Đằng
đẵng hơn 20 năm gặp lại Nguyễn Việt Nam, sau ngày đất
nước quy về một mối, có lẽ tôi phải có cái nhìn rất
mới về một nhà làm văn nghệ văn hóa có nét lãng tử,
bộc trực, nói nhiều làm nhiều… mang nhiều bản chất
Nam bộ mênh mông tình người. Thật ra, từ thuở thiếu
niên Nguyễn Việt Nam cũng đồng điệu như những phiêu
bạt lưu sinh của phần đông các bằng hữu trải dài mọi
nơi trên đất nước. Họ vội vã bước qua cuộc chiến
tranh thảm khốc, bi hùng của dân tộc và phải lướt
thướt như đàn chim di rời tổ, lẳng lặng bay vào khoảng
trời miền Nam, cấy hồn vào định kiếp quê hương. Tâm
huyết chính thống của người làm văn nghệ như Nguyễn
Việt Nam, lại có cái say mê thánh hóa vào tư hướng xã
hội nhân văn, khác hẳn các bằng hữu khác phần đông
hầu như chỉ duy nhất là hòa mình trong một môi trường
văn chương nghệ thuật đơn thuần.
Khoảng
1965 – 1975, thời gian các anh em văn nghệ đồng song
thường có dịp gặp gỡ và họp tác vận động cho văn
học nghệ thuật. Chủ yếu, giữa cuộc chiến tranh bùng
phát tang thương dày nát cả hai miền, tâm trí của người
sáng tác đều le lói những lương tri bày tỏ chính kiến
giữa sự diệt vong do những triết thuyết ngoại lai, áp
dụng cục bộ trên chiến trường Việt Nam. Cái dư hậu
là thảm họa dành riêng cho con người và đất nước,
nên sự đối kháng phản chiến nếu có dàn trải suốt
lộ trình hóa hiện của dân tộc, thật ra chỉ là chuyện
đương nhiên. Đêm giáng sinh 1970, Thụy Miên và bào huynh
là nhà thơ Nguyễn Lê La Sơn, có tổ chức một tiệc trà
trên khu sân thượng của cà phê Thượng Uyển, đường
Nguyễn Tiểu La, quận 10, cách thư trang của Nguyễn Lê La
Sơn khoảng ngắn đủ tầm nhìn. Một đêm hội ngộ thánh
hóa, cùng với các bằng hữu văn nghệ được dịp hàn
huyên. Thuở đó, anh em hăng say trong những vận động cho
văn học, sáng tác trao đổi dẫn dắt nhau cật lực trong
vai trò văn nghệ tuổi trẻ. Cuộc hội tụ đầy đủ
khoảng hơn 20 bằng hữu, ngoài Thụy Miên và Nguyễn Lê
La Sơn, khiến ngọn gió của đêm giáng sinh hình như cũng
chứng kiến đầy đủ sắc vóc của bạn bè như Phan Nhật
Nam, Phạm Nhã Dự, Lâm Chương, Lưu Nhữ Thụy, Nguyễn
Thành Xuân, Hà Thúc Sinh, Trăng Thệ Hải, Nghiêu Minh… Dĩ
nhiên sự hiện diện của Nguyễn Việt Nam trong lần đầu
gặp gỡ tại đêm tao ngộ này, hình như cũng chỉ là một
sự tình cờ. Anh đến trể hơn các bằng hữu, và sau sự
chào đón thì nét bộc phát của Nguyễn Việt Nam với bản
tính bộc trực hay góp ý kiến triền miên, khiến tôi
nhìn Trăng Thệ Hải dò hỏi. Bàn tròn văn nghệ có những
tiếng ngâm thơ, tiếng đàn thùng đệm những khúc nhạc
Trịnh Công Sơn, hay Vũ Thành An… vẫn chưa lấn át được
sự cật lực thuyết trình của Nguyễn Việt Nam. Dấu ấn
ban đầu, khiến tôi luôn ấn tượng với nhiều suy nghĩ
có lúc trái chiều về anh, ngoài bản chất chân thật bộc
trực, Nguyễn Việt Nam luôn luôn bảo vệ chính kiến của
mình. Kiến thức của anh thật rộng rãi bao hàm cả một
sự thông thấu và nhận thức, chính vậy tôi hiểu tại
sao những bài báo của Nguyễn Việt Nam đăng rải rác
trên báo chí đương thời có sẵn đường nét của một
nhà xã hội học hơn là văn chương. Cấu trúc của bình
luận, phần đông chịu ảnh hưởng nhiều về cá tính,
và sự thông thái của tác giả. Trong đó, Nguyễn Việt
Nam nặng nghĩa của một con người với xã hội mới, nên
dĩ nhiên bao nhiêu phát tiết bày tỏ với một xã hội
cùng cực, nghèo nàn và hủ lậu của đất nước trong
hơn nửa thế kỷ trước đã là điều tâm huyết mà các
nhà văn nhà báo tiền phong như Trần Tấn Quốc, Dương
Hà, Trọng Nguyên, An Khê… đã là một nét nhìn cho lớp
kê tiếp như Nguyễn Việt Nam. Đến với nghề báo, hình
như chỉ trang trải cho lối sống và cập nhật kiến thức
xã hội, Nguyễn Việt Nam vẫn thường xuyên chong đèn
nghiên cứu và hoàn thành nhiều tác phẩm sưu khảo văn
học, nghiêng về nhân bản xã hội bằng những nghệ
thuật cổ điển chìm lắng trong dân sinh. Trong lúc văn
minh cập nhật hàng ngày, những vốn cổ điển của nghệ
thuật hát bộ, chèo, cải lương, hay kiến trúc sành sứ,
gốm đất, thổ cẩm… càng ngày càng tách biệt thảm
thương không có một lối bảo vệ chân chính của người
có trách nhiệm đương quyền, lần lượt mai một như là
một tàn tích hoang sơ. Mỗi anh em văn nghệ thời đó, khi
bước vào môi trường sáng tác hầu như nghiêng hẳn về
một sự hào nhoáng, lý thú của thơ, văn, nhạc, họa…
cái khó của nghiên cứu hầu như ít ai chú tâm và chịu
miệt mài, để khơi sáng di sản âm thầm tiềm tàng trong
bóng tối. Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn
Bá Thế, Nguyễn Tử Quang, Toan Ánh, Sơn Nam, Bình Nguyên
Lộc… là những ngôi sao văn khúc hiếm hoi vĩ đại, dĩ
nhiên khó có người kế thừa, dù rằng tiếp bước đi
sau thuận đường hơn nhờ biết bao tiền bối đi trước
soi đường. Chính vậy, với Nguyễn Việt Nam tôi nhận
thấy ở anh một tâm huyết chân thành, bền bỉ, những
công việc nghiên cứu lẻ loi của anh ở phương diện này
được hình thành rất chân mộc, không ào ạt mà mọi
tình thế Nguyễn Việt Nam thận trọng chiêm nghiệm tiệm
tiến. Khi hoàn thành một bài viết về sưu khảo, thỉnh
thoảng Nguyễn Việt Nam đem đến tham khảo cùng tôi. Cung
cách khiêm tốn đó, thật ra cũng thừa thãi, vì sự
nghiệm thu trong quan điểm nghệ thuật của anh đã dàn
trải suốt quá trình làm việc. Chỉ tương ngộ chăng
giữa những người làm văn nghệ với nhau, là dàn trải
con tim đưa tất cả bản thể quy nạp vào chân lý, sáng
tác rực sáng trong sáng tạo của nghệ sĩ và ấm áp tình
người của những cảm thông nghệ thuật.
Tôi
rất quý trọng nhà văn Nguyễn Việt Nam, anh dấn thân
trong suốt lộ trình gần 50 năm sống chết với báo chí,
văn nghệ, xã hội và nhân bản. Hầu như, Nguyễn Việt
Nam tất bật bận rộn trên mọi ngả đường, mà thời
gian vẫn phải chùn dưới gót chân anh. Khi Nguyễn Việt
Nam về làm hiệu trưởng một trường khuyết tật ở
thành phố, cái ngay thẳng và chân thật một mặt giúp
anh được tín cẩn của nhiều nhà hảo tâm, đưa đẩy
sự ấm cúng cho ngôi trường, nhưng cũng là một cái gai
của những xu thời, nhiều phen khiến Nguyễn Việt Nam bực
dọc dừng bút giữa đường mà ngao ngán. Anh rời bỏ
những gì không bảo vệ được để thõng tay vào chợ,
lập dựng những tư hướng lấp cho đầy nỗi khổ đau
và bất công của xã hội. Một hôm tôi qua thăm nhà
nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn, lúc lão nghệ sĩ đang quằn
mình chở hàng vạn quyển sách quý từ một kho tàng mịt
mù tại xứ lá phong Canada, về đây góp vốn cho quê
hương. Hình dáng Nguyễn Việt Nam ngồi lù lù trong thư
phòng của Nguyễn Tiến Văn ở quận 4, tôi cũng lấy làm
lạ và ngạc nhiên về sự quen biết thâm sâu của Nguyễn
Việt Nam với hầu hết các bằng hữu văn nghệ, mà nhắc
đến ai, dù ở trong trường phái nào, thì sự thông thấu
của Nguyễn Việt Nam đã khiến tôi cảm phục. Với một
Mịch La Phong (Ngô Nguyên Phi) sự hiểu biết dàn trải
trên văn học cũng sâu rộng, nhưng anh hiểu biết một
phương hướng khác của riêng anh, với Nguyễn Tôn Nhan
những khuynh khoái vô tận trong văn học cũng là một
tuyệt diệu của Nhan… và cũng vậy, Nguyễn Việt Nam có
cái tường tận mọi ngõ ngách thời sự, văn học, nhân
vật có lúc giúp kiến thức tôi được tôi luyện thêm,
khi tham khảo với anh.
Thời
gian cận điểm của thế kỷ XX, những cuối năm thiên
niên kỷ, Nguyễn Việt Nam nhiều lần ghé thăm (hầu như
thường xuyên) có lẽ anh tâm huyết nhiều dữ kiện mà
thời gian thì quá hạn hẹp, nên phải chung tay cùng bạn
bè. Khoảng 1995, Nguyễn Việt Nam dự trù in lại cho nhà
thơ Truy Phong, tác giả Một Thế Kỷ Mấy Vần Thơ, một
tuyển tập trọn đời của lão thi nhân, trong khi bệnh
tật đang hoành hành dữ dội một kiếp thơ. Anh đem cho
tôi xem tờ giấy hiến xác của nhà thơ, với từng bài
thơ được gói gọn trong bao nilon cẩn trọng với phong
sương tuế nguyệt. Sự trải rộng tâm hồn của Nguyễn
Việt Nam, trước những thế cuộc là một yếu tố để
hiểu rằng tại sao đến giây phút này anh vẫn như con
thoi bay nhảy giữa văn chương và tình người không một
phút ngơi nghỉ.
Nhiều
lúc việc làm của Nguyễn Việt Nam khiến tôi cũng phân
vân, không hiểu giữa một xã hội đầy vị kỷ này,
những ước muốn của anh có thực hiện thành công? Những
vận động cật lực có lúc như đá dội vào vách núi,
âm vang len lỏi một cách vô thường giữa không gian đầy
ắp vị kỷ. Chính thế, Nguyễn Việt Nam gác hết mọi
thời gian viết lách nghiên cứu của mình, bước thêm vào
lối rẽ mới, xây dựng một loạt cầu đường trên khắp
vùng quê, là lúc tôi biết cái thật của chân tâm đã
giúp nhà văn Nguyễn Việt Nam hoàn chỉnh cho mình những
hạt xá lợi tôn quý, làm rực sáng cả một không gian
chân chính của người làm văn nghệ. Hơn 30 cây cầu được
khánh thành thật hùng vĩ, bằng sức lực nhỏ nhoi của
kẻ cầm viết, mà có nhiều lần khi đề cập so sánh tác
phẩm của anh với công việc xây dựng này, Nguyễn Việt
Nam nói với tôi rằng theo anh nó có giá trị gấp trăm
ngàn lần những tác phẩm anh đang viết. Sự khiêm tốn
rời bỏ cái đã qua, để hoàn thiện một nhân bản xã
hội trước mặt, thật ra chỉ là một cách bày tỏ thi
vị nhún nhường của người quân tử. Bởi vì dù thế
nào đi nữa, với những công trình nghiên cứu văn học
về di sản độc đáo của quê hương và hồn người,
cũng là yếu tố chính thống góp phần đặc thù trong tác
phẩm Nguyễn Việt Nam.
NGÔ
NGUYÊN NGHIỄM
Tiểu sử văn học: NGUYỄN VIỆT NAM
Sinh
ngày: 01/01/1941
Sáng
tác thơ văn từ năm học Đệ Tam (1957)
1964:
Biên tập viên báo Diễn Đàn Giáo Dục (Sài gòn)
1965:
Chủ biên đặc san Đêm Vô Tận viết về thế giới người
mù
1970:
Biên tập viên Nguyệt san Tự Quyết (Sài Gòn).
1985:
Chủ biên đặc san Ánh Sáng Tình Thương
1989:
Chủ biên đặc san Tương Lai viết về thế giới của
những trẻ bất hạnh (câm, điếc, khiếm thị, chậm phát
triển tâm thần, bại liệt …)
-
Tham dự triển lãm Tranh của trẻ câm điếc và giới
thiệu những sản phẩm thủ công của các em khuyết tật
trường Tương Lai, Quận 5.
-
Thành lập Đoàn Văn Nghệ của những trẻ kém may mắn đi
lưu diễn tại Đà Lạt, Nha Trang, Bến Tre, Vũng Tàu, Long
Hải và Các Nhà Văn Hóa Thanh Niên TPHCM, Nhà Văn Hóa Quận
5 TPHCM với sự giúp đỡ của nhóm xiếc hài Mạc Can,
Linh San, Phi Hải… anh chị em câu lạc bộ Dân Vũ TPHCM,
các nhạc sĩ, họa sĩ, Bắc Sơn, Bạch Yến, Quỳnh Như …
1995:
Tham gia viết “Côn Đảo Ký Sự Và Tư Liệu” với nhiều
tác giả khác (nhà xuất bản Trẻ 1998)
1998:
Cộng tác với báo Dân Trí của Hội Tâm Lý Giáo Dục
Việt Nam (Hà Nội) và báo Côn Đảo Ngày Nay.
Tác
phẩm Nguyễn Việt Nam
Làng
Nghề Cổ Truyền Việt Nam (sưu khảo)
Nhịp
Cầu Nối Những Bờ Vui (ký)