PT 1942-2008 |
Sa Đéc là một tỉnh
nhỏ xinh xinh nằm bên bờ Sa Giang êm đềm,
một phụ lưu của dòng Tiền Giang. Tôi không
nghĩ rằng đây là một chốn địa linh nhân
kiệt. Nhưng về nghệ thuật sân khấu, nữ
nghệ sĩ Năm Sa Đéc được vang danh
khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Bà nổi danh từ
bộ môn hát bội, rồi hát cải lương, sau
hết là ở lãnh vực thoại kịch và điện
ảnh. Bà là kiện tướng của nghệ thuật
trình diễn không nhờ thanh sắc mà ở nghệ
thuật diễn xuất. Nhắc tới bà, chúng ta nghĩ
tới nữ nghệ sĩ Françoise Rosay của Pháp, hay
nữ nghệ sĩ Marguerith Rutherford của Anh, Judith
Anderson của Mỹ. Và ngoài ra, vào đầu thế kỷ
20 có 2 tay kiện tướng khoa bản như Luật
sư Trần Ngươn Hanh, Kỷ sư Lưu văn
Lang (xuất thân từ trường Đại Học Bách
Khoa Trung Ương tại Pháp). Về văn chương
trước năm 1975 có Sa Giang Trần Tuấn Kiệt
nổi tiếng về thơ. Bên văn xuôi có chị Linh
Trang (tác giả tập truyện Mưa Chiều) và
Phương Triều. Nhưng lúc đó công việc sáng tác
của họ chỉ như hoa chớm nụ, trăng
vừa tròn gương. Cả hai chỉ tung hoành bên báo chí
nhiều hơn.
Vận nước đổi
thay, cơ trời xoay chuyển. Khi ra hải ngoại, bên
văn xuôi, hai nhà văn gốc tỉnh Sa Đéc là
Nguyễn văn Ba, nữ sĩ Tiểu Thu tung ra những
tập truyện viết về phong tục trên đất
nước quê hương với bút pháp dí dỏm nồng
mặn. Còn Phương Triều bắt đầu khởi
sắc ở nghệ thật sáng tác thi ca. Bởi anh không
cộng tác với các báo văn học nổi tiếng
như Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành
v.v... nên không đuợc giới sành điệu biết
đến nhiều.
Văn nghiệp của
Phương Triều gồm có : Còn Nhớ Còn Thương (tập
truyện, 1966), Tiếng Hát Hoàng Hôn’(tập
truyện, 1966), Sầu Hương Phấn’(tập
truyện, 1972), Thơ Phương Triều’(thi
tập, 1995), Trăm Bài Thơ Xuân’(thi
tập, 2000), Xóm Mộ’(thi tập, 2001), Giọt Sữa Đất’(thi
tập, 2002). Và sau hết là Xương Rồng Đen (thi
tập, 2004).
Xếp lại tập thơ Xương
Rồng Đen, tôi bất đầu ngáp dã
dượi. Không phải tôi không thích thú khi đọc nó.
Không phải tôi chán ngấy với cái ý tình huyền bí mông
lung của anh. Không phải thơ anh không mở cho tôi
một cánh cửa, một lối đi, một dòng sông
để tôi viễn du vào trong đó. Tôi chỉ sợ khi
bình thơ anh, tôi không đủ khả năng diễn
tả cái cảm nhận của tôi đối với
thơ anh.
Những bạn văn của
tôi như 2 nhà thơ nữ Thụy Khanh, Nguyễn Thị
Thanh Bình và anh Vũ Tiến Lập có cho tôi biết
Phương Triều là một trong các nhà thơ trội
nhất trong các nhà thơ gốc Nam Kỳ hiện
định cư khắp bốn phuơng trời hải
ngoại. Anh dù không thể song hành với Trần Tuấn
Kiệt, Tô Thùy Yên khi còn ở trong nước, nhưng anh
vẫn bước vào loại thơ có lác đác một vài
tư tưởng mà vẫn giữ nguyên vẹn vóc dáng và
cốt tủy của thơ. Anh không có sở tri thâm
hậu về Phật pháp như Võ Chân Cửu qua các tập
thơ Đại Mộng’và Thảng Lai Thi, không thuần túy sáng tác
loại thơ bề ngoài là Trử Tình Ca, nhưng bên trong
chói rạng tinh thần Bát-nhã chẳng hạn như Như
Chi Lê Thị Hiền (qua thi tập Thơ Hiền). Tuy nhiên,
thơ anh vẫn phảng phất bóng dáng tư
tưởng về cái ảo ảnh của cuộc phù
thế, về cái khao khát niềm hạnh phúc vĩnh
cửu của con người qua thơ của Ngô Nguyên
Dũng, của Đặng Thị Quế Phương.
Có một điều đáng
nói là các thơ gốc Nam Kỳ là Phan Ni Tấn và Lâm
Hảo Dũng dù không phải là thơ tư tưởng mà
là thơ cảm hoài, nhưng thơ của cã hai phản
ảnh được tâm trạng thế hệ của
một lớp người khổ đau, chịu nhiều
hệ lụy, chứng kiến biết bao cảnh tang
thương và chịu nhiều mất mát về
phương diện tinh thần. Cũng vậy, cái
đề tài của thơ Phưong Triều cũng không
thoát ra ngoài cái quỹ đao của hai anh Phan, Lâm để
tạo cho mình một cương vị sáng sủa trong thi
giới. Một lẽ dễ hiểu: anh đã từng
sống đọa đày dưới chế độ
mới, đã nghiệm chứng được cái đau
khổ của con người mình bị tướt
đoạt, đã chứng kiến mọi giá trị tinh thần
bị cơn bão thời đại làm sụp đỏ.
Anh cũng đã đau khổ vì mọi cái quý báu của lý
tưởng, của những giấc mưa vừa
chớm hình thành mà vẫn chưa có cơ hội nào
thực hiện nổi nên đành bị dập tắt
một cách tức tưởi. Riêng thi tập Việt Nam
Thương Khúc’của Kiệt Tấn là một tác phẩm
của dân tháp ngà học đòi làm giang hồ kiếm khách,
làm chiến sĩ xông pha trước mũi đạn
lằn tên. Đương sự chỉ dùng lối thơ
song thất lụcbát viết lại những thảm
trạng trên quê hương qua các sách vở, chớ không có
dịp dấn thân vào cuộc sống vào thời giông bão
nhiễu nhương. Đó là đương sự làm
thơ qua đống tài liệu chết, qua những câu
truyện truyền khẩu dược tượng
trưng bằng những cái xác ướp lâu đời
trong các ngôi cổ mộ. Đã vậy, ngôn từ của
thơ anh ta ít có công phu sáng tạo, ngôn ngữ thơ
thiếu chất men quyến rũ. Tập thơ này thua xa
tác phẩm đầu tay rất dễ thương của
đương sự là tập thơ Điệp Khúc Tình
Yêu Và Trái Phá’’.
Trở về thi tập Xương
Rồng Đen, trong số chúng ta sẽ có ngưòi tự
hỏi: Những tư tưởng nào mà được
Phương Triều đưa vào thơ? Triết lý
hiện sinh hay triét lý nhân bản? Phật pháp hay triết
học Lão Trang?’Thật khó xác định được.
Thơ anh bàng bạc nhiều thứ tư tưởng
triết học lẫn tâm linh, không có tư tưởng nào
rõ nét và kéo dài tràng giang đại hải. Có như thế
tư tưởng trong thơ anh khỏi trở thành
một thứ vay mượn lộ liễu. Song moi tư
tưởng anh đi vào thơ không nhắm vào cái rối
reng khuc khuỷu của hiện tượng, mà như
những mũi tên nhắm vào bản thể hiện
hữu. Nếu nhà văn hay nhà thơ cứ đào xới
cái uyển chuyển, cái éo le, cái phức tạp của
hiện tượng thì chỉ có thể khai thác những
nhân sinh quan của mình. Đi vào bản thể,
người cầm bút mới đào sâu vấn đề
triết học và tư tưởng tâm linh.
Chúng ta thử đọc bài
khai đề cùng tựa với thi tập của
Phương Triều: Hoa Xương Rồng Đen’’:
Bụi xương rồng trong chậu
Nở được nụ hoa đen
Mong đợi kẻ thắp đèn
Soi mặt mình hớn hở!
*
Mùa đông tưới nước sôi
Mùa hè dội nước đá
Hoa xương rồng nghiêng ngả
Theo vận đời nổi trôi...
*
Buổi tối ma vương về
Nhìn quanh cuời hả hê
Gai xương rồng có thật
Nhưng hoa là cơn mê !
(trang 3)
Đây có phải là bản
tuyên ngôn ẩn núp sau bài thơ giáo đầu cho ý tình trong
toàn thể thi tập chăng ? Hoa đen chỉ là cơn mê
biểu tượng cho cái gi và điều gì ? Gai nhọn
có thật thì lại được ẩn dụ cho cái gì
và điều gì ? Có phải chăng cuộc đời
dưới ánh sáng Bát-nhã của nhà Phật là cơn
đại mộng dẫy đây hoàn cảnh đen tối
để trở thành ác mộng đói với kẻ lún sâu
vào cơn mê lầm ? Cuộc đời vốn là huyễn
mộng Và bởi nó là mộng nên các chúng sinh mới
thấy nỗi đau khổ, mọi tai ương
hoạn nạn (những gai độc đấy! )
đều là có thật.
Trong thi tập Xương
Rồng Đen, tư tưởng nhà Phật bảng
lảng ở rất nhiều câu thơ hoặc ở
nhiều đoạn trong bài thơ. Tác giả không đè
đầu đè cổ Phật pháp để ép uổng
chúng vào thi ca đâu. Một khi ngọn bút anh nở hoa, bóng
Phật và bóng Bồ-tát nuờm nượp hiện về.
Dù là cái bóng, dù dưới thiên hình vạn trạng khác
biệt nhau đều sản sinh từ một thực
thể cả.
Xuôi mút dòng sông chưa thấy biển
Nghe chừng chân trợt hóa hư vô
Lỡ tay moi hết từng mê hoặc
Từ đáy hồn reo tiếng bão xô!
*
Rót bao nước đủ cho đời
khát ?
Rửa mât hiền nhân đặc sáp khô
Kéo thêm chỉ nối diều hoan lạc
Dẫu một trùng dương cũng
hải hồ !
*
Cho chút trăng xưa về bến cũ
Mắt già thôi lạnh nếp khăn sô
Tiếng ai ầm ỉ ngày chiêu niệm
Còn chút từ tâm cũng ý đồ !
*
Ghé qua hương gió cười xanh
mộng
Ngọn tóc hài nhi nắng nhấp nhô
Đời bắt đầu dư năm
tháng lạnh
Như đời có thật giữa hư
vô!
(Có Thật, trang 57)
Cái mà chúng ta thấy biết
qua năm giác quan, qua khái niệm chỉ là cái thấy
biết dựa trên cái vô thường huyễn hoặc. Cho
nên tác giả hoài nghi những khuôn mặt thánh hiền
chỉ là cái mặt nạ bằng sáp. Con người
vốn có dục vọng to tát và bất tuyệt thì làm sao
họ nắm bắt sự thật tuyệt đối.
Ngay cả cái chút từ tâm của con người chưa
chắc phải là lòng bác ái chân thật mà là một ý
đồ cầu danh hay cầu lợi gì đó. Cuộc
đời ở cõi Ta bà nầy không phải là cái có
thật tuyệt đối vì trong sắc có không, trong không
có sắc (như đời có thật giữa hư vô).
Nếu hiểu được như thế, chúng ta
mới có thể khởi hành vào chứng ngộ.
Lộn đêm thành giấc ngủ ngày
Kéo theo bóng mộng mệt nhoài giữa
trưa
Nắng vàng chưa kịp xanh dưa
Đã rơi rụng xuống chỗ
vừa mưa qua!
*
Mời trăng ngủ nán hiên nhà
Tiếng thơ thủy mạc hương
trà thủy tiên!
*
Bút đâu vấy mực hảo huyền
Vung tay vẽ lối đào nguyên kẹt
đường!
Xe đò chạy sớm tinh sương
Bồn binh kẻ chợ thảm
thương vật vờ
*
Lạc từ ngọn cỏ phất phơ
Từng con bướm mộng bơ vơ
giữa đời...
(Bóng Mộng, trang 8)
Bài thơ nói lên cái trái trắc
đảo điên trong cuộc sống Trong cõi phù du
nhốn nháo và trái trắc đó, có những điều
chưa kịp thành hình mà phải chịu cảnh dập
tắt một ách tức tuởi (Nắng vàng chưa
kịp xanh dưa’/ Đã rơi rụng xuống chỗ
vừa mưa qua). Ở đây chúng ta có thể nghĩ
đén những con người chưa kịp trưỏng
thành mả phải yễu mệnh chết non. Và cũng
trong cõi ấy, mọi thưởng ngoạn, mọi sáng tác
của người nghệ sĩ cũng trở nên
huyễn hoặc và sa vào ngõ bí (xin đọc phân
đoạn thứ 2 của bài thơ). Nhưng dù có bị
đưa đẩy bởi nghiệp lực như
ngọn cỏ phất phơ trong gió, con người
vẫn cứ mộng, chưa thúc tỉnh để
nhận diệni cái bản lai diện mục của
hiện hữu (xin đọc hai câu cuối của bài
thơ).
Từ đó vong thân vào nghiệp
chướng
Mặt đời ràn rụa bóng chiêm bao
Đêm đen tròng mắt ngày râu trắng
Từng lớp môi khô bật máu đào.
*
Xúm nhau diễn tới cùng im lặng
Rồi bật cười như mới
được đau!
Neo hồn thương tích vào thương
tật
Rồi lại buồn như chẳng
thể nào....
(Nẻo Hồn, trang 85)
Như thế, còn mê là còn
trầm luân trong bể khổ. Đây là hồi chuông
cảnh tỉnh gióng giã của Đức Phật
đưa con người tránh khỏi Neo hồn
thương tích vào thương tật / Rồi
lại buồn như chẳng thế nào...’’.
Con người nếu có
cuộc sống bình ổn, nếu mọi ao ước
của ai đó được thực hiện bằng cách
này hay cách khác, đương sự thường săn tìm
những mộng ước mới. Y ta không có thời
giờ nhìn sâu vào những hiện tượng của mọi
hiện hữu trong cuộc đời huống hồ là
cái bản thể chung của mọi hiện tượng.
Chính những con người đau khổ mới có
dịp tư duy, mới có dịp nhìn sâu vào những
hiện tượng tiêu cực của đời sống:
những tai ương, những đau khổ, những tan
vỡ của mọi ước vọng, những tranh
chấp và mâu thuẩn trong xã hội, cái phù du huyễn
hoặc của kiếp nhân sinh... Do dó, họ tìm tòi ra cái
nguồn gốc tiêu cực lẫn tích cực chung của
vạn hữu. Từ đó, vấn đề tâm linh và
vấn đề triết học mới được
họ quan tâm.
Ở truờng hợp
Phương Triều, dưới chánh thể Việt Nam
Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, anh sống
tương đối thoải mái. Nhưng sau cuộc đổi
đời kể từ sau ngày 30/ 4/ 1975 cho tới khi ra
hải ngoại, cuộc sốngcủa anh đã trở
thành khổ ải lầm than. Anh mới có dịp nìn sâu vào
cái góc rễ của niềm bất hạnh mình, cái trầm
luân của nhân sinh. Dù có tiếp xúc với 2 bộ môn
triết học và tâm linh hay không, anh vẫn phải tìm cho
mình một hệ thống nhân sinh quan nào đó để
trực diện với hoàn cảnh mới, để
đương đầu với mọi trắc trở
truớc một cuộc sống tối đen đầy
cạm bẫy. Do đó, thơ anh không còn đơn
giản và thấm ướt mạch trữ ình lãng mạn
nữa. Nó lột xác thành một loại thi ca có chiều sâu
hun hút, choáng ngợp cái bí nhiệm của cuộc sống.
Khi giấc ngủ không còn mộng
được
Trái trời xanh rụng trắng mặt
đêm hoang
Tiếng trống vọng xôn xao vào ngõ
ruột
Vỗ hồn khon thảng thốt gọi
trăng tàn!
*
Cuối lưu vực sỏi chao dòng
nghịch thủy
Vác nhục nhằn sông lặng xuống
đa mang
Tay cõi thế nối mưa vào đọt
nõn
Bởi kỳ dư gốc gác đẫm
sương tan!
*
Tay vấy đậm những lần
rơi rớt vụn
Người vô tư ngồi giữa
mộng vô vàn
Miếng vinh nhục mấy khi mà lơ láo
Chút dây thòng sao thắt đủ nghiệt
oan?
*
Tiếng trống chợ tưỏng
đâu mùa tựu học
Cắt trầm luân chia đủ giọng
rao hàng
Ông Tám hôm qua bà Ba bữa trước
Tắm rửa bao lần chưa tới
được cao sang!
*
Chơi bản ruột sao đờn theo
trật ý?
Rớt nhịp mơ hồ sao cất
giọng lên ngang?
Bao tội vạ đổ lên đầu
tội nghiệp
Nước sông đầy sao đáy
ruộng khô khan?
(‘Bản Ruột, 50, 51)
*
* *
Chúng ta hãy ngưng bước
viễn du vào các lãnh vực tư tưởng, hãy
hượm đừng vội vào các môi trường nhân
sinh quan của nhà thơ Phương Triều. Bây giờ có
nhiều người tự hỏi: Phương Triều
oằn vai gánh vác tư tưởng vào thơ, nhưng
thơ có chấp nhận chúng không? Thơ anh có bị
dị ứng với những ý tưởng chỉ có
thể hiện diện trong các cuốn biên khảo
triết học và tâm linh không? Có phải đó là những ý
tưởng không thể phù hợp với môi trường
thi ca làm cho thi ca không thể tiêu hóa chúng nổi và phải
thượng thổ hạ tả chúng ra ngoài không? Xin thưa, Phương Triều
trước khi đưa tư tưởng hay nhân sinh quan
vào thơ của mình thì anh đã biến ngôn ngữ của
hai môn học khô khan ấy thành ngôn ngữ tạo hình
rất gợi cảm và thơ mộng, tức là ngôn
ngữ của thơ. Như thế, đã là ngôn ngữ
thơ thì lẽ nào lại chui vào thơ một cách khó
khăn hay sao? Lẽ nào con cá không thể chuồi vào
nước để được bơi lội vẫy
vùng hay sao?
Nhưng mà ngôn ngữ thơ
của Phương Triều không quá giản dị, bôc
trực và nhất là không suông đuột như thân thể
cô gái già ốm yếu chẳng có ngực, không có mông
tức là không có nét gồ ghề ngoạn mục gì ráo
trọi. Trái lại, nó được canh tân,
được cải tiến, được mỹ
lệ hóa để đuợc trở thành một thứ
ngôn ngữ thuần óc sáng tạo, thuần túy...
phương triều, không trùng lẫn ngôn ngữ thơ
của ai khác.
Xé một chỗ mọc lành trăm ghẻ
lạnh
Đêm địa cầu da thịt
đất đâm gai
Bẫy rập vô tư khuôn vàng thước
ngọc
Chân đạp nhằm bóng mộng xác xanh
phai.
*
Mưa hào sảng hư từ trên miệng
thế
Nụ cười đen xối xả
mặt u hoài
Một lẽ sống có muôn vàn nhiễu
sự
Thân nhọc nhằn lê lết nỗi chua
cay!
*
Người dở chết mím môi ghìm
ngấn lệ
Kẻ tồn sinh hồi hộp thở
hương phai
Mặt thỏ hôm qua mặt mèo hôm
trước
Thêm miệng lằn lưỡi mối
giọng bi ai!
*
Cá ngộp thở ngậm rong vàng giữa
bụng
Kịch trường đen chợt
trắng mặt bi hài
Nối tao võng ru xanh ngày tĩnh mịch
Chút tàn tro lồ lộ máu xương ai!
*
Chưa kịp tới tưởng đâu
còn kịp lúc
Tới kịp rồi hồi hộp
chỗ lung lay!...
(Nụ Cười Đen,
trang 148)
Đây là một bài thơ
đưa chúng ta đối diện với cái bi đát
của con người, cái ngang trái nhục nhằn của
cuộc sống, cái thảm thương của những kẻo
lao thân vào cạm bẫy tai ương, chắc có lẽ vì
mê say một ảo ảnh nào đó. Ngôn ngữ thơ
mờ mờ nhân ảnh, xen vài câu thơ huyền bí rất
thơ rất mộng chẳng hạn như : Nối tao
võng ru xanh đời tĩnh mịch. Nhưng nó cũng không
hủ nút như thơ của nhóm Xuân Thu Nhã Tập, như
thơ của Bùi Giáng. Nó được che phủ bởi
một màn sương mỏng, vừa đủ để
hiện le lói những chấm đèn lửa quạnh hiu. Có
vậy, nó mới làm cho hơi thơ thêm se sắt ngậm
ngùi, làm cho ý tình thêm thâm thúy, và nhất là khơi dậy óc
liên tưởng của người đọc thêm dằng
dặc bao la. Chúng ta ngờ ngợ ẩn sau mặt
chữ, tác giả còn có điều gì muốn nói mà không
thể nói ra vì chữ nghĩa vón bất lực, chưa
đủ khả năng diễn tả những ý tình,
những thâm u ẩn mật của sự thật toàn
vẹn và rốt ráo.
Vũng đựng trăng nghiêng ngày
nước cạn
Mặt bùn ửng lại sắc nghi trang
Dò ra tăm tích đường đô
hội
Vỡ vụn trăm lần một nát tan!
*
Có phải thềm xưa thành vũng mới
Hay bóng đời trôi vào ngõ hoang
Bàn tay buồn bã rời guơng lược
Mà hốt đầy vơi chút bụi tàn?
*
Nhặt cánh hồn trôi vào vất
vưởng
Gói tròn cơ cực ủ lầm than
Mắt vô sinh ngó trời hoang mộng
Sao bật rèm mi ngấn lệ tràn?
*
Chân mây chạm rát triền vai gió
Làm bật đường tơ khúc lỡ
làng
Mặt bùn nhuộm ánh trăng khuya lạnh
Người gượng vui cùng khóc lạc
quan!...
(‘‘Chân Mây’’, trang 73)
Ở đây, ngôn ngữ
thơ đen đậm đặc hơn, nhưng cách
sắp xếp chữ vẫn tinh vi và gợi cảm như
ngôn ngữ trong toàn thi tập, hình ảnh được
săn tìm và chọn lọc cho thơ vẫn quyến rũ
như tự bao giờ. Đó là ngôn ngữ dành riêng cho
thơ, mà phải là thơ của Phương Triều.
Chẳng hạn: Bàn tay buồn bã rời gương
lược’/ Mà hốt đầy vơi chút bụi tàn.
Và chẳng hạn: Nhặt cánh hồn trôi vào vất
vưởng/ Gói tròn cơ cực ủ lầm than. Tôi
đố ai giải thích những câu thơ đẹp
ấy cho đúng ý tình của tác giả. Và dù chúng ta không
HIỂU THẤU nhưng ai cấm chúng ta không CẢM NH
N? Cái hiểu thấu chắc
gì thù thắng băng cảm nhận dù hai cái đều là
những cái tiếp thu hay hấp thụ vạn hữu
bằng trực giác.
Mai đi mốt lại ngập ngừng
Quay ra chưa kịp nửa chừng
trở vô
Ván đầu đâu đã tri hô
Chút thương tích cũ hồ đồ
kêu oan!
*
Bé em nhỏ nhẹ tiếng đàn
Sao tưng bừng những rộn ràng
tới lui?
Nén buồn nhẫn nhịn mua vui
Tới khi vui lại bùi ngùi nỗi riêng!
*
Ghép lòng theo mảng biến thiên
Thấy nhau hồi hộp ngửa nghiêng
tấc lòng
Nửa ngoài còn ở ngoải không
Nửa trong ở trỏng sao còn trống
trơn?
*
Nỗi đời chỗ thiệt chỗ
hơn
Chút hơn thiệt cũng giận hờn
thiệt sao?
Không từ không thể có nhau
Nên không dẫu có thế nào cũng không!
(Cũng Không, trang 151)
Đi hay ở,
được hay thua, đừng vội hồ đồ
la toáng lên. Buồn hay vui đều tùy lúc, có khi buồn mà
phải giả bộ vui ; cái vui đó không thật. Có khi
vui, nhưng trong cái vui đó còn lởn vởn cái ngậm
ngùi riêng tư. Thôi thì hãy tùy theo cái biến thiên của hoàn
cành, của thế sự. Vì sao? Vì dưới mắt tác
giả cái gì cũng có cái phân nửa ở ngoài và cái phân
nửa ở trong. Nhưng anh lại tự hỏi: cái
ở ngoài lẫn cái ở trong quả có thật hay không?
Ngoài và trong là 2 điều mà tác giả cho chúng ta cái ý
niệm về hư vô, về huyễn hoặc
*
* *
Lác đác đâu đó, một
vài cảnh nghèo cực trong một góc phố u buồn xen
vào thơ. Chẳng hạn bài Con Phố Đen vẫn
chỉ là một hình ảnh cư ngụ của lớp
người ở cấp bậc thấp trong cái xã hội
chốn thị thành. Nhưng nó đựợc diễn tả
bằng một phong thái mới với ngôn từ mới :
Con phố màu đen ngủ mùa đông xám
Ngách hẹp ngõ tàn chuột chạy bơ
vơ
Con phố đêm đêm xong mùi chua rác
Người vắng hơi người
thương nhớ ngẩn ngơ !
*
Con phố màu đen ngủ ngày vất
vả
Cơn bệnh mùa đông nhuốm mặt
xuân sơ
Trên lớp phấn son có màu gió bụi
Ngày xuân xanh... tím lạnh vết bơ
phờ !
*
Con phố màu đen vặn mình trốn bão
Bếp lửa xuân về leo lét thờ ơ
Chút cháo hâm chiều húp lại bâng quơ!
*
Con phố màu đen rêu dài lưng ngói
Nỗi nhớ thương khô cháy vào
ngấn lệ
Đêm gục đầu âm vọng gió se
tơ!...
(trang 77)
Bài thơ Hơi Cơm Cháo’cũng
là một hột trong xâu chuỗi thơ hiện thực
của Phương Triều. Trước đây, văn hào
Dostoievski sông trong hoàn cảnh khó khăn về mặt tài
chánh. Ông mới có dịp được gần gũi
người thất bại, những kẻ thất
thời thất chí ; ông lân la với những kẻ bần
hàn và nhất là những bậc trí thức có cuộc
sống đạm bạc. Đó là những kẻ có óc
chống đối với hoàn cảnh hiện tại,
chống đối với niềm tin tưởng về
phương diện tâm linh, mặc dù các đương
sự ấy yêu thương cuộc sống, yêu thương
tha nhân và hay thắc mắc những vấn đề siêu
hình cùng vấn đề thần linh. Điều này báo
hiệu cho chúng ta biết trước cái thế giới
văn chương của Dostoievski đầy dẫy
những nhân vật khó thể thỏa hiệp với
đời sống. Họ sống bằng những bản
năng thô bạo, bằng khao khát những vấn
đề siêu hình; trong bọn họ có lắm kẻ thác
loạn thần kinh. Cái phần tối tăm, dữ
dằn của họ chiếm rộng trong cái nội
giới bị ít nhiều thương tích của họ.
Riêng Phương Triều trước năm 1975 chỉ
viết những truyện ngắn hiền lành. Sau thời
gian bị tù đày dài dằng dặc, anh còn phải
sống thiếu thốn cơ cực dưới chế
độ Xã Hội Chủ Nghĩa, gánh vác biết bao
hệ lụy oan khiên. Sau khi ra hải ngoại, anh vẫn
còn bị ác mộng kinh hoàng trên quê hương ám ảnh.
Thi ca của anh lúc đầu còn bát ngát niềm hoài cảm,
nhưng dần dần những cơn ác mộng trong
tiềm thức đen sâu trồi ra đưa đẩy
nguồn sáng tác của anh vào trong cái thế giới đen
tối hơn, có những cái bí nhiệm kỳ đặc
hơn, tạo cho anh một loại thi ca làm bàng hoàng
người đọc.
Bài thơ Nước Đen’vẫn
nằm trong đề tài nói về cảnh nghèo nàn thiếu
thốn. Nhưng ở trường hợp này, nó không
phải chỉ là bức tranh xã hội để tác
giả triển lãm cho độc giả ưa thích thơ
văn hiện thực hay thơ văn tân hiện thực
thưởng ngoạn mà là để cho những ai thích tìm
về những cái siêu hình trong cuộc sống, trong mọi
cá thể của thế nhân. Anh đưa bức tranh xã
hội vượt cao hơn thơ của trường
phái hiện thực hay trường phái tân hiện thực
nhiều cung bậc. Xin đọc:
Có loài cỏ còn cao hơn cỏ dại
Nhánh chìa tay đơm những giọt
sưong tan
Chao ngọn gió thổi ngang bình địa
mộng
Dắt hồn lên đường
ngược cõi điêu tàn!
*
Nên bất chợt lãnh nguyên đòn trái
trắc
Đời chơi khăm hay đời
vẫn ngược ngang
Người keo kiết trách than
người biển lận
Vớt trăng tàn soi lại ngõ đêm
hoang...
*
Nên tự tiện kề môi lên khóe mộng
Hôn phù du níu vội bóng mây ngàn
Mưa gõ lá lại nghe chừng long óc
Rỗ mặt đời xanh ngọn gió
cường toan!
*
Bao đói lạnh cứ mong kỳ ngộ
lúa
Hột trời cho thành mộng ước
cao sang
Đem bán rẻ tuổi vàng cho kẻ
chợ
Rồi hồn nhiên ăn uống bữa
đàng hoàng:
*
Từ vực kiếp vang vang lời
phẩn nộ
Suối hồn đơn cuồn cuộn
nước đen tràn...
(trang 128)
Bài thơ Giấc Lúa’phơi
bày vài nét khái quát cảnh thiếu thốn của những
kẻ ở thôn quê, nhưng nếu ta xếp nó vào loại
thơ hiện thực thì không mấy xứng cái tài sáng
tạo ngôn ngữ vừa mới mẻ vừa truyền
cảm của Phương Triều. Đọc xong bài
thơ này, chúng ta có thể nhìn sâu vào cảnh ngộ, vào thân
phận con người hơn loại thơ hiện
thực:
Thêm nhưn nặng chỗ tay bồi
Hột muối tiện dịp đắng
đời khổ qua
Đắng dùm cho ngọt xót xa
Miếng cơm đất lạnh đắng
ra miệng người!
*
Thêm vui trên miệng thiếu cười
Trẻ thơ bú mớm nửa vời
rụng răng!
Hạ về dắt gió xua trăng
Miếng bánh không tuởng cũng bằng
không ngơ!
*
Thêm mơ vào mộng vật vờ
Ngủ quên giấc lúa sân chờ thóc xưa
Tay chiều chải mượt tóc mưa
Trán sơn thủy ướt chỗ
vừa rát đau!
*
Se chung gốc ngọn hồi nào
Tơ duyên rời rã dính nhau chỗ buồn!
(trang 54)
Bài thơ Bóng Tối’cũng
phơi bày sơ sơ cảnh nghèo, cảnh lọc lừa
gian trá, cảnh đổi thay ông hóa ra thằng, thằng
hóa ra ông’mà tác giả vừa làm chứng nhân vừa
lặn hụp sống trong đó. Chính những cảnh
đau thương như vậy chẳng những tạo
cho anh lối thơ hiẹn thực có tầm vóc mà còn
đẩy nếp tư duy anh đi xa hơn, vào một
khung trời tư tưởng để nguời
đọc có dịp chia sẻ với anh:
Đêm ru đường chia nhau bóng tối
Không chắc gì... no đói bữa sau!
Người tất tả đi để
không còn ngồi lại
Thêm bước lạc loài đâu vội có
nhau!
*
Thân trúc chẻ ra làm cây tăm nhỏ
Manh áo thời danh mưa gió cũ nhàu
Vệt máu mênh mông chảy từ vết
bụi
Hồn bút vật vờ rỏ mực
thương đau!
*
Kẻ sĩ xuôi tay kê đầu lên sóng
Mẹ trùng dương về rửa
mộng hư hao
Đứa trẻ năm xưa mặt mày
non nớt
Giờ nhăn nheo cằn cỗi giống
quân nào!
*
Treo bảng phấn bán rao đồ giả
hiệu
Thiếu viện mồ côi thơ ấu bôn
đào
Lão pháp sư buồn sửa câu thần chú
Lờn mặt từ trong tiếng gọi
mày tao!
*
Ngưòi xếp ga chiều đón thêm tàu
chợ
Thiên hạ âm thầm bán rẻ đời
nhau
Két học đôi ngày thành danh hốt bạc
Chúa chổm quay về vay nợ ăn khao!
*
Khói cay rộ niềm đau của củi
Tre già khô che ngọn bích đào
Thế kỷ hoang mang từ năm thứ
nhứt
Người sống thiệt thà giống
chuyện tào lao!
*
Người còn đốt lá soi tìm thanh
sử
Bảng hiệu đèn khuya sáng rộ
chỗ nào?
(các trang 136, 137)
*
* *
Thơ Phương Triều
trong thi tập Xương Rồng Đen có rất
nhiều vấn đề để tác giải bày giải
nỗi ư tư của mình. Nói thế các bạn sẽ
thắc măc bút giả: Ủa ngộ dữ không! Làm
thơ là để hưởng cái đẹp của
cuộc đời, để được hạnh phúc
trong nếp sống thường nhật , để tinh
thần được thăng hoa vào cõi mộng tuyệt
vời, vào bầu tâm cảnh không còn liên lạc với
đời sống bon chen, hổn độn và lầm than
này. Cớ sao ông lại dám cho rằng Phương Triều
tròng cái trọng lương nặng nề vào thơ như
người nông phu tròng cái ách vào cổ con trâu? Làm thơ và
viét văn là để thưởng ngoạn chớ đâu
phải để suy tư. Sao ông cầu kỳ, phiền
phức và rườm rà như vậy?’’.
Xin thưa, khiếu thiếu
ngoạn của những kẻ sành thơ bây giờ đã
đổi khác, đâu quá đơn giản như kẻ
làm loại thơ tô hồng chuốc lục cho ảo
tưởng mình độc giả như thơ của
truờng phái duy mỹ vào thời đại xa xưa nào
đó. Nó thích những cái gì phản ảnh được
những điều bí nhiệm của cuộc sống,
ngoài cái sinh hoạt của xã hội hiện tiền.
Nắm bắt được những đièu đó,
chẳng những người sáng tác sung sướng ở
công trình khám phá của mình mà những độc giả
cũng khoái lạc vì kiến thức mình được
bồi bổ. Độc giả lại còn tưởng
chừng mình có thể tìm được một vài cánh
cửa để phóng mắt vào những chân trời
mới mà trong cuộc sống trước đó họ
đã từng đóng chúng bưng bít.
Ngay những chuyện tầm
thường trong cuộc sống gối chăn của anh
cũng đã có vài vấn đề nho nhỏ, tuy không làm
anh tổn thương hay bực dọc, nhưng làm anh
bỡ ngỡ sơ sơ và lo nghĩ chút chút nên anh phải
bật ra những câu dí dỏm:
Phía bên kia khóc là cười
Ở trong rộn rịp có người
ngủ quên
Ta từ xác mộng khiêng lên
Làm con bướm rụng cánh trên vai
đời...
*
Đêm chơi trò ngủ hai nơi
Nhọc nhằn phiên thức ru người
gối chăn
Cứ đêm mỏi gối hai lần
Ăn gian mấy được một
phần nghỉ ngơi!
*
Nhân danh tình nghĩa không dời
Trái tim ngàn lượng rụng rời
năm trăm!
Ái ân lỡ dịp ăn nằm
Nằm ăn đứng ngủ bởi
nhằm phiên quên!...
(Hù, trang 130)
*
* *
Còn vô số vấn đề
quan trọng hơn, bi đát hơn buông vô số câu tra
vấn, vô số phiền não cho con người có ý thức
về sự hiện hữu. Có ý thức đươc
sự đau khổ trong cơn đại mộng trên
trần thế, con người mới bắt đầu
tìm kiếm cái chân hạnh phúc đồng hóa với cái
bản thể của hiện hữu. Đó là sự
giải phóng vĩ đại để chúng ta thoát ra
bể khổ, để chúng ta tìm gặp sự an lạc
vĩnh viễn. Nhưng ở đây, Phương Triều
chỉ ở chặng đầu của con nguời ý
thức về cuộc sống. Cho nên anh ngơ ngác
trước bao hệ lụy tràn ngập trên
đường đời. Đó là cái đau khổ chung
cho những nhà thơ mới tiếp nhận một tia lóe
sáng trong đêm tối bao la vốn đã từng che lấp
tâm thức con người sống lêu bêu, không thèm
đặt vấn đề về cái ẩn mật trong
cuộc sống.
Điểm mặt hồn nhiên nét mộng
cười
Đốm trăng huyền thoại
gạt người chơi
Nai lưng mà vác từng cơ cực
Rồi tận tình vui tới hụt hơi
!
*
Quán nhỏ bâng khuâng chiều thở bụi
Ngó người ảo mộng thịt da
phơi
Chút chi gai góc trên tròn trịa
Như nỗi buồn dư giữa
thắm tươi!
*
Gõ trống bày thêm trò thưởng phạt
Tiện tay vẽ lai kiểu môi cười
Có khi đau quá đời vô vọng
Mà vội vàng rao bán mặt người!
*
Đất cũ đêm hoang ùn gió bão
Cội mai nào hé nụ xinh tươi?
Miếng cơm vừa nuốt chưa qua
cổ
Đã nghẹn lòng đau tận rã rời!
*
Đâu một lần Xuân không vội
Tết
Đời qua như thể hết Xuân
người!...
( Xuân Người, trang 5)
Tác giả vẽ nên cảnh cô
đơn của một ông lão đờn cò đã góa vô,
đã giải nghệ, hiện sống trong cảnh
tuổi già yếu, thiếu thốn vật chất và
rất cô đơn. Ông chia sớt nỗi lòng cùng con dế
tật nguyền vì đã gảy cánh nên gáy không ra tiéng.
Sự tuơng lân tương ái nẩy sinh giữa
người và con côn trùng trong đêm mưa gió. Hoàn cảnh
bi đát có thể nối liền qua sự giao cảm
tuyệt vời của cả hai chỉ có một nhân
chứng tuyệt vời duy nhất như Phương
Triều mới hiểu thấu bằng trực giác
thần diệu. Trực giấy ấy hóa thân thành bài Đốm
Sương’’:
Ông lão đờn cò cười khô miệng
móm
Chiếc răng cuối cùng dính bọt cháo
hoa
Hột muối mặn xé buồn trong
ruột lạnh
Ông lão bâng khuâng ngồi nhớ lão bà!
*
Nấm mộ sần sùi trên vồng
đất lở
Con dế thẩn thờ gặm đốm
sương sa
Đôi cánh tật nguyền gáy không thành
tiếng
Từng đêm thao thức như đôi
bạn già!
*
Ông lão sững nhìn đôi tay tĩnh vật
Sợi dây đờn xưa giờ ở
đâu xa
Âm hưỏng mơ hồ điệu ru
của gió
Từ trong mịt mờ vọng tiếng
mưa qua...
*
Sấm nối đuôi về gầm rung
lều cỏ
Thân vẫn như người hay đã tiêu
ma
Tấm thân từ đất còn nhiều
nợ đất
Tay đất ôm người lẩn lộn
thịt da!
*
Đôi bạn già chơi trò câm lặng
Đất vặn mình đau bao nỗi
ruột rà
Cây lá lộn hồn từ phương
thất thổ
Mưa lại chợt về cho cỏ
đơm hoa!...
(trang 30)
Hoàn cảnh giữa lão già và
tác giả Phương Triều vốn khác biệt nhau.
Nhưng một kẻ hay nhìn sâu vào những thân phận cô
đơn của tha nhân, nên tác giả nhiều lúc cảm
thấy mình cũng khốn khổ cô đơn vì
tưởng chừng mình mất một số điểm
tựa tinh thần nào đó. Những lúc ấy, trong tâm
tưởng, anh cũng cảm thấy mình hóa thân thành lão
già.
Theo thói thường của
những kẻ cô đơn khốn khổ thường
mượn men rượu giải sầu. Phương
Triều thì mượn men rượu để thắt
chặt tình bạn đồng nghiệp trong giới làng
văn trận bút. Thét rồi anh đâm ra nghiện. Cái
hậu quả của men say vẫn có khía cạnh tiêu
cực lẫn tích cực. Men rượu đưa
người vào cơn nghiện trầm kha để phá hỏng
cuộc đời họ. Nhưng men rượu cũng có
thể giúp cho các nghệ sĩ biết bao cảm hứng
lai láng và phồn thịnh. Thuở truớc, thi hào Omar
Khayyam xứ Ba-tư và thi hào Lý Bạch xứ Trung Hoa há
không phải thuộc hạng túy tửu phiên vương hay
sao? Văn hào Francis Scott Fitzgerald há không phải là ông
thần ve chai cự phách hay sao? Các nhà văn Việt Nam
nổi tiếng như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Thanh
Nam cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương há không
phải là nhưng tên tuổi sáng chói trên văn đàn
nhạc giới hay sao? Riêng ở trường hợp
Trần Tuấn Kiệt và Phương Triều,
rượu dìu họ vào một thế giới thi ca lạ
lẫm và bí nhiệm mà ít có nhà thơ nào can đảm
lẫn kiên nhẫn ghé mắt tới
Người ngủ đêm vàng trên sóng
rượu
Không thấy ngày thức vội hôm sau
Ngàn cân rót nhẹ ly hồ hải
Buồn vạn lần đổi một
vui sao?
*
Gối đá nằm co say tĩnh vật
Nhà hoang tưởng dậy bước chiêm
bao
Nắng khô lá nõn màu vàng đọt
Biển dội tràn sông ngọn sóng nào?
*
Khép đôi tay ấm vào chân lạnh
Chút nhiệt tình dư ủ hụt hao
Tiếng mộng vo ve từng huyễn
hoặc
Xương tàn cốt rụi cỏ xanh xao!
*
Dạo chơi vào ngõ hồn hiu quạnh
Thây chữ nằm co lại dáng đau
Thơ như vần điệu tuôn
nhầm chỗ
Nên vận vui buồn xiên xỏ nhau!
*
Đất trú chiều dâng chân gió bão
Ngựa qua cầu nhỏ nắng lao xao
Môi lạt thèm thơm hơi lục bát
Vần đau ghép vội nỗi đau nào?
(Đất Trú, các trang 110, 111)
*
* *
Các bạn độc giả
thân mến, nhà thơ Phương Triều của chúng ta dù
mê say dong ruỗi trên những ngã rẽ hào hứng của
thi ca, nhưng anh không bao giờ quên các bạn, quên cái
tuổi trẻ mộng mơ của chúng ta, không quên luôn
thời kỳ tình tự yêu đương khi tóc anh còn xanh
mướt, khi mắt anh vẫn long lanh sáng với ý tình
khi một bóng ý trung nhân đang đi sâu ào khắp ngỏ
ngách của trái tim anh. Do đó, những bài thơ lãng
mạn mới có dịp hồi sinh trong quyển thi tập
chuyên chở quá nhiều tư tưởng như thi
tập Xuơng Rồng Đen’này. Nhưng anh kiến thiết ngôn ngữ
tình yêu trong thơ. Mỗi bài thơ vẫn có như câu và
những chữ lẩm cẩm rất thơ, xen vào đó
là những câu có ngôn ngữ tân kỳ. Những câu, những
chữ lẩm cẩm ấy biểu dương nồng
độ yêu đượng thật đậm đà,
thật thắm thiết. Trong cơn yêu dấu, ai đó nói
những câu quá tỉnh táo, những câu sáng suốt thì ý tình
sẽ nguội lạnh và loãng nhạt đi.
Một lần đi tưởng đi luôn
Vừa qua gặp mặt lại tuồng
như quên !
*
Tưởng rằng được vậy
đã hên
Dè đâu bởi vậy cho nên mới
buồn !
Dẫu gì cũng lỡ nhớ thương
Dẫu rằng lỡ vậy, vậy luôn
mới buồn!
*
Bột về thắc mắc hỏi khuôn
Sao trên mặt bột rải
đường khác nhau?
(trang 4)
Cái thời thơ mộng và hiền
như mực tím’(nói theo Nhã Ca) là thời cắp sách
đến trường, vào ngưỡng cửa tuổi
hoa niên. Những mối tình học trò lấy bối
cảnh sân trường lớp học, bảng phấn
tường vôi đã được nhiều nhà thơ
từ tiến chiến tới nay khai thác bấy bầy rồi.
Bây giờ vẫn có Vũ Thi An tiếp tục viết
những vần thơ tình học trò qua hai thi tập Tình
Quê Tình Thơ’và Cuối Đường Hạnh Phúc. Thường
là những bài thơ rất... học trò, nếu không
săn tìm được những hình ảnh độc
đáo, những tứ hơ kỳ đặc, và nếu
không canh tân ngôn ngữ cho thơ thì nên đưa những
bài thơ ấy vào quyển nhật ký hay quyển lưu
bút mới thích hợp hơn. PhươngTriều dù đã
gần tuổi thất tuần, nhưng anh không dị
ứng với loại thơ thời mơ tuổi
mộng, không ngại quay về dĩ vãng để khơi
lại nguồn thơ đầu mùa của mình.
Mưa về cho nắng hạ trong
Cho thắm phượng hồng đỏ
sắc môi em !
Góc ngồi tay múa que kem
Nhìn ra mộng mị đời lem luốc
buồn !
*
Điệu ve nhịp guốc sân
trường
Mực xanh lưu bút dễ thương
chừng nào?
Ngõ đời sóng chợt lao xao
Bạn từ hôm đó lạc nhau lần
hồi...
*
Trăng nào thắp đuốc tuổi tôi
Nhởn nhơ đom đóm ngồi chơi
khắp vườn
Se lòng nhăn gió nhủ sương
Ngóng em chừng đỗi dễ
thường nguôi ngoai!
*
Mưa dầm không ướt kẽ tay
Còn chen chân chỗ khô ngoài ướt trong!...
(trang 20)
Để mai lỗi hẹn thành ra mốt
Ta lạc nhau từ hẹn bữa qua
Người đi như thể không về
kịp
Mà kịp về không kịp cách xa !
*
Xô nhau thức giữa ngày Thu ngủ
Một chút trăng non bỗng sáng lòa
Người đưa tay hứng
sương Thu tới
Mà tưởng chưa hề Hạ chớm
hoa!
*
Nên chi phượng cũ không về nữa
Trường lớp mưa giăng bóng
nhạt nhòa
Tiếng trống trường xưa
dồn tĩnh mịch
Nghiên sầu bút lạnh giữa phôi pha...
(Lỡ Hẹn, trang 26)
Những bài thơ tình của
Phương Triều chẳng những có vóc dáng riêng
biệt mà còn có ý tình đặc thù. Loại thơ này không
mặc đồng phục với các bài thơ tình yêu
của kẻ khác. Thuần chất sáng tạo là đây!
Những kẻ có tình yêu
đơn phương hay trong tình yêu nhạt nhẽo
thường tra vấn cái nguyên do tình cảm của mình
lẫn của người đối tượng. Họ
còn thắc mắc hoàn cảnh nào mà cái cung không đáp ứng
trọn vẹn cái cầu, cái hệ lụy nào khiến cho
hạnh phúc dậm chân tại chỗ hay cất cánh bay
đi. Nói theo Xuân Diệu là: Cho rất nhiều song nhẫn
chẳng bao nhiêu/ Nguời ta phụ hay thờ ơ
chẳng biết. Các đương sự cứ hỏi
lung tung, cứ thắc mắc liên tu bất tận,
nhưng rồi ra vẫn ở trong ngõ bí, trong mê cung
hoặc trong bát quái đồ hình.
Yêu lâu rồi mà như chưa yêu
Cho bao nhiêu mà như chưa nhiều
Lấy ra đếm lại rồi đem
cất
Nên bấy nhiêu thành chẳng được
nhiêu!
*
Dẫu cho thí tỉ mà như vậy
Thì cứ yêu dầu chẳng
được yêu
Dẫu gì cũng chẳng buồn cho
lắm
Thì chút buồn kia chẳng đáng nhiêu!
*
Hết yêu đâu lẽ còn yêu
được
Dẫu có yêu hoài cũng bấy nhiêu!
Dẫu rằng đã vậy thì thôi vậy
Mà chút yêu thôi cũng lụy nhiều !
*
Hỏi rằng tới tuổi bao nhiêu
Thì quên được hết những
điều chưa quên!...
(Nhiêu, trang 78)
Tác giả cứ o bế ngôn
ngữ lẩm cẩm dễ thương của một
kẻ chưa có kinh nghiêm sâu sắc và dồi dào trong tình
yêu. Điều này rất dễ làm mủi lòng người
đọc. Và hình như bởi lẽ đó mà anh hơi
lãnh đạm với ngôn ngữ của thơ. Bài thơ
thiếu nét tạo hình, thiếu cảnh vật lót nền
cho bài thơ. Ngôn ngữ thơ ít quá! Nhưng ở bài Dư’tác giả chuộc lại điều sơ
sót của mình bắng cách nâng thơ tình yêu lên vài cung
bậc cao, đưa thơ vào cái bí nhiệm, cái thắc
mắc siêu hình. Xin đọc:
Em thiệt tình quên không thể nhớ
Mà ta tình thiệt lại không quên!
Dẫu cho chỉ một lần không
nhớ
Mà ngỡ mình thành thương nhớ thêm !
*
Ghé qua gặp lúc không còn gặp
Chút nghĩa tình thôi chắc chẳng bền
Ta thiệt tình cho nên mất thiệt
Chút tình đâu đủ nghĩa nhân duyên !
*
Cứ như điệp khúc đời
đơn điệu
Người dắt nhau vào cuộc ngửa
nghiêng
Tới đêm lẩn lút về thăm
mộng
Chợt thấy tiền thân rời căn
nguyên !
*
Biển đi còn vết sầu trên cát
Chân dã tràng chao bóng đảo điên
Hồn ủ vào miên trường tĩnh
vật
Tay một đời dư chỗ tật
nguyền !
(trang 140)
*
* *
Trong nghệ thuật thi ca,
Phương Triều lột xác từ từ, chậm
chạp. Nhưng những bước chân thẳng tiến
trên lộ trình bằng phẳng hay những bước
đăng sơn của anh thật vững chắc. So
với thi tập Thơ Phương Triều’gồm
những bài thơ cảm hoài, thơ hiện thực,
rồi thì tới thi tập Xóm Mộ, anh bắt
đầu chổi dậy để hưởng ứng
những loại thơ viễn thâm tình ý, loại thơ
khám phá cái bí nhiệm của cuộc đời. Những
bài thơ trong 2 thi tập áp chót (Xóm Mộ’và Giọt
Sữa Đất) bắt đầu sửa soạn
một cuộc hóa thân ngoạn mục nên có tầm vóc
khả quan. Như thế, tập thơ Giọt Sữa
Đất ’như vầng chiêu dương đỏ
ối trồi lên góc biển phương Đông, nhuộm
hồng chân mây, còn thi tập Xương Rồng Đen’như
mặt trời vừa leo lên đỉnh ngọ, tỏa
sáng khắp sum la vạn tượng.