văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, March 2, 2020

PHẠM TÍN AN NINH ¤¤ Một Chuyện Tình Cao Quý


1-
Mallorac, hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghi là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo,nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành
phố cảng sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến
Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ
xe. Chúng tôi chọn nơi này vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm
khuất sau dãy núi Victoria nên không có sóng và khá an toàn cho
trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60
mét. 

Thực ra, kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả
cho con bé cháu nội. Truớc đây hai năm, tôi hứa với cô bé là sẽ
thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết
đuợc tiếng Việt. 

Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút.
Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment;
mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và
bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn. 

Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp
được ra biển tắm nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào,
mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến
chiều, khi trời sắp tắt nắng, mới chịu trở về. 

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người
Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á
châu nào, ngoại trừ gia đình nguời Tàu làm chủ một nhà hàng
buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên
chiếcghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu
nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một nguời nào đó. 

Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa
giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở
một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương
dễ quen nhau. 

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây
dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào
chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng
chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự
nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam
Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức cho
dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu
cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối
trong nhà hàng buffet của một nguời chủ gốc Tàu thì bất ngờ
thấy Lam Khê đi vào cùng với một nguời đàn bà Việt Nam và
một người đàn ông ngoại quốc. 

Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi nên cả hai nguời đến chào
và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ
đến giật mình  khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà
tôi vừa nghi tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang
ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình,
thì bà nở nụ cười giới thiệungười đàn ông ngoại quốc đi bên
cạnh: 

-Đây là ông xã em. Anh nguời Đức. Chúng em sống ở thành
phốHamburg. Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn
ông, nhưng lại hỏi bà: 
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang? 
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi. 
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời
cả bangười - Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin
được mời ông bà và cháu Lam Khê. 

Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên
trênmặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
-Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay, khi gặp
vàbiết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghi ngay đến bà. Bởi cái tên
Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây
giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã
dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó. 

Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày
vuibuồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng
nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta
đang ưu tư một điều gì đó. 

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa,
tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải
tạo”chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng
một lâmtruờng, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả
thịt da. 

Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng
tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ
có vàinguời ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ
lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là
sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh,
mà lại là “thủ truởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví
von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm!”

Cả đội tù chúng tôi trên 60 người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ
bênbìa rừng để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”.
Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn
mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt
thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cuời, nói năng từ
tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính
khu rừng, cáchthức phát hoang và phương pháp an toàn. 

Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa
từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng
cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc,
căng dây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn
hơn. Nhiều lúc, cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày, năm đứa
chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy, cô thuờng
ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi nguời chúng
tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. 

Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương
vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ
tấm ảnhcủa vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi
bảo nhỏ: “Các chú thật chung tình!”

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về
Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản
phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào
Cai, hướng dẫn những nguời dân tộc trồng và bảo vệ rừng. 

Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và
tập quán địa phương thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua
biên giới. Rất may mắn, lúc ấy, cô đang về học một lớp chính trị ở
Hà Nội nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành
lập lâm trường mới. 

Đó chính là lâm truờng mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra, đây
chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm
người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân
là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát
rừng và vài cái cuốc chim! 

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô.
Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Nguời đàn ông ấy
 là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường
khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được
đảng bộ sắp xếp để lập gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch
“trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. 

Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi truớc sự ưu ái
của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng.
Đây cung là “phần thưởng” để cô đuợc bổ nhậm về lâm trường
mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn
cô nhiều tuổi, rỗ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp
với cô con gái có học và dễ thương này.

Cô còn bảo là, trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào
dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật
nặng. Vì vậy, cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cuới
được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín
thở qua sông”! 

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề
cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng
tôi biết Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện
“mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. 

Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ,
mời chúng tôi mỗi nguời một củ khoai lang luộc, rồi buột miệng
hỏi: 

-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm,
phải không?
-Bọn tôi là những người thua trận thì chuyện bị tù đày, hành hạ
cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời. 

Cô trầm ngâm giây lác, rồi lên tiếng: 
-Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và
miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội,
luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tuởng là mình đại
thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. 

Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: Một lũ ngu
dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí
thức, mà đòi hỏi nguời ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật! 

Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo
là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay
thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia
đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần
phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng
khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm
mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực
phẩm khác. 

Lâm trường mới khởi công vừa đuợc hơn ba tuần thì trại tù có
lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những
ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần 7 năm tù.

2. 
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn,
tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang
nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào
ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đua với
con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý
muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi. 

Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà
vừa cạn,bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi: 
- Anh còn nhớ anh Đôn không? 
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định: 
- Trần Chánh Đôn! 
Tôi hỏi lại: 
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm
trường? 

Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay
lau nuớc mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà: 
- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung
cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc
la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy và chỉ vẽ cho anh cách thức
trốn khỏi lâm trường cùng với 3 người bạn tù khác. 
Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em,
em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới.
Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm
thì đuợc tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống,
mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số
cán bộ công an trại giam. Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị
công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại bởi các anh
đã chống cự để tìm cách thoát thân. 

Mặc dù tin tuởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh,
dùcó tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay
trợ giúpcủa em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy nếu họ phát hiện
tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường
nên em đa khẩn trương chạy về
Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng
cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại
học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm
tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông
ta gật đầu và liên lạc can thiệp bên Tòa Đại Sứ Đức cấp visa sớm.
Chỉ hơn 10 ngày là em rời khỏinước. Tất nhiên, đó chỉ là cái cớ.
Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà
em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em, mà anh chị gặp
tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh
ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em. 

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang
Theo hình ảnh của anh Đôn. 
Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết,
đẹp trai với nụ cuời độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh
Đôn là sự thủy chung và lòng tự trọng, có cả một chút nghệ sĩ lãng
mạn nữa. Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê
ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những
bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. 
Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn
trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm
được cho nguời yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung
cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều
anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động
để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ
suốt cả đời em không có được. 

Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ
canđảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ
tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực. 

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nuớc mắt chảy dài trên gò má.
Tôi rót thêm trà mời cô. 

Bà xã tôi hỏi: 
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa
chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang. Nhưng em gởi mấy cái thư
về địa chỉ ấy đều bị trả lại với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ
này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh
tế mới hay không. 
Tôi đưa tay ngăn lời cô: 
- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cùng đều là người gốc Nha
Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện, chúng tôi cũng
muốn biếu cha mẹ anh ít tiền vì Đôn cũng là bạn tù của tôi. 
Hà Giang châu mày: 
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa
chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại đuợc. Em thiết tha muốn
gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống. 

Thực ra, chuyện Hà Giang yêu Đôn cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên
nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là phi công trẻ. Bao nhiêu năm
trong cảnh khốncùng đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và
tư cách của Đôn. 

Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn
trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải
ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi nguời mỗi cách. 

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất
ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận đuợc
e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh
Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang. 

Tôi viết thư nhờ nguời bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ
nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia
đình Đôn đã dọn đi nơi khác. Nhưng, từ đó, hỏi thăm biết đâu có thể
tìm ra manh mối. 

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một
đoạntrong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:

“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng
cóngười láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai
mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình
như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo
lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm. Đến nay, vẫn chưa
gặp được...“ 

Tôi đọc đi, đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất.“,
rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn:
Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên
là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đem, điện thoại reo. Bốc
ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của nguời bạn từ
Việt Nam: 

“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức
Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm duới triền núi,
phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương,
cách Đà Lạt gần 40 cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm
trụ trì. 

Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân,
nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghi là ông không
bao giờ rời khỏi chùa vì, từ duới chân núi đi lên, tao đếm hơn 50 bậc
tam cấp.“ 

Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo
mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô
lau nuớc mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghi là cô
sẽ đau lòng lắm khi nhận đuợc tin này. 

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang: 

-  Anh Chị ơi. 

Em đã khóc hết nước mắt khi nhận đuợc tin anh Đôn. Suốt cả đêm
hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay,
và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn
sống. Em vừa mừng, nhưng cũng vừa đau lòng lắm khi biết anh đã
bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân. 

Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng
là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú. 

Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là
giọt máu của anh Đôn. 
Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc
ngắn ngủi trong rừng. Em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời
hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu
giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi, ông
trời đã hại em vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh
đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương
và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ nguời. 
Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đa trở thành một vị đại
đức, em vừa hối hận, vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em
 tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên để em biết mình sẽ phải
làm gì. Bây giờ, chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào,
nhưng còn Lam Khê. Dù sao, nó cũng là giọt máu của anh. Làm thế
nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết.
Thỉnh thoảng, cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về
ba cháu lắm.“ 

3. 
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhung cũng không tìm ra một
lờikhuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp
Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha
Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng
núi Đơn Dương, Đa Lạt, nơi có ngôi chùa. 

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi
về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường
Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt
Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi truờng, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng: 

... Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy
Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc
động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của
anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nuớc mắt. 

Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn
Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất
trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh
vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định
không khai người nào đã giúp thầy cùng ba nguời bạn tù trốn trại
một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm
bản đồ và cái la-bàn duới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không
đưa về trại cũ, mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến
mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc
nức nở.

Sau khi mọi nguời tìm lại đuợc sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng
dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo
là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết
xin đuợc đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù
lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy;
hơn nữa, bây giờ, thầy đã tu hành; năm tháng chỉ quanh quẩn trong
chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy
các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian
nhà trống vách ngay phía sau chùa. 

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở
lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết
phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới,
thay những bậc tam cấp bằng con đuờng lát đá, đặc biệt phía sau
chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít
hoa dã quỳ. Cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ,
trồng thêm hoa, làm suối nước tuôn chảy bên thánh tượng đức Mẹ
Hiền Quán Thế Âm Bồ Tát để dòng suối Mẹ Từ Bi rửa sạch ưu sầu
cho thế nhân để cuộc đời trầm luân được nhẹ nhàn thanh thoát.

Phạm Tín An Ninh