tranh Lương Trường Thọ |
Không
biết tên đó ai đặt và có từ lúc nào. Nhưng tôi đã
có mặt ở đây hơn nửa năm rồi. Một dãy nhà được
ngăn ra làm mười phòng. Mỗi phòng 16m2, toillet đầy đủ.
Có ghi số thứ tự nơi cửa. Tôi mướn phòng thứ 1.
Phòng
thứ 2 của ông lão mua đồ cổ đến từ Bình Định. Gọi
bằng lão vì ông cũng quá lục tuần. Có lúc, tôi cảm
giác ông như con sâu giấu mình vào cây lá. Như một dòng
suối giấu mình vào biển khơi. Như một thiền sư giấu
mình vào hệ luỵ trần gian. Ông cũng am hiểu khá nhiều
về Kinh Dịch. Những lúc rỗi rảnh, ông thường tâm sự
với tôi. Ông vốn là nhà sư, nhưng trung niên rồi mới
xuất gia. Có lúc tôi trêu ông “ Ba cô gái đẹp lên
chùa. Một cô yếm thắm bỏ bùa nhà sư- Sư về sư ốm
tương tư- Ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu”. Đi tu
không bao lâu thì hoàn tục về cũng lấy một ni cô hoàn
tục. Hai người ăn ở với nhau có được một cô con
gái. Hai mươi năm sau, vợ ông lên chùa tu lại. Ông giang
bạt sông hồ. Cuối đời làm nghề chấm Tử vi và mua đồ
cổ.
Buổi
chiều, ông cởi chiếc xe đạp cà tàng của ông về. Trên
xe treo bọc trà khô. Gặp tôi ông hú hí :
-Qua
chơi nhà thơ (thấy nét thư sinh của tôi nên ông gọi
thế)
Gặp
một thân chủ cũ, họ mời vào nhà chơi và tặng cho mấy
gam trà ngon.
Tôi
để trần sang phòng ông :
-Hôm
nay có mua được món nào không bố ?
Ông
khệ nệ tháo cái bọc sau ba ga :
-Được
hai cái sừng nai, mỗi cái gần 80cm, cũng tàm tạm..
-Vậy
là bố già vô mánh rồi !
Ông
lui cui đun ấm nước điện, cần mẫn pha trà. Tráng trà
kỹ lưỡng. Rót trà ra ly, đẩy sang tôi.
-Chà..trà
thơm quá. Tôi nói.
-Không
định lấy, nhưng con bé năn nỉ quá..
-Cầm
lòng không đậu hả bố ? Tôi cướp lời.
-Chú
mầy thiệt…à nầy, báo cho chú mầy một việc nhé. Tao
quan sát thiên nhiên thấy có điều kỳ lạ, nên đêm qua
tao lấy quẻ thử, phát hiện ra trong vòng một tháng nữa
sẽ mất một lãnh đạo lớn. Không quân (ý ông nói không
có lính, tức người về hưu). Không biết đích danh là
ai, nhưng chắc chắn người nầy quê ở miền Trung.
-Chắc
chưa bố ?
-Chắc
chắn. Tao dùng Tứ trụ dự đoán học rồi Mai hoa dịch
số, đều thấy y chang nhau.
Và
điều nầy là thật. Khoảng chừng hai tuần sau, ngài thủ
tướng mất, quê ông ở Quảng Ngãi.
Ông
thường trao đổi với tôi nhiều về những tin ông dự
đoán. Chuyện kể trên là một trường hợp. Ngoài ra
chuyện ở Afghanistan, Iraq và gần đây là xung đột giữa
Israel với Li Băng Palestine. Ông dự đoán chính xác 80,
90%. Nhưng không biết bố già có đoán được chừng nào
bố mất không? Khi tôi viết những dòng nầy là bố già
đã về quê ở Bình Định để dự lễ vu qui của con
gái.
Phòng
thứ 3 là hai cô bé đến thuê phòng cho ba tháng hè. Chuẩn
bị lên lớp 12. Học thêm ở đâu đó, nhưng sáng nào
cũng đi. Hai người đi chiếc xe gắn máy Trung quốc. Trưa
về nấu cơm ăn, ngủ. Chiều khoảng 17, 18 giờ, hai cậu
thanh niên chạy chiếc Attila đến, đóng cửa rù rì rồi
cười thét lên, liên tục, liên tục.. Khoảng 20 giờ chở
nhau đi ăn và về giỡn tiếp. Hai mươi hai giờ, hai cậu
thanh niên về. Hai cô gái lấy điện thoại di động ra
chơi games. Chúa nhật thì cha mẹ từ dưới quê lên. Gồng
gánh nào gạo, trái cây, thức ăn. Tổ chức đi chợ nấu
cơm. Thứ hai lại thui thủi về quê. Bỏ con lại với kỳ
vọng con mình sẽ vào lớp 12 hiên ngang năm nầy. Nhưng
hỡi ơi, các con của các bà vẫn mạnh khoẻ, tươi tắng.
Đang tận dụng hết thời gian tự do hợp pháp để tìm
cách đốt hết tiền của cha mẹ. Tuổi của yêu đương,
mộng mơ và tìm hiểu. Không có người lớn bên mình. Ai
biết điều gì sẽ xảy ra với những người kém bản
lĩnh mà nhiều đam mê.
Phòng
4, hai vợ chồng thanh niên. Chồng dân Quảng Ngãi, vợ quê
An Giang. Không biết làm sao họ lại gặp nhau được. Kết
hôn có giấy đăng ký đàng quàng. Chồng bỏ mối loại
kính mắt Hàn Quốc (dỏm) đủ loại từ thượng vàng hạ
cám. Hai ba ngày đi giao hàng một lần. Vợ ở nhà trang
điểm kỹ lưỡng. Đóng cửa chờ chồng, không đi đâu
ngoài đi chợ. Vợ chồng mới cưới nên săn sóc nhau chu
đáo. Không hề nghe cự cãi bao giờ. Chồng đẹp mà vợ
cũng rất xinh. Trông họ rất mặn nồng ân ái. Tôi thường
bắt gặp nàng ngồi ngay cửa sổ với cái gương xinh
xinh. Chăm sóc gương mặt mình còn hơn chuyên viên thẩm
mỹ viện. Tôi thầm nghĩ anh chồng nên bỏ nghề bán mắt
kính qua bán mỹ phẩm có lẽ hay hơn.
Phòng
số 5. Hai vợ chồng giáo viên, chồng dạy cấp 1, vợ là
thợ may. Vợ chồng nầy là thành viên lâu năm nhất trong
số những người thuê phòng ở đây. Vợ đi may ở nhà
may tư nhân. Do nàng dâu và gia đình chồng không hợp
nhau, nên chồng nghe lời vợ đi mướn nhà ở riêng chứ
tài chánh họ không đến đỗi. Lấy nhau sáu , bảy năm
gì đó nhưng chưa có con. Anh chồng thi thoảng lại về
trể và say bí tỉ. Mỗi lần như vậy thì có nghe rổn
rảng một chút rồi người vợ sụt sịt khóc. Có tiếng
khóc thì chiến trường êm ả lại. Sáng ra, chục lần
như một thì y như là lưng của thầy giáo chừng cả trăm
dấu tròn đỏ. Kết quả của một trận giác hơi.
Người
vợ cũng hiền lành, có lần cô qua phòng cho tôi con rùa
vải dùng để chùi chân do chính tay cô may. Tôi cũng một
lần mang ơn cô ta, chẳng là có lần vào khoảng 22 giờ
đêm, tôi bỗng dưng đau bụng lạ thường, đi cầu liên
tục. Tôi qua quán mua thuốc uống, gặp tôi cô hỏi và
lát sau mang qua cho tôi ly rượu thuốc đặc quánh của
thầy giáo, bảo là thuốc gia truyền chuyên trị về tả
lỵ. Mà quả thật, uống xong khoảng 10 phút là tôi nghe
êm êm và không còn đi cầu nữa.
Phòng
số 6. Vô hình trung là cái quán nhỏ chuyên cung cấp đồ
dùng và một ít thực phẩm cho những phòng trọ chúng
tôi. Chủ quán là người ngoài năm mươi, chắc quê ông ở
gần căn cứ Long Bình (nơi mà ngày trước quân đội Mỹ
dùng làm kho chứa thuốc nổ, đạn dược) nên ông nói
chuyện nổ quá trời. Cái gì cũng số 1 La mã. Chưa bao
giờ chịu thua ai trong việc tranh cãi chuyện gì đó. Tôi
ở Hà Nội 3 năm, nhưng chưa biết cầu Long Biên, cầu
Thăng Long, cầu Chương Dương dài bao nhiêu, chùa một cột
cao bao nhiêu. Nhưng ông biết chính xác số đo trong khi
chưa hề một lần đặt chân lên xứ bắc. Thi thoảng ông
cũng phát biểu linh tinh về xã hội. Với tôi, ông là
người khó cải tạo tư tưởng sống cho phù hợp với
tình trạng xã hội bây giờ. Bởi ông là quân nhân quân
lực VNCH trước 75.
Phòng
số 7. Thuê phòng là cô bé mười chín tuổi, quê ở một
huyện xa trong tỉnh. Tháng đầu cô đến với chiếc Honda
dame của Nhật sản xuất trước 75. Nét mặt đẹp thơ
ngây như bức tượng. Cô nói làm tiếp viên cho một nhà
hàng. Quả thật vậy, có lần được bạn bè mời tôi
chầu nhậu tươi mát tại nhà hàng karaoke Ngọc Lan. Tôi
đã gặp cô ngồi chung bàn. Cô ngồi với bạn tôi. Cô bé
thẹn thùng nhưng tôi vờ như không quen biết. Sau vài chai
bia, cô mất sự bẽn lẽn ban đầu và cô chủ động tấn
công tôi. Cô xin đổi đào với tôi, nhưng cô gái ngồi
với tôi không chịu. Khổ nỗi điều nầy làm tôi phải
tránh mặt cô nhiều ngày sau đó. Rồi một chiều, chiếc
Honda dame đâu không biết. Cô rạng rở với bộ đồ dạ
hội. Chễm chệ trên chiếc Nouva màu trắng tinh. Cô chạy
suýt nữa đụng phải cánh cửa phòng cô. Cũng từ ngày
đó, cô đau cái cổ rất nặng. Tôi nghĩ thế, vì thấy
mỗi lần ngồi trên xe chạy, cổ cô đều ngước lên
trời. Mới vừa rồi, nửa đêm công an xét phòng. Trong
phòng của cô có người đàn ông lớn tuổi, cô nói chú
họ. Nhưng cũng bị phạt hành chánh vì không có tên trong
danh sách đăng ký.
Phòng
số 8. Phòng nầy có vẽ đặc biệt. Cặp ông, bà trên
năm mươi. Không biết người phương nào, gia đình ra sao.
Dù ngoài năm mươi nhưng người đàn bà cũng còn mặn mà
lắm. Đủ cho thấy bà có một thời vàng son. Người đàn
ông như một cao thủ võ lâm. Tóc dài, râu ria quay hàm,
ông cũng là người mà từng ‘một thời để yêu và một
thời để chết’. Tin từ hành lang phòng số 5, chúng tôi
biết ông bà nầy có gia đình giàu có, con cái thành đạt.
Giờ hai người vào chùa làm công quả, mướn phòng chỉ
để nghỉ buổi trưa, còn tối thì về nghỉ ở gia đình.
Nhưng cũng nhiều đêm ngủ lại. Người đàn ông mua cơm
hộp và nước khoáng về sử dụng. Hình như họ ăn chay,
bố già phòng số 2 nói với tôi, họ ăn chay nhưng ngủ
mặn. Tin đáng tin cậy là họ yêu nhau khi còn trẻ, hoàn
cảnh không thể cưới nhau. Ông có vợ, bà có chồng.
Chồng bà sau nầy bị bệnh chết. Vợ ông kia vẫn còn,
nhưng họ lại là chị em bà con bạn dì. Chuyện y như
trong phim.
Phòng
số 9, cũng hai ông bà. Người đàn ông ngoài ba mươi,
người đàn bà ngoài bốn mươi. Chênh lệch nhau chắc một
con giáp. Anh chàng hiền lành ít nói. Đi bán vé số dạo
với chiếc xe đạp bèo, người đàn bà cũng đi bán vé
số, nhưng ngày bán vài ngày nghỉ. Lâu lâu có một bé
trai chừng 10 tuổi đến ngủ vài ngày rồi biến mất.
Nghe nói đó là tác phẩm của hai người. Bố già phòng
số 2 coi tướng người đàn bà nầy, ông nói thọ nhưng
nghèo suốt đời. Chuyện tình yêu trắc trở, ít nhất là
vài ba đời chồng bởi phá tướng. Đàn bà gì mà ăn nói
sang sảng như Lương Sơn Bạc, còn nghèo vì tướng đi
dách dách sảnh, ấn đường u tối.
Phòng
số 10, là phòng cuối cùng. Một người đàn ông. Ông
ngoài ngũ tuần, là nhà văn hay nhà thơ gì đó. Ông còn
là cộng tác viên của nhiều tuần báo, website. Rõ ràng
kiến thức của ông uyên bác. Chuyện gì cũng biết. Khác
với ông phòng số 6 biết chuyệt vặt. Ông phòng số 10
ngon lành hơn các nhà văn nhà thơ nước ngoài. Từ châu
Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Phi. Ở đâu ngài cũng biết
nốt. Từ Eric Maria Remarque, William Saroyan, Henry Miller,
Rimbaud, Jean Paul Sartre, Ernest Hemingway, đến Lý bạch,
Trương Kế, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị dài dài qua Kim Dung,
Quỳnh Dao. Muốn nghe tác phẩm nào, của nhà văn nhà thơ
nào là ông đọc vanh vách, như một tự điển sống. Đang
nói về hiện sinh của Sartre, mình nói qua Phạm Công Thiện
thì ông phát cho nghe Hố thẳm tư tưởng, Im lặng hố
thẳm ngay. Vũ Đức Sao Biển chuyên nghiên cứu về Kim
Dung, nếu gặp ông cũng phải botay.com. Ông nhắc từng câu
chuyện, từng nhân vật, nào là Tiếu ngạo giang hồ, Ỷ
thiên đồ long đao, Anh hùng xạ điêu, Lộc đỉnh
ký..v.v…Hỏi về Quang Dũng ông đọc cho nghe một loạt :
Đôi mắt người sơn tây, Tây tiến, Đôi bờ, Quán bên
đường. Đang ngon trớn như vậy thử đá qua thơ đường.
Y như máy cassette ông mở liền Thôi Hiệu, có lần ông
đọc cho tôi nghe nguyên tác bài Hoàng Hạc Lâu :
Tích
nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ
Thử
địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng
hạc nhất biến bất phục phản
Bạch
vân thiên tải không du du
Tình
xuyên lịch lịch hán dương thụ
Phương
thảo thê thê anh vũ châu
Nhật
mộ hương quan hà xứ thị
Yên
ba giang thượng sử nhân sầu.
Ông
nói ngày trước Tản Đà dịch bài nầy với thể thơ lục
bát, ông không tâm đắc. Ông có người bạn dịch bài
nầy với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật y như
nguyên tác, và ông tằng hắng, không phải đọc mà là
ngâm :
Bặt
bóng người xưa cỡi hạc vàng
Còn
đây trơ lại mái lầu hoang
Hạc
vàng một vút không lưu luyến
Mây
trắng ngàn năm luống bẽ bàng
Sông
lạnh Hán dương cây rạng rở
Bãi
thơm Anh vũ cỏ miên man
Quê
hương khuất nẻo chiều nghiêng bóng
Gợi
khách sầu lây khói sóng tràn
Tiếc
rằng tôi không biết về văn thơ. Song với hai câu chót,
tôi nghe sao ngậm ngùi quá. Tôi cười nói với ông:
-Thiệt
tình, chú đọc thơ cho cháu nghe, giống y như nước đổ
trên đầu vịt..
Ông
há mồm hỏi tôi :
-Vậy
chứ thắng Út mầy làm nghề gì ?
-Dạ…con
là bác sĩ…thú vật./-
hồchíbửu