Nguồn của dòng sông mang tên Văn Cao là tâm hồn
phong phú của nhà nghệ sĩ tài ba, trong lãnh vực âm nhạc cũng như thi ca. Sau
khi ra khỏi vùng lưu vực hoang vu của tiềm thức, dòng sông tẻ ra ba nhánh trôi miên
man trong huyền ảo của khói trắng sương mù.
Nhánh sông dài nhất mang tên là dòng nước
"Thiên Thai", dòng nước mênh mông chạy thẳng một đường dài về phía
chân trời xa thẳm. Nó biến mất trong mây khói nơi đây, dường như cả dòng sông
đã từ từ cất mình bay lên cao, còn vọng xuống tiếng róc rách của con thuyền ai
đó đang lạc về nơi tiên cảnh. Nhạc bồng lai hay sông nước dạt dào, hai con hạc
trắng vỗ cánh hay hình bóng hai chàng Lưu Nguyễn đưa tay giã từ quê hương tục lụy,
ta nghe chìm đắm trong huyền mộng mơ hồ. Có lúc bài hát như cơn thủy triều dâng
lên trầm trầm, có lúc du dương phảng phất hình dáng một bầy tiên nữ múa hát, những
trái đào màu đỏ, những thắt lưng màu xanh da trời...
Theo lời phê bình của Nietzsche thì đối với nhạc
sư Richard Wagner tất cả những gì hiển hiện đều trở thành tiếng vang và tất cả
những âm vang đều lao mình về ánh sáng mà trở thành hình ảnh, đó là một tương
quan giữa thị giác và thính giác. Chính nhờ tương quan này mà tiếng nhạc của
Văn Cao, giá như không có lời hát, vẫn có thể dẫn đưa chúng ta về miền sương
khói của đào nguyên, thấy hiển hiện qua âm thanh một cõi thiên thai trong sáng
nhịp nhàng đầy tiếng hát ở bên kia thời gian tục lụy. Cũng như một hòa âm tuyệt
diệu có thể cho ta thấy trước mắt một bình nguyên lồng lộng hay một sa mạc xa
xăm trong tiếng trầm hùng của đoàn kỵ mã. Và cũng nhờ tương quan giữa thị giác
và thính giác ấy mà Xuân Diệu ngày nào đã nghe được nhịp điệu trong màu vàng của
rừng thông khi đến mùa tình ái trút xuống mênh mông, phấn thông vàng hòa tấu một
bản nhạc không có âm thanh mà chỉ có tiếng nhịp nhàng của màu sắc.
Trong khi dòng sông thiên thai đầy màu sắc của
thi ca Ðông phương khuất lấp ở cuối chân trời, nhánh sông "hiện thực"
của Văn Cao bắt đầu trườn mình đi tới. Văn Cao nhạc sĩ, và Văn Cao cũng là một
nhà thơ có tài, điển hình qua bài thơ "Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc".
Trong bài thơ này, Văn Cao mô tả một cảnh lầm than của xã hội, một hình ảnh
tương phản vô cùng bất công khi chiếc xe xác chở thi hài của những kẻ nghèo đói
đi ngang qua một xóm ăn chơi ở Hà Nội trong vụ đói năm 1945. Nhánh sông thứ hai
của tâm hồn Văn Cao bây giờ chảy quanh co trong một thành phố sa đọa rác rưới,
những dãy hồng lâu rũ rượi mấy hình hài trụy lạc, những chuỗi tiền gieo mạnh
trong ghê lạnh của đêm trường chết chóc, những ánh sáng vẫy người vào đêm khỏa
thân khiêu vũ, những điệu kèn vô luân, hương nha phiến chập chùng, áo thế hoa
lượn lờ tìm hoan lạc, trong lúc ấy thì chiếc xe xác âm thầm chở xác người ra khỏi
thành phố khi tiếng gà bắt đầu gáy sáng. Nhánh sông hiện thực trườn đi trong
đêm tối, sương khói bây giờ là không khí ma trơi chập chờn, là ánh đèn đỏ quạnh
máu người, là đốm lửa ngã tư hư huyền, là tiếng sáo ma quái của xe xác, là ngoại
ô lầy lội mưa đêm, là tiếng gà tàn canh báo tin những kiếp người đã ra khỏi vực...
Tính chất hiện thực trong thơ Văn Cao pha lẫn
với huyền hoặc, lầm than xã hội trở thành một hình ảnh siêu thực ma quái. Nhánh sông hiện thực đi vào thành phố không
phô bày sự thật của cuộc đời, chỉ phản chiếu hình ảnh xã hội dưới đáy nước bằng
thêu dệt của tưởng tượng, trở thành một vũ trụ thẩm mỹ có vẻ kỳ ảo dành cho văn
chương, một thứ hiện thực trừu tượng chớ không phải hiện thực xã hội. Như thế
nhánh sông thứ hai của Văn Cao vẫn là nhánh sông lẩn quất trong sương mù kỳ bí,
chứng tỏ tâm hồn Văn Cao có nhiều cảm hứng về sự huyền ảo. Trích vài dòng ra
đây để dẫn chứng cho thấy tính chất Siêu Thực còn gọi là Hiện Thực Trừu Tượng
có khuynh hướng nghiêng về Thần Bí:
"Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma...
Ðôi dẫy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang... não nuột khóc tàn sương
Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ trên thềm lá phủ...
…
Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Ðầm đìa rả rích Phương Ðông
Mang mang thở dài hồn đất Trích
Lưới
thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngã âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Ðêm đêm, đài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Dẫy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác gió cài then cửa rú
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
...
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Ði vào ngõ khói Công Yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đang kêu sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe?
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
- Hang tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xe dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
Nhánh sông thứ ba được nhận thấy qua tâm hồn
Văn Cao mang tên là "Bến Xuân". Ðặc điểm của nhánh sông này là tính
chất yêu đời, nhánh sông đi vào vùng sương khói thơ mộng của mùa Xuân và tuổi
trẻ, bớt vẻ huyền ảo hơn hai nhánh sông đã kể trên. Sương mù đã bốc thành từng
đám mây trắng, làm sáng tỏ một bến nước trong thành phố có con sông chảy qua,
khi gió mùa thơm ngát từng đàn én bay về, khi mùa mưa đến có bóng người thiếu nữ
đến thăm căn nhà bên chiếc cầu soi nước, khi mùa ấm áp đã ra đi không quên mang
theo lũ chim giang hồ và nàng cũng chỉ đến thăm một lần mà thôi.
Tiếng nhạc dìu dặt mỗi đêm khuya đưa con người
trên dòng sông trở về bến xuân mộng ước tương lai. Nhánh sông thứ ba vẫn là
nhánh sông bắt nguồn từ tâm hồn nhạc sĩ, nên một khi thoát ra vẫn mang dáng dấp
thi ca của trên sông khói sóng, sương mù tươi mát hơn thứ sương mù trên dòng
sông hiện thực mà quái đản của một thành phố đầy xác chết và chưa đủ không khí
huyền ảo của mù sương nơi chốn thiên thai. Nó chỉ êm ái dành cho một thời thanh
bình đã mất: "Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, đôi cánh
đang cùng dật dờ trên khắp bến xuân..."
Giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê khi phê bình bản
nhạc "Trường Ca Con Ðường Cái Quan" của nhạc sĩ Phạm Duy, có nhận xét
là đoạn cuối của bản trường ca không có mang nhiều hơi hám dân ca của miền Nam,
nhất là tiếng nhạc của những câu "Người về Tiền Giang đi về xa xăm, người
về Hậu Giang xây tổ uyên ương" không có tí gì là nhạc Việt cả, và hình như
nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu nặng nên hành khúc Cửu
Long Giang phải có hơi hám nhạc Âu Tây. Chúng ta, không phải ai cũng biết nhiều
về âm nhạc, nhưng cũng xin có vài ý kiến nhân đó làm một kết thúc cho bài viết
về Văn Cao. Ta nghĩ là khi đến đoạn cuối của bản trường ca, nhạc sĩ Phạm Duy
hơi lưỡng lự như mất nguồn cảm hứng về dân ca, lý do vì nhạc sĩ chưa cảm thấy
thích thú lắm dân ca của miền Nam, dân ca ở đây chưa thấm sâu vào tâm hồn của
ông. Nhưng bản hành khúc Cửu Long Giang vẫn hay, diễn tả được cái triền miên và
mênh mông của dòng nước xuôi chảy về cuối chân trời. Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh
cụ thể của dòng sông tràn đầy đã nhập tâm vào người nhạc sĩ để hóa thân thành
những tiếng nhạc tha thiết hiếm có, nói rõ hơn, nguồn cảm hứng của Phạm Duy
không phải dân ca miền Nam mà chính là dòng nước ngọt ngào cũng như tình người
hòa thuận của miền Nam.
Ðó chỉ là sự cảm nghĩ theo chủ quan, không biết
có xa xôi lắm không. Từ cảm nghĩ hình ảnh thiên nhiên hóa thân vào âm thanh nghệ
thuật, ta có thể nhận định ngược lại là âm thanh cũng có thể cho ta hình dung
ra một quang cảnh nào đó. Tiếng nhạc du dương trong trẻo của bản "Thiên
Thai" cho thấy trước mắt một vùng thần tiên mây khói; tiếng nhạc êm đềm của
bản "Bến Xuân" là màu tươi mát của khói sóng trên sông; và bài thơ
huyền hoặc "Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc"… cả ba là những dòng sông
phảng phất một thứ sương mù kỳ ảo, tuy khác biệt đôi chút về màu sắc, nhưng từ
nguồn một tâm hồn thơ mộng Văn Cao, nhạc sĩ thời tiền chiến.
Tran Van Nam
(Nguồn:
Tạp chí Văn Học số 115, Sài Gòn, tháng 9 năm 1970)