Năm tôi lên Đại Học,
chiến tranh đã lan rộng khắp nơi. Lúc đó là hai năm
sau Mậu Thân, người ta nói về những cuộc động viên
và tin tức chiến sự mỗi ngày. Nhà tôi ở cư xá Hỏa
Xa, đối diện với Quân Vụ Thị Trấn. Mỗi chiều đều
có hàng đoàn xe GMC đưa thanh niên từ đó rời thành
phố. Bạn tôi, nhiều người lên đường và khi về
phép thăm nhà đã mang thêm một số ngôn ngữ lạ. Họ
nói về những cánh rừng biên giới, về đồn bót, về
sình lầy miền Tây, về những cuộc xung phong giữa mưa
đạn, về người chết, và đàn bà. Tôi nghe ngạc
nhiên và thấy mình không hiểu bao nhiêu về cuộc đời.
Bấy giờ tôi vừa mới quen Mai.
Mai học Gia Long lớp
đêm. Những năm này thành phố không đủ trường cho
học trò. Hàng lượt người đổ xô về Saigon vì chiến
tranh. Mỗi chiều tôi đợi nàng trong sân chùa Xá Lợi.
Chúng tôi nói chuyện hoặc đi dạo cho tới giờ nàng
vào lớp. Em gái Mai là Miên, học sau hai lớp, thường
đứng bên kia đường với chúng bạn. Thỉnh thoảng
Miên nhìn qua chúng tôi. Tôi nói vụng về, cứ lắp
bắp chẳng ra đâu vào đâu. Cũng không có gì để nói,
thường là chuyện học hành thi cử. Có khi tôi hỏi
chuyện gia đình nàng. Cứ đứng bên nhau chừng mươi
phút thì hết chuyện, nàng lại hỏi về các lớp tôi
học. Tôi nhắc lại những tên sách đã đọc tới lần
thứ mấy ngàn cho nàng nghe.
Thường khi chúng tôi
cũng im lặng, nhìn buổi chiều trôi đi trước mặt và
lắng nghe hạnh phúc ngấm vào thịt da. Năm chúng tôi
mới quen nhau, trời gió lớn và lá rơi nhiều hơn bình
thường. Tóc Mai xỏa chấm vai. Mắt nàng to và lúc nào
cũng có vẻ buồn. Có lần tôi nói, điều đó thích
hợp với mùa thu và khung cảnh quanh trường. Nàng nói,
ừ thì có sao đâu. Tôi thích nghe câu này, nó dùng được
cho mọi trường hợp. Và luôn luôn trước khi vào
trường, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, cười thật
tươi một chặp rồi quay đi.
Chị em nàng đi xe
trường. Xe luôn luôn đến sớm khoảng mươi lăm phút.
Thời gian nói chuyện của chúng tôi thật ngắn ngủi.
Nhưng nếu dài hơn thì cũng vậy thôi, vì có khi cả
hai im lặng hằng nửa giờ rồi lại nói bâng quơ về
chuyện nhà với lớp. Những con đường quanh trường
trồng cây trắc bá, khổng lồ và cao vút, kêu xao xác
khi gió ùa đến và đổ xuống từng đợt lá. Chúng
tôi đứng bên hè phố, giữa bao nhiêu người khác, có
khi bên xe đậu đỏ bánh lọt, ồn ào nhì nhằng và
cảm được một thế giới riêng, trong đó thật vắng
lặng như trên phố không có bóng một người và nghe
được cả tiếng cựa mình của lá.
Năm đó chúng
tôi còn nhỏ quá, không hiểu chuyện gì đang xảy ra,
trong cuộc đời và cả trong lòng mình. Những ngày như
vậy trôi qua, đó là niềm vui cầm nắm được, nhìn
thấy được, trước mặt, bên kia đường, bay lượn
trên hè phố và lảng vảng quanh chúng tôi. Đứng bên
nhau, đi bên nhau, nói vu vơ hoặc im lặng, hít thở buổi
chiều, nhìn lá vàng rồi chia tay. Giữ lại trong tôi
giấc ngủ mỗi đêm là mái tóc xỏa ngang vai và đôi
mắt to. Có khi tôi đón nàng tan học, lúc đó là
mười giờ đêm, phóng xe đạp đuổi theo xe trường.
Mai lại chồm người qua cửa sổ, đưa tay vẫy vẫy và
cười thật tươi, cho tới khi tôi chịu thua phải đi
chậm lại. Lần nào cũng mệt đừ nhưng lòng vui lắm.
Mùa hè năm đó, tôi tham dự khóa đầu tiên của
chương trình Quân Sự Học Đường. Aó quần súng sính,
nào có vừa đâu, nhưng cũng chẳng cần vì phải trả
lại cuối khoá. Tôi thấy vui vui, hình như mình cũng là
người lớn. Biết một tí súng ống, vượt mấy đoạn
đường chiến binh, đi tới đi lui trong hàng, hát ca và
đùa giỡn. Mỗi khi mệt nhọc tôi lại nhẩm nha câu
nói của nàng, ừ thì có sao đâu, và nhớ tới mái tóc
xỏa và đôi mắt to. Mỗi cuối tuần về nhà, tôi
lại ra lang thang ở sân chùa Xá Lợi. Khắp các đường
quanh đó đều im vắng vì trường đóng cửa mùa hè.
Tôi ngồi trên ghế đá đọc sách cả buổi, có khi cả
ngày. Khi mệt thì nằm lăn ra hành lang ngủ, đói tôi
ra góc đường mua bánh mì ăn. Có khi vào bếp nhà chùa
xin cơm nguội, vì trước kia tôi cũng từng chẻ củi
hoặc canh thức ở Tang Nghi Quán giúp anh Tư, người coi
mọi chuyện công quả trong chùa. Tôi là tên học trò
quen mặt ở đây. Nhưng cũng chẳng cần quen mặt hay
biết tên, vào những ngày công chuyện bề bộn như
thuyết pháp hay hội hè, anh Tư và có khi cả ông cụ
bác sĩ Diệp cứ chỉ tay bắt những tên thanh niên đứng
gần làm mọi chuyện lặt vặt bất ngờ. Nhưng buổi
chiều và tối là của tôi, một mình ngồi nhìn mùa hè
và cây lá, và mong có khi nào bất chợt nàng hiện ra
trước mặt.
Tôi nghĩ tôi có thể đến nhà Mai để
nói chuyện, nhưng thấy có gì cản trở, ngại ngại.
Không phải vì bộ áo nhà binh làm tôi xa lạ, chỉ vài
tuần thôi rồi trả chứ nào có mặc lâu, nhưng ngay cả
lúc thường cũng vậy, như dường chúng tôi chỉ có
quyền gặp nhau ở ngoài đường. Thứ nữa nàng có cho
biết nhà và không dặn dò gì đặc biệt. Tôi đoán
nàng cũng mong tôi đến thăm. Tôi nghĩ, ừ thì có sao
đâu, nàng sẽ nói thế với cả ba mẹ nếu hôm nào
thấy tôi lừng lững bước vào mặc cho ông bố sĩ
quan Hải quân rất mực kỷ luật như nàng thường bảo.
Nhưng tôi lại ngồi đây, cô đơn, giữa đất trời
vắng lặng.
Tuần cuối cùng của chương trình, Mai
đạp xe tới chùa và gặp tôi đang nằm trên ghế đá.
Mai mở to mắt ngạc nhiên. Lòng tôi vui vô hạn, cũng
mấy tuần rồi không gặp. Lần đầu tiên tôi thấy
nàng không mặc áo dài. Trong bộ áo sơ mi hồng nhạt
quần tây nỉ xám, nàng lạ hẳn đi, nhanh nhẹn, vững
vàng, quyết đoán. Tôi lúng túng giải thích là đang
nhìn buổi chiều và chờ đêm tới rồi sẽ ra công
trường Dân Chủ đón xe đò lên Quang Trung. Không ngờ
Mai tới, tôi nói, Mai có phải là bóng đêm đâu. Nàng
hỏi chuyện quân trường. Tôi nói không có gì. Chúng
tôi ngồi suốt buổi chiều, không biết làm chi, cứ
hết nói bâng quơ rồi lại im lặng. Đêm xuống. Mai
nói phải về, không thì mẹ trông mà anh còn phải đi
nữa. Tôi đưa nàng ra cổng tam quan. Bên kia là trường
Gia Long với tường vôi vàng ngả xám, loang lổ dưới
ánh đèn đường. Mai đứng nhìn thẳng vào mặt tôi.
Tôi mới nhớ ra, từ chiều giờ tôi chưa nhìn thẳng
vào mắt nàng bao giờ. Mai nói khi người ta nhìn vào
mắt nhau, ai thành thật thì không chớp mắt. Tôi nói
không biết. Chúng tôi đứng nhìn chăm chăm vào mắt
nhau. Tôi cố giữ để khỏi chớp mắt trước. Mắt
nàng to, long lanh ánh đèn đường. Mái tóc xỏa vai, bay
theo gió đêm.
Tôi ước mơ có thể đứng thêm nghìn
năm, bên hè phố, dưới đèn đường, nhìn vào mắt
nhau, bất động như hai pho tượng. Khuôn mặt nàng nhợt
nhạt vì ánh đèn, chiếc áo hồng nhạt đổi sang màu
tím. Nàng lạ hơn mọi ngày, và tôi nữa, tôi đoán
thế. Chúng tôi đứng nhìn nhau. Nàng ngước nhìn lên
vì tôi cao hơn nửa cái đầu. Không khí chung quanh như
đóng băng lại. Tôi cảm được hơi lạnh ở làn da và
hơi ấm trong tim. Tôi không dám cử động sợ làm rạn
nứt không gian. Tôi trực cảm rằng hình ảnh này tôi
đã thấy từ lâu lắm rồi, có lẽ cả triệu năm
trước và theo đuổi cho tới hôm nay. Bây giờ thì gặp
lại, cũng mái tóc bay theo gió đêm, cũng đôi mắt to
nhìn lên, cũng hè phố dưới ánh đèn đêm, cũng lá
đùa xao xác trên cao và tôi cũng bộ quân phục vụng
về. Tôi sợ hãi và cũng đồng thời hạnh phúc nhìn
thấy từng mảnh tiền định đang ráp lại. Chúng tôi
nhỏ bé quá trước những điều không hiểu được.
Tôi không biết ai chớp mắt trước nhưng nàng đưa tay
ra và tôi bắt lấy, xiết thật chặt. Lòng cảm động
vô ngần, tôi nói thầm, cảm ơn em. Bàn tay nàng nhỏ
nhắn và mát lạnh, có lẽ vì gió đêm và sợ hãi.
Thôi mình chia tay, nàng nói, để anh còn đi, sao anh
không nói gì cả. Tôi nói, phải chi mình cứ đứng như
vầy hoài, suốt đời. Tôi vẫn giữ tay nàng, đây là
lần đầu tiên chạm vào thịt da nàng. Xiết tay thật
chặt rồi buông ra, tôi cảm được những luồng điện
chạy trong tay. Tôi thấy bàn tay như lơ lửng trong không
gian, không còn thuộc về mình nữa.
Khi nàng đạp
xe đi, tôi thấy đời lạ như một giấc mơ. Như một
trận gió xô tới rồi bay đi, nhưng sao là không có
thật vì cả đất trời, trong tôi và ngoài tôi đã
thành lạ khắp. Bàn tay vẫn giữ được cảm giác kia,
nhỏ nhắn và mát lạnh, như bị tách rời ra, không còn
thuộc về thân xác tôi nữa. Đêm đó tôi đi lang
thang. Chân đi không dừng được, sợ là người có thể
vỡ tung ra vì hạnh phúc. Tôi nhớ tới chuyến xe lam
cuối cùng lên Quang Trung nhưng thôi, mặc kệ tất cả.
Tôi cần có một đêm riêng cho mình, một nơi chốn
riêng để giữ lại thế giới tôi vừa bước vào. Tôi
muốn đêm dừng lại và ngày đừng tới, để còn giữ
được hình ảnh kia trong mắt và còn cầm nắm được
bàn tay kia, nhỏ nhắn và mát lạnh. Tôi hít thở gió
đêm, hạnh phúc ùa vào người, cả thế giới của
trăng sao của cây lá vi vu của đèn đêm phố vắng tan
vào da thịt. Tôi đi cho tới nửa đêm thì quay về
chùa, còi hụ giới nghiêm rồi. Tôi không muốn về
nhà, mẹ sẽ hỏi đủ thứ chuyện rồi lo lắng lung
tung.
Tôi leo cổng sắt vào chùa và lên lầu nằm
trước thềm chính điện. Cây ngọc lan cao vút ngả
nghiêng xào xạc. Phải chi có chút hương hoa, cũng lạ,
tôi nghĩ, buổi tối thật đẹp và im vắng. Những cột
đèn nê ông chiếu ánh sáng xanh nhợt nhạt trong sân.
Chổ tôi nằm hơi tối, hy vọng nếu có ai thức dậy
đi dạo cũng không thấy được. Nếu không thì cũng
phải kể lể dài dòng. Tôi muốn thức trắng đêm nay,
hình dung lại khuôn mặt của nàng, cách đứng nhìn lên
của nàng và giữ lấy cảm giác mềm mại và nhỏ nhắn
trong tay. Phải chi thế giới ngừng lại, ngày mai ai
biết ra sao. Tôi ngủ quên lúc nào không hay, khi tỉnh
dậy trời chưa sáng hẳn. Tôi ra đón chuyến xe lam sớm
để lên quân trường. Tôi bị phạt chạy suốt buổi
sáng hôm đó, cũng may không có hình phạt dã chiến cho
sinh viên. Mồ hôi nhễ nhại, tay ôm súng, chân chạy
không thôi nhưng lòng tràn ngập niềm vui. Hình ảnh Mai
vẫn hiện trong không gian, trước mắt tôi. Mái tóc lòa
xòa bay theo gió đêm, đôi mắt ngước nhìn lên, bướng
bỉnh không chớp và bàn tay.
Tôi không gặp Mai những
ngày đầu niên khóa kế. Tôi vẫn đứng chờ bên đường
và đạp xe vòng các cửa trường Gia Long. Có thể nàng
đã đổi trường, nhưng sao không nói với tôi một
lời. Tôi mong điều đó đúng, còn hơn là vì lý do nào
nàng không muốn gặp lại. Tôi cứ suy nghĩ lung tung với
lòng lo lắng. Đường phố vẫn những đám học trò nữ
tụ tập. Cũng không thấy cả Miên, tôi đoán cả hai
đã chuyển trường cho học phí nhẹ đi hoặc để học
ban ngày cho tiện. Tôi ngồi ở tam cấp chùa nhìn qua,
có khi nước mắt như ứa ra. Tôi nhớ tới buổi tối
hôm đó và nghĩ, phải chi hôm đó ôm hôn nàng. Mình
ngốc nghếch quá, dở quá, tệ nhất thế giới đấy,
tôi tự trách mình. Nàng không hề biết mình đã bị
phạt mệt như gì, chỉ vì một lần cầm tay tôi có
thể chịu được mọi thứ tai ương trên đời. Tôi
đạp xe quanh nhà nàng vào những giờ khác nhau mong có
khi nào gặp được.
Những con hẻm Nguyễn Thiện Thuật
xô bồ, đông đúc và quanh co trăm lối rẽ. Tôi đi cả
tuần như vậy cũng không gặp hai chị em. Tôi không dám
bước vào nhà hỏi, sợ có khi nào nàng sẽ trách. Có
thể Mai đã quên mình hoặc không muốn gặp lại hoặc
vì bận rộn ở nơi trường mới, ai biết được, tôi
nghĩ vậy. Năm đó tôi đi học một cách buồn nản.
Những ngày vừa qua như không có thật, nhưng bàn tay
tôi, bàn tay đã một lần cầm nắm hạnh phúc và để
vuột đi, vẫn còn đây, trước mặt và lơ lửng trên
cao vì đã thuộc về nàng. Tôi vẫn tiếp tục cầm
sách vở nhưng bàn tay ấy đã che mất chữ, từng hàng,
từng trang. Ngực tôi nhói lên mỗi khi nghĩ rằng có
khi nào mình đã làm điều không phải. Cuối năm tôi
nhập ngũ theo lệnh Tổng Động Viên.
Tôi đóng quân
ở Ban Mê Thuột. Núi rừng buồn và lạnh. Đường phố
bụi mịt mờ. Tôi làm Thủ Quỹ cho Công Binh Sư Đoàn
23. Công việc cũng không có gì phức tạp. Có nhiều
thì giờ để đọc sách và dạo phố. Thỉnh thoảng
nhớ tới nàng, tôi lại đi lang thang. Có chuyện gì bất
như ý, tôi lại nghĩ, ừ thì có sao đâu, giọng nói
ngang ngang của nàng lại vọng bên tai. Một lần về
phép, tình cờ gặp Miên trên phố, tôi được biết
Mai đã lấy chồng. Tôi không dám hỏi thêm điều gì,
sợ nghe thêm về nàng. Miên nhìn ái ngại, cho biết Mai
thỉnh thoảng vẫn nhắc đến tôi. Tôi bối rối cảm
ơn và chúc hai chị em vui. Tôi làm ra vẻ đùa, còn em
nữa nhớ học giỏi mau ăn chóng lớn chứ. Tôi quay đi
và quên hỏi có phải năm trước hai chị em đã chuyển
trường. Đêm đó tôi về nằm ngủ như chết và ước
mơ phải chi mình đừng thức dậy. Sáng ra nhớ tới
chuyện hôm qua, tôi áy náy vì đã không nói được
cách nào suông sẻ hơn để Miên thấy là mọi chuyện
rất là bình thường, thật bình thường, không có gì
gọi là tội nghiệp. Mà đã có gì đâu, tôi tự nhủ,
còn mình phải tỉnh mới được. Phải tỉnh mới được,
tỉnh như Tây ấy, tôi lặp lại với chính mình suốt
ngày. Đầu váng vất như say, tôi ngồi bên bữa ăn
trưa và cứ nhợn nhợn muốn ói. Chịu thua thôi, tôi
đùa với mẹ, ngồi bên cạnh mẹ đủ vui rồi con
không ăn nổi gì cả.
Mẹ bảo tôi xạo và cười, con
gái chúng thích xạo lắm, mày cứ tập kiểu ấy mãi
thì được. Tôi mới nhớ trước giờ chưa xạo với
nàng bao giờ, mà chỉ toàn lắp bắp với ngu ngơ thôi.
Dở lắm, mình dở lắm, tôi tự trách suốt ngày, phải
chi hôm trước ôm hôn đại thì tình hình có thể khác
đi, nếu không thì cũng có gì để nhớ. Còn chuyện
bắt tay thì có sao đâu, đó là phép lịch sự thôi.
Tôi giật mình khi nghĩ đó còn là dấu hiệu của chia
tay, phải chăng nàng muốn nói điều gì như vậy. Có
thể nàng bắt gặp tôi chớp mắt trước nên đã kết
luận là tôi không thành thật. Nếu vậy thì thật là
bất công, tôi không ưa trò chơi này. Nhưng nếu em
muốn, bất chợt tôi gọi tên nàng, chúng ta có thể
chơi lại lần thứ nhì, ai biết được trò này quan
trọng như vậy. Nhưng trễ rồi, tôi đâu có thể sống
lại những ngày đã qua.
Trời lạnh như ri
ở Ban Mê Thuột. Người ta phải mặc áo ấm cả vào
những ngày nắng. Tôi tập thêm thói quen uống cà phê.
Một tên bạn địa phương dạy cách nếm và phân biệt
các loại hạt. Tôi luôn luôn lẫn lộn giữa các mùi
và vị rất gần nhau. Buổi chiều ra lang thang ở các
phố nồng mùi cà phê rồi về một quán quen thuộc
ngồi tới thật khuya. Tôi vẫn chưa quen thuộc núi rừng
bao nhiêu, cứ loanh quanh mấy vòng là hết phố. Lần
nào đi cũng mệt vì ngõ nào cũng dốc, nhưng ở trại
thì chịu không nổi. Khoác áo ấm nhà binh, bước ra
ngoài và nhìn hơi thở biến thành khói, coi mấy trận
bi da độ ở phố Lý Thường Kiệt rồi tìm một chổ
ngồi vắng đọc nhẩn nha, những ngày của tôi trôi
qua chậm rãi. Có đôi khi ghé chùa Khải Đoan lạy Phật
rồi ngồi tựa lưng ở thềm chính điện kéo mũ che
mắt ngủ lúc nào không hay. Cũng lạ tôi thấy mình cứ
ra đường là tỉnh như sáo, còn ghé vào chùa là phải
ngủ gục thôi ngay cả khi đang ngồi uống trà với sư
trụ trì cũng thấy mắt nhíu lại. Sư bảo đó là do
nghiệp, có người bên kia che mắt đấy. Tôi đùa, kiếp
trước tôi là Bà La Môn ngoại đạo nên bây giờ cứ
vô chùa là buồn ngủ. Nhưng tôi biết điều này chỉ
mới xảy ra gần đây, có lẽ những kỷ niệm với Mai
đã đưa tới sức phản kháng trong tiềm thức, chẳng
hiểu ra sao. Cũng không hẳn vậy, vì chỉ thoảng khi
tôi mới nhớ tới nàng và lần nào cũng thấy tội
nghiệp cho trần gian này, cho nàng, cho tôi và mọi người
trong cuộc đời. Biết sao bây giờ, ai cũng nhỏ nhoi
trước những điều không hiểu nổi.
Tháng 3-1975,
Ban Mê Thuột là chiến trường đầu tiên. Đơn vị tôi
đóng ở cây số 3, cầm cự được vài ngày rồi chạy
về Phước An để gặp sư đoàn. Pháo nổ liên tục
sau lưng, ít đơn vị giữ được hàng ngũ vì đi trong
cả đêm và rừng rậm. Tới đây một tuần lại được
lệnh chạy về Khánh Dương, hôm sau thì tôi lạc, cứ
nhắm hướng Đông Nam mà đi. Qua bao nhiêu rừng và suối
với những đoàn dân và lính tan hợp trên đường, tôi
vào được Nha Trang trình diện Trung Tâm 4 Tài Chánh. Có
khi nằm trong rừng ngửa mặt nhìn trăng sao và nhớ
nhà, hẳn là ba mẹ tôi lo lắm, còn Mai nữa, có khi nào
nàng nghĩ tới tôi. Tôi lại nghĩ tới bố nàng, không
biết đóng ở đâu, trước giờ tôi vẫn quên hỏi
những chuyện như vậy.
Tháng tư, tôi về được
Saigon. Cả đất nước hỗn loạn, không ai biết được
chuyện của ngày mai. Người ta nói Tòa Đại Sứ Mỹ
đã rút đi gần hết. Đơn vị tôi đóng ở Trường Gò
Vấp. Được một tuần, tôi quyết định phải thăm
Mai, nhỡ có khi nàng lo lắng cho tôi. Nếu không gặp
thì nhờ Miên nhắn cũng được.
Tôi bước vào nhà
ba mẹ nàng ở Nguyễn Thiện Thuật, lúc đó là buổi
chiều. May có nàng ở đây, cũng lạ. Nàng đứng bật
dậy đón tôi vào. Mẹ nàng nhìn tôi. Bà cụ đôi khi
tôi vẫn gặp hồi đạp xe quanh nhà nàng. Miên chạy ra
chào, mới có vài năm mà lạ hẳn, lớn ra. Mai giới
thiệu với mẹ rằng tôi có thời dạy kèm cho Mai và
Miên ngày xưa. Câu trả lời nhanh nhẹn như được tính
toán sẵn tự năm nào. Giữa nhà, một em bé đang nằm
tập lật trong nôi. Ngực tôi hơi nhói lên, tôi đoán
nàng ẳm con về thăm nhà. Tôi ngồi đối diện với
Mai ở bàn giữa. Vẫn mái tóc ngang vai và đôi mắt to,
trông Mai tự nhiên và vui hẳn ra. Mẹ Mai lấy ra một
cuộn len khổng lồ rồi ngồi đan gần đó. “Ba em
ở đâu, có bình yên không?” “Ba đang ở ngoài bến
Bạch Đằng. Hồi anh ở Ban Mê Thuột làm sao?” “Thì
đánh nhau lung tung, may về đây được.”
Tôi không
dám hỏi thăm chồng nàng, hình như có gì không phải
lắm trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi. Hai tay nàng cứ
loay hoay bứt xơ của mấy mẩu vải trên bàn. Chúng tôi
có khi nhìn vào mắt nhau, lần nào nàng cũng quay đi
trước. Tôi tự nhủ vậy là chậm rồi, mình nhớ chi
cái chuyện chớp mắt trước hay sau. Nàng cuối xuống
bàn, nói giọng thật khẽ. “Anh có tính chuyện đi
ra khỏi nước không?” “Không, anh không biết. Chưa
tính gì cả.” “Nếu anh muốn đi, chiều mai anh tới
đây. Ba sẽ đưa cả nhà cùng với bên chồng em đi,”
giọng nàng nghiêm lại,” em sẽ bảo Miên và thằng út
đi bên anh. Tại vì ba bảo có bạn nào thân thì gọi
đi. May mà hôm nay anh lại.”
Tự nhiên tôi muốn từ
chối nhưng không nói được. Mẹ nàng thỉnh thoảng
liếc chúng tôi. Nói chuyện một chặp, tôi đứng dậy
xin phép mẹ nàng để về. Trời cũng hơi tối. Mai và
Miên đưa tôi ra cửa. Nơi ngưỡng cửa, Mai chìa tay ra.
Hơi ngần ngừ rồi bắt tay nàng thật chặt, tôi có
cảm giác mẹ nàng suýt làm rơi cuộn len. Bên cạnh
tôi, Miên mỉm cười. Tôi đứng nắm tay nàng thật
chặt và thật lâu, cảm động giữ lấy cảm giác nhỏ
nhắn, mềm mại và mát lạnh. Tự nhiên tôi thèm được
ôm nàng, nhưng mọi chuyện đều chậm rồi, mẹ nàng
có thể la hoảng lên đấy.
“Miên phải gìn giữ
Mai đấy,” tôi quay qua bảo Miên, “Mai điên lắm.” Khi
tôi ra phố, đèn đêm lên rồi. Trước mắt tôi vẫn
là đôi mắt nàng, mở to nhìn thẳng như chờ coi ai
chớp trước. Gió đêm thật lạnh dù bấy giờ mới
cuối Xuân. Bàn tay tôi vẫn lơ lửng trên cao, nơi thật
xa của những đám mây.
|