà văn “du
đảng”,
bằng phong cách viết như thế…Thật ra, người nghệ sĩ
đều muốn mình có một thế giới văn phong riêng, tạo
dựng cho chính sáng tác một sự sáng hóa biệt lập. Sự
tự do đó giúp nhà văn xây dựng được hình ảnh đặc
thù độc đáo trong văn học.
Sau
1975, những buổi trưa ngồi với Nguyễn Thụy Long trong
hẽm nhỏ 6C đường Tú Xương Quận 3, tôi lặng lẽ nhìn
hình ảnh một “đại ca” văn nghệ oanh liệt một thời.
Cung cách sống vẫn còn hào nhoáng khí phách, vẫn bụi
đời trên trang phục thô ráp , vẫn lịch thiệp cùng
những bạn bè văn nghệ nhỏ tuổi quay quần bên Ông.
Thời chưa mở cửa, mỗi ngày gặp gỡ là những lần
chung đụng những tàn phai của quá khứ, tâm sự cho qua
ngày tháng bên những chai bia lên men con cọp, cười đùa
thăm viếng trong mọi vấn đề cần hỏi, rồi theo gót
buổi chiều sắp bãng lãng hoàng hôn, chìa tay đóng góp
trả quán ra về, không quên hẹn lại ngày mai…Nguyễn
Thụy Long vẫn cung cách trang trọng lịch lãm, nhưng anh em
đều hiểu rõ sự cơ cực phủ đầy trên nếp áo. Ngoài
căn bệnh huyết áp cao, Nguyễn Thụy Long còn tiểu đường
nặng với nhiều di chứng. Hình như, cũng vài lần Nguyễn
Thụy Long đương đầu với triệu chứng tai biến mạch
máu não. Nhưng mỗi lần thù tạc, anh em khuyên uống ít
thôi, thì Ông cười ngó tôi có thầy thuốc lo gì? Tâm
trạng hình như Ông thích gặp gỡ bằng hữu để giải
tỏa những bức bách trong lòng, mọi bệnh trạng khắc
nghiệt như thế nhưng Nguyễn Thụy Long vẫn trầm tĩnh
như không còn thời giờ ngó ngàng tới.
Khoảng
hơn 15 năm gác bút, mười năm kế tiếp (1991-2001) Nguyễn
Thụy Long viết được thêm 4 tác phẩm: Nữa Đời Đối
Bóng (1991), Viết Trên Gác Bút (1999), Giữa Đêm Trường
(2000), Người Xây Lò (2001). Bước qua thiên niên kỷ mới,
Nguyễn Thụy Long viết lại hồi ký và tác phẩm Thìn Ma
(2007), Ông tâm đắc trong quyển Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút
và Hồi Ký Thuở Mơ Làm Văn Sĩ. Trong cuộc sống khắc
nghiệt cơ cực, nên trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút, Nguyễn
Thụy Long trần tình mình không bao giờ giấu diếm những
thói hư tật xấu, nên viết thật như đã sống thật với
cuộc đời, với vinh nhục xấp lốp trong cuộc sống,
nhưng vẫn thản nhiên phó mặc những vùi dập trôi nổi
chung quanh. Chính vậy, nhân vật của nhà văn Nguyễn Thụy
Long thường nhẫn nhục, chịu đựng những nghịch cảnh,
nhân ái và độ lượng.
Năm
2009, Ông dồn hết tâm huyết cho bộ bản thảo Mả Động,
dự trù khoảng 4000 trang, nhưng đến khi nhắm mắt lìa
đời, Mả Động mới viết được hơn 1000 trang.
Nguyễn
Thụy Long để lại, ngoài dang dở của bộ tác phẩm Mả
Động còn hơn trăm truyện ngắn, (nằm u buồn vất vưởng
giữa thế gian !!!….)