phác họa Phạm Công Thiện |
Thời đại
của Nguyễn Xuân Hoàng là một thời thế đặc biệt. Ở
đó, đầy những biến cố từ thuở kháng chiến chống
Pháp, đến thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa, từ
những cuộc di cư đến ngày di tản, từ cuộc vượt
tuyến di cư vào Nam đến vượt biển tị nạn xứ người.
Những biến cố ấy tạo cho cả một thời đại những
nét chung mang nhưng lại là những điều riêng biệt trong
ký ức mỗi người.
Ðọc
sách viết về thời kỳ ấy hay viết để kể lại, cái
nét chung ấy nhiều khi chuyển thành riêng biệt. Trong văn
chương, lấy cái chung làm cái riêng của mình chẳng phải
là dễ dàng. Nguyễn Xuân Hoàng là một tác giả mà trong
tác phẩm của mình đã mang độc giả đi qua những cảm
giác tiền chế của cái chung để đi vào cái riêng của
mình một cách rất nghệ thuật. Chính cái nét sống động,
của những mảnh đời thật, của biến cố thực, của
cảm giác thực đã làm độc giả đi vào một thế giới
với sự tò mò qua nhiều câu hỏi. Nguyễn Xuân Hoàng?
Trần Lâm Thăng của Người Ði Trên Mây và Bụi và Rác?
Là tôi trong Tự Truyện Một người Vô Tích Sự, trong
Ngôi Nhà Ngói Ðỏ?
Hay
là tôi của Mang Mang với thi sĩ Hoang Vu hoặc trong câu thơ
“Nha Trang Hang Ðộng Tuổi Thơ”? Nhà văn? Nhà giáo? Nhà
thơ ? Nhà báo? Don Juan hết thời? Người đi trên mây?…
Là
một phần hay tất cả trong văn chương và đời thường?
Những câu hỏi như thế cứ quanh quẩn trong tâm cảm
người đọc. Dù có thắc mắc, nhưng tác giả đã khẳng
định ở bìa sau Người Ði Trên Mây: “Cái tôi trong
truyện đương nhiên không phải là cái tôi ngoài đời.
Tôi là một người khác.” Tác giả nói như thế.
Vậy, tôi
là ai, ai là tôi? Một câu hỏi khó cho một thi sĩ đã
viết:
“Người
Ði Trên Mây
Tôi. Hay
chính ai?
Sa Mạc dặm
dài
Ai. Hay riêng
tôi? Ý Nghĩ Trên Cỏ
Tôi? Nguyễn
Xuân Hoàng
Ngôi Nhà
Ngói Ðỏ Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi?
Trong Bụi
Và Rác
Sinh Nhật.
Mù Sương
Bắt đầu
trôi dạt
Câu thơ.
Mang Mang
Một Kẻ Tà
Ðạo
Người khác
hay tôi?
Trong thời
dông bão
Nỗi hoặc
bời bời.
Người Vô
Tích Sự
Tự Truyện
một đời
Chân dung
lịch sử
Vài giọt
nắng soi
Tôi hay kẻ
khác
Tôi hỏi
tôi hoài
Gọi tôi lạ
mặt
Ấn dấu
mốt mai
Ngày nào xa
khuất
Gió lộng
hiên ngoài..”
Những
tác phẩm của một đời và cũng của một thời. Cái nợ
văn chương dường như chẳng bao giờ làm vui người gánh
nghiệp. Những nhan đề sách như cùng chuyên chở một nỗi
băn khoăn của thời đại như những viên gạch nối tiếp
nhau của ngã đường đến một phương trời nào mà đêm
và ngày không còn phân biệt và thiên thần và quỉ dữ
chẳng khác gì nhau. Sống trong chiến tranh, chịu những
cuồng nộ của chiến tranh và mong đợi hòa bình. Nhưng,
chỉ là cơn mộng. Cho nên vẫn đi trên mây như cả một
thế hệ cũng đi trên mây. Mây không phải chỉ là mây
hồng tươi đẹp hay mây vàng hôn phối mà còn là mây của
bụi và rác, của những trận cuồng phong, của những cõi
người thất tán. Nguyễn Xuân Hoàng viết khác với những
người đi trước, không giống những người đi sau và
nhiều khác biệt với người cùng thời. Ông chẳng thích
đóng vai nhân chứng mà cũng chẳng muốn làm người kể
chuyện. Mỗi cuốn tiểu thuyết, mỗi một bài thơ, mỗi
trang tùy bút, cũng chỉ là một giai đoạn trong hành trình
tìm cái đẹp. Vượt qua. Những định kiến thế nào là
văn chương cổ điển hay hiện thực, hiện đại hay hậu
hiện đại. Ghé qua tân tiểu thuyết rồi để trở lại
với mình, với một Nguyễn Xuân Hoàng luôn luôn vật vã
với ước vọng làm mới văn chương. Triết học Tây
phương hình như cũng có chút ảnh hưởng trong suy nghĩ
nhưng làm văn chương ông thoát ra khỏi cái niền kim cô
của luận lý muôn đời có sẵn.
Có
những người yêu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Hoàng. Hay mến
chuộng những trang tùy bút. Và yêu những bài thơ viết
rất hiếm hoi. Và tiếc sao Nguyễn Xuân Hoàng không là thi
sĩ. Bài thơ đầu tiên ký tên Hoang Vu, một bút hiệu lạ
đăng trên tạp chí Hiện Ðại của nhà thơ Nguyên Sa với
lời giới thiệu: “Có phải nỗi buồn tập hợp trên
mắt những người trẻ tuổi ấy phảng phất niềm đau
của thế kỷ bây giờ”, bài thơ Mang Mang của âm điệu
một thời, ngữ ngôn một thuở của những năm đầu thập
niên 60 thế kỷ 20. Một bài thơ lục bát đã có lúc
thành dòng thi ca thời thượng:
Từ
xa phố chợ đến giờ
chân quen bỏ
lệ gõ bờ lộ quen
hoang vu chín
đến độ thèm
lạnh tàn
nhẫn rót vào đêm lên đường
mùa sương
phố núi mờ sương
nhịp buồn
hút gió hồn nương sao rừng
chuyện linh
hồn với bản thân
bàn tay
thượng đế mộ phần chiêm bao
đồi thông
xanh tóc nghẹn ngào
ngập ngừng
lạnh xuống từ bao lâu rồi
còn tôi,
còn chỉ mình tôi
mây bay đầu
núi kéo trời lên xa
bàn
tay thoáng nổi da gà
thầm sâu
lòng đất nhà ga luân hồi.”
Bài
thơ có một cái gì của khởi đầu, của những điều
không có lúc chấm dứt, của mở ra rồi bỏ trống. Không
gian có lúc không còn của đồi thông, của phố chợ mà
là những hình ảnh khác, của thế giới khác, sâu lắng
hơn và cũng… hoang vu hơn. Có một điều tôi nghiệm ra,
thơ từ cội nguồn như thế nên những cuốn tiểu thuyết,
những bài tùy bút Nguyễn Xuân Hoàng đều có “mang mang”
một dòng thơ ở trong dù ở trong phong thái lạnh lùng,
của cảm giác bị nén xuống để thành ám ảnh thành kỷ
niệm. Thơ có phải là nguồn của dòng chữ viết văn
xuôi?
Ðọc
truyện dài Nguyễn Xuân Hoàng, người đọc như đi vào
một thế giới mà ở đó, những cảm giác vỡ tràn trong
những nhận thức man mác của một cuộc sống nửa mê
nửa tỉnh. Kỷ niệm, như bóng tối làm nền cho những
dương bản chói rọi, và những đối nghịch của thực
và mộng là căn bản cho những phận đời tuy trong tiểu
thuyết nhưng bàng bạc trong thực tế…
Ðọc
Khu Rừng Hực Lửa, Sa Mạc, Người Ði Trên Mây, Bụi Và
Rác,…thấy thân phận của người trí thức trong một
cuộc sống thật nhiều biến cố. Những thay đổi đến
tận gốc rễ của một thế hệ mà con đường trường
hành là nẻo song song của cõi binh lửa, của những cái
chết ở ngoài xa tiền tuyến mà lại tác dụng đến
những cuộc đời của những người thành phố. Những
nhân vật dường là hình tượng tổng hợp của nhiều
người, gần cận bên ta mà cũng xa lạ với chúng ta. Có
những suy tư, có những dằn vặt, và hình như ở bất cứ
cảnh ngộ nào, cũng là những ngõ cụt, của những nỗi
niềm tràn ứ mà không lối thoát…Cái tâm cảm bất lực
ấy dường như đã quen thuộc với thế hệ chúng tôi.
Những cảnh ngộ , mà, mọi toan tính cố gắng đều vô
dụng. Con người, cuốn trôi theo cơn lũ thời thế…
Nhiều
người gán cho Nguyễn Xuân Hoàng cái tên của chính tác
phẩm ông – “Người đi trên mây”. Hình như nhà thơ
Nguyên Sa có nói ai mà chẳng có lúc đi trên mây. Nhưng có
nhiều thứ mây, có loại êm đềm thơ mộng nhưng cũng có
loại gây ra cuồng phong bão tố. Ông nhắc đến đám mây
của Trần Lâm Thăng, nhân vật chính của Người Ði Trên
Mây, của Bụi Và Rác:
Ðám
mây mầu đỏ hất thầy giáo Trần Lâm Thăng ra khỏi
trường học, nơi anh dạy Triết, khi mà triết học dưới
màu mây đó chỉ là “một môn học bá láp”. Mây đỏ
đẩy “người đi trên mây” vào nhà giam ở vùng phan
Thiết, ném anh xuống đáy xà lim ở Kiên Giang.
Trần
Lâm Thăng bị những đám mây màu đỏ đổ xô đẩy đi
từ phi lý này đến phi lý khác, sự phi lý nghẹn họng
của các thầy cô trước những giáo án, giáo trình, những
lớp học bị dòm ngó, phi lý cuộc đời của Tư Long, phi
lý khi trở về nhà sau những năm tháng giam cầm vợ con
đã biến đi mất, phi lý bị tống vào xà lim chỉ vì cao
hơn những người tù khác một cái đầu.
Nhưng
thật kỳ lạ, đứng trên những đám mây của quê hương
tự do, thầy giáo Triết Trần Lâm Thăng quả thực đi
trên mây, nhưng hôm nay, đi trên những đám mây màu đỏ
hình tượng “búa liềm” “người đi trên mây” Trần
Lâm Thăng lại di chuyển bằng những bước thật vững
vàng. Trần Lâm Thăng từ chối không dạy học cho một
trường trung học đã bị biến thành một nhà giam, từ
chối và thúc đẩy bà chị dâu không cho bọn công an cướp
sống ngôi nhà, từ chối dứng về phía Mười Tân, một
khuôn mặt rất Trần Bạch Ðằng của Việt Nam sau bảy
mươi lăm…”
Ðọc
“Ngôi Nhà Ngói Ðỏ”, những truyện ngắn như những
nhát cọ của lưỡi dao sắc, bén, và phác họa được
cảnh sống của những người luôn lầm lũi trong sương
mù. Cái bàng bạc của triết học dường như làm nền
tảng cho những cảm giác thăng hoa trong cõi ngôn ngữ mở
rộng trong nhiều cánh cửa. Những cuộc đời trôi theo
những lượn sóng, để cảm giác lênh đênh của những
hàng chữ mãi bềnh bồng. Mô tả bằng vài phác họa,
trong cái chắt lọc cô đọng những xúc cảm. Và, có một
lúc, xúc cảm vỡ òa trên trang giấy.
Ðọc
“Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự”, để những câu
hỏi đặt ra mà nhiều khi thấy thừa thãi câu trả lời.
Có những điều nói hoài mà chẳng đủ nhưng có những
việc, chỉ trong một sát na ngắn ngủi cũng đủ hiểu
thấu. Vẽ chân dung từng người trong gia đình, để vẽ
lại chân dung chính mình, nhân vật xưng Tôi trong truyện
dường như có tham vọng vẽ lại cả một không gian, thời
gian mà trong đó, những chuyện tử sinh, những bên này,
bên kia quốc gia, cộng sản là những chất liệu của một
thời thế hỗn mang của lịch sử. Có nhân vật chỉ là
cái bóng, nhưng lại là những ám ảnh khôn nguôi. Xuất
hiện trong chuyện kể, từ người cha, người mẹ, người
anh cả, người anh thứ, người chị tên Thảo, tất cả
bị cuốn vào một cơn lốc, mà, ở đó, nỗi chết là
một phương cách giải quyết hợp lý cho từng nút thắt
của truyện.
“… Khi
còn ở đảo tôi hay tin người anh lính Không quân đã
chết trong trại giam. Ông anh cả tôi cũng không còn nữa.
Một lá thư từ bên nhà gửi qua cho biết ông ấy chết
hơi khác thường: tự tử bằng một viên đạn bắn vào
đầu. Qua thư từ tôi biết thêm sau khi ông đi thăm người
anh lính Không quân bị bệnh nặng nằm chờ chết trở
về, ông đã chọn cái chết của chính mình như một cách
nói lời tuyệt vọng. Mười năm sau khi lấn chiếm miền
Nam, đất nước càng ngày càng tan nát, đời sống người
dân ngày càng xuống thấp, trong khi máu mủ ruột thịt bỏ
đi xa hay vẫn còn nằm trong lao tù của chế độ mà mình
phục vụ, có lẽ đã là động cơ thúc đẩy họng súng
quay về phía ông. Ðôi khi tôi nghĩ cái lẽ sống mới
quan trọng hơn là sự sống. Có phải vì thế mà ông anh
cả tôi hành động kiểu đó chăng? Đó là tôi suy nghĩ
vậy, chớ tôi không dám chắc lắm đâu…”
Chuyện
ấy, người bên này, kẻ bên kia trong một gia đình, có
lẽ quen thuộc. Nhưng cái kết cuộc khốc liệt ấy, thì
hiếm hoi hơn. Người chiến thắng, kẻ chiến bại trong
một cuộc chiến “vô tích sự”. Và , những hy sinh
xương máu, những đổ vỡ chia ly là những hệ quả tất
yếu của một tấn thảm kịch của dân tộc kéo dài
nhiều thập niên. Lấy gia đình mình làm đề tài, người
kể chuyện xưng tôi hình như vượt qua vai trò của ngôi
thứ nhất số ít. Nỗi đau, của một thế hệ có lẽ
sâu lắng ngậm ngùi hơn từ những chủ quan của những
cuộc sống mù mịt hướng đi, của những ngã rẽ mà khi
quyết định là những trò chơi dỡn đùa với may và rủi.
Ðọc
“Ngôi nhà ngói đỏ”, đọc “Barbara”, đọc “Giáng
sinh, hãy chờ”,… để thấy được một tâm cảm lãng
mạn. Những quá khứ như những kỷ niệm không thể quên
và tách rời khỏi đời sống, mãi mãi về sau, lần khuất
bên cạnh. Chúng ta, ai mà chẳng có nỗi niềm riêng, nhưng
phong thái biểu lộ thì có người trầm lắng có người
sôi động.
Ở
tác giả “Ngôi nhà ngói đỏ”, là một trường hợp đu
dây giữa thực và mộng. Thấp thoáng là sương mù Ðà
Lạt, là mưa giọt phố Sài Gòn, là bãi cát hoang vu Nha
Trang thời thơ ấu. Có phải đó là hành trang để đi vào
một cõi văn chương mà tình yêu đã trở thành bông hoa
trang sức. Trái tim vẫn có nhịp đập của nó, dù ở bất
cứ trạng huống nào và sự ngưỡng vọng, đôi khi là
niềm tin để bước đến và đi cùng tận cuộc sống.
Nhân
vật của ông, có khi xưng tôi, có khi là ngôi thứ ba
nhưng, không phải là biểu hiện của một người. Mà, là
tổng hợp của nhiều khuôn mặt. Có thể, một người mà
đa diện phong phú đến như thế chăng? Ðể, nhiều người,
đọc và nhìn vào đó, soi gương để thấy bàng bạc nhân
dáng, cảnh ngộ mình. Nhưng, cái tâm cảm chung thì rõ
nét. Tâm cảm của những người hình như không bao giờ
vừa lòng với cái mình hiện có. Họ nhìn về quá khứ,
ngơ ngác với tương lai và ngập ngừng trong hiện tại.
Nguyễn Xuân Hoàng có phương cách diễn tả của ngôn ngữ,
gọn và sắc, bén như những nhát gươm nhưng cũng lạnh
lẽo như kỹ thuật tiểu thuyết không tiểu thuyết,
truyện không truyện. Chất mơ hồ làm đặc quánh lại
những không gian thời gian để những tác động với con
người thành những gián tiếp cho cảm xúc. Trong mô tả,
là tâm tình dồn nén vào trong suy tư của mình. Giữa hư
cấu và hiện thực, có biên giới khá mơ hồ. Ông hay
viết về những cơn mơ, của ước muốn luôn luôn ấp ủ
về những hình bóng lúc xa lúc gần nhưng hiện diện hàng
ngày trong cuộc sống.
Nhà
văn Nhật Tiến thấy truyện “Barbara” làm ông xúc động.
Nhà văn Hoàng Khởi Phong tâm đắc với “Tự Truyện Một
Người Vô Tích Sự”. Riêng tôi, tôi đọc “Ðoản Văn
Viết ở Cali” nhiều lần và mỗi lần đọc, tôi lại
thấy mình phiêu du vào những thế giới cảm quan khác
nhau. Tôi đọc, thấy lại những ngày tháng qua. Gần hai
mươi năm rồi có phải? Tác giả “Người Ði Trên Mây”
có lúc như đã cho tôi chia sẻ để “share” những trang
nhật ký. Có lãng mạn, có thơ mộng, có bồng bềnh. Có
những cơn mưa, ở nơi này nhớ nơi kia. Có Pasternak và có
Ðỗ Phủ, có mùa hạ bãi trường và mùa thu tựu trường,
có Paris và Virgina,… nghĩa là tràn ứ những dữ kiện,
những cảm giác. Với tôi, đó là những đoản văn tuyệt
vời tuy có người đã cho rằng đó chỉ là những ghi
chép vụn vặt. Tôi yêu cái lãng mạn nhưng gần gũi với
cuộc sống. Ai trong chúng ta mà không có lúc thấy xao động
cùng trời cùng đất? Ai trong chúng ta mà không có lúc lái
xe một mình mà đãng trí nghĩ về ngày tháng xưa, kỷ
niệm cũ. Nhất là, với văn phong bay bướm của một nhà
văn đi tìm cái mới lạ trong cái cổ điển như Nguyễn
Xuân Hoàng.
Tôi
đọc. ”Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão”:
“Cali
mưa cơn mưa nhỏ chợt đến chiều nay trên đường
Westminster như một người khách lạ không hẹn mà tới,
Những hạt mưa lớn, thưa, gõ từ tốn trên mặt kính
chắn gió nghe như tiếng mưa thuở nào rơi trên mái tôn
trước hiên nhà.
Bầu
trời ẩm đục, thấp và nóng. Cali đang mùa hè. Cơn mưa
tuy không đủ sức làm dịu những cục than hồng, nhưng
có thừa cái sắc bén của con dao cau rạch trong tôi những
vết thương hoài niệm.
Mưa
gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor-Westminster là những
mũi kim xoi đằm trí nhớ. Mưa dẫn tôi đi trở về trên
những con đường quen, khu phố cũ, những bạn bè xa xưa…”
Tôi
lấy làm lạ tại sao Nguyễn Xuân Hoàng ít làm thơ. Bởi
vì tôi thấy cõi thơ bát ngát trong những đoản văn vừa
đọc. Cảnh làm gợi nhớ người, thơ làm cho cảm giác
chơi vơi hơn trong cái trơ trọi của thực tại.
Cái
trí nhớ ấy có lẽ đầy chật những ý thơ, những câu
của ca dao ngàn xưa nhưng còn sống mãi. Sau này, khi ông
phụ trách tạp chí Văn, viết những trang sổ tay, tôi vẫn
thích những dòng chữ ghi lại từ những ngày tháng thực,
dù vội vàng nhưng có nét đáng yêu của những vần thơ
tiềm ẩn bên trong…
Ngôi
Nhà Ngói Ðỏ in năm 1989. Tôi đã đọc một trong những
cuốn đầu tiên mang từ nhà in về. Ðến nay, đã mấy
chục năm. Bây giờ, thỉnh thoảng giở ra đọc, vẫn tìm
được những nét xao động của tâm tư một thời. Chủ
quan tôi, đây là một tập truyện ngắn xuất sắc. Xin
nhấn mạnh, đối với tôi, một độc giả. Những truyện
viết đều tay, có cảm xúc chân thực làm người đọc
dễ chia sẻ. Văn phong bay bướm của từ ngữ nhiều hiển
lộng như những viên đá tảng lót đường cho những bước
chân đi tìm cái đẹp. Thời gian qua, nghĩ đến Sai Gòn,
Ðà Lạt , Nha Trang,.. tưởng về người cũ, tôi lại giở
những trang sách và như một lúc trở về chốn xưa. Có
như thế. tưởng tượng như mình trẻ lại, của mới
thuở nào. Và, để nhớ lại cái nỗi tức bực của tác
giả Người Ði Trên Mây khi trang đầu là “Ngôi Nhà Ngói
Ðỏ” khi ngoài bìa là “Căn Nhà Ngói Ðỏ” của ấn
bản đầu tiên. Phải, dường như mới ngày nào, gần
lắm, như hôm qua , hôm kia của cuộc đời… Những câu
chuyện vẫn còn sức sống, có phải?