văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, March 27, 2013

Nguyễn Đức Nhơn * Mắc Cạn

      Gần một tháng nay, chiều nào ông cũng ra ngồi trên chiếc sạp ghép bằng gỗ thông kê ở gốc me sau nhà. Ông ngồi bất động. Nét mặt buồn hiu. Đôi mắt đăm đăm nhìn về hướng núi Ông cho đến khi những đám mây đen trên đầu núi tan hết ông mới lủi thủi trở vào nhà. Nơi ông ở là một vùng nước trời nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Những năm gần đây thường xẩy ra hạn hán, mất mùa.
Con suối sau nhà, nguồn nước duy nhất có thể dùng để cứu những thửa ruộng của ông cũng đã khô cạn, chỉ còn đọng lại một vài vũng nước đã ngả màu vàng sậm. Những con cá lòng tong mắc cạn ngoi ngóp trên mặt nước trông thật thảm hại. Đám bắp trồng ở miếng đất trước nhà, nguồn hy vọng duy nhất giúp gia đình ông giải quyết lương thực cho đến ngày giáp hột cũng quíu cờ héo rụi. 


      Ngày ra tù, ông đưa vợ con từ vùng kinh tế mới trở về sinh sống ở cái làng nhỏ bé này, vì đây là quê quán của ông, nơi mà chính quyền bắt buộc ông phải cư ngụ trong thời gian còn “quản chế”. Trong số những người bà con thân thuộc, cũng có người muốn giúp ông nhưng một phần vì ái ngại, không muốn thân cận với một người tù “cải tạo” mới về. Một phần vì chính gia đình họ cũng đang lâm vào hoàn cảnh khốn đốn bởi những năm hạn hán mất mùa. Trước những khó khăn chồng chất không còn lối thoát, ông phải thực hiện một quyết định táo bạo là đùm túm cả gia đình chạy vào Long Khánh nhưng bị bức tường “hộ khẩu” chắn ngang, đành dội ngược trở về với hai bàn tay trắng. Để rồi từ đó, chiều chiều ông lại ra ngồi dưới gốc me ngó về hướng núi Ông. Những đám mây đen chợt tụ chợt tan như một trò chơi trêu người quái ác. Loài người tàn nhẫn với ông. Thiên nhiên cũng tàn nhẫn với ông…


      Chỗ ông ở cách núi Ông khá xa nên những chuyến đi làm rừng thường bắt đầu vào lúc xế chiều, khi mà ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào mạnh nhất, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù. Nhà thơ Huỳnh Hữu Võ tả cảnh này chỉ bằng một câu thơ mà mỗi lần đọc lên ông cảm thấy buồn da diết “…tháng giêng gió thổi mù như khói…”


      Chiếc xe thong dong lăn bánh dưới ánh nắng chiều chói chang gay gắt. Ông ngồi tựa vào hông xe, ung dung thoải mái như một khách nhàn du, mặc cho hai con bò già an phận kéo chiếc xe qua từng thước đường như một nghĩa vụ thiêng liêng mà loài người đã áp đặt lên nó từ cái thời xa lắc xa lơ nào đó. Hai bên đường lác đác năm ba căn nhà lợp tôn cửa đóng kín mít. Những con chó già ốm nhom nằm ngủ trước nhà cũng giật mình ngước mỏ sủa oang oang. Những con bò thả rong, đi lang thang trên cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Ngọn gió mùa đông bắc mang theo mùi khói đốt đồng quét vào người ông rát rạt. Nhìn cảnh vật xác xơ nơi đồng khô cỏ cháy dưới ánh nắng chiều chói chang khiến ông nhớ lại căn nhà nhỏ bé ấm cúng của ông bây giờ đã lột vào tay kẻ khác. Trong thời gian đi lính, dù số lương ít ỏi, vợ chồng ông cũng dành dụm tạo được một căn nhà nằm trong thị xã, tuy nhỏ bé nhưng cũng xây gạch, lợp tôn đàng hoàng. Trước nhà cũng có những chậu hoa mai hoa sứ. Mỗi lần nghỉ phép ông thường dắt mấy đứa con ra sân đùa giỡn. Đùng một cái ngôi nhà tự nhiên đổi chủ. Khi ở tù về, mỗi lần ngang qua căn nhà, đứng ngoài đường nhìn vào, ông cảm thấy xót xa đau đớn nhưng rồi cũng đành lủi thủi bỏ đi. Rồi ngày tháng qua mau. Rồi niềm đau vơi dần, nhưng cái nghèo đói vẫn bám sát theo ông, đè nặng lên người ông, khiến ông như một con cá lòng tong mắc cạn, thả nổi cuộc đời, mặc cho định mệnh đẩy đưa…


      Càng vào sâu địa hình càng phức tạp. Đường núi chông chênh quanh co khúc khỉu. Hai con bò già hì hục kéo chiếc xe qua từng khúc đường gập ghềnh sỏi đá dẫn vào chân núi.



Rừng ngàn năm vẫn buồn.

Chôn sâu niềm u uẩn.

Người ngàn năm vẫn còn

đi trong vòng lẩn quẩn…

                                      (nđn)



      Ông đọc lầm thầm trong miệng mấy câu thơ vừa mới làm rồi cầm xị rượu lên mở nắp. Mùi rượu mía bốc lên hăng hắc khiến ông nhớ quá cái mùi hennessy mà trong đời lính tráng, ông đã nhiều lần thưởng thức qua. Ông thở dài sườn sượt, đưa mắt ngó về phương tây. Những đám mây tụ về đỉnh núi bàng bạc mông lung. Cánh rừng cũng trở nên yên ả mơ màng sau một ngày gió mùa lồng lộng thổi. Một vài chiếc lá vàng nhạt lững lờ rơi xuống đầu xe. Một tiếng hú đơn điệu phát ra từ một hóc hiểm nào đó của núi rừng. Ông nghiêng tai lắng nghe, bất chợt nhớ lại lúc còn trẻ ông đã từng đọc qua tác phẩm The forest call của Jack London. “Tiếng gọi của rừng thẳm” là tiếng gọi gì vậy nhỉ? Ông quên mất nội dung câu chuyện. Có thể là tiếng gọi của một con lang sói. Có thể là tiếng gọi của một gã tiều phu. Cũng có thể là tiếng gọi của một oan hồn bị bỏ quên trong thời chinh chiến… Quả thật ông không còn nhớ được gì, nhưng ông quả quyết đó là tiếng gọi của núi rừng, tiếng gọi vọng đi từ núi rừng!… 


      Tiếng hú im bặt. Núi rừng cũng trở nên lạnh lùng khó hiểu. Chiếc xe vẫn lầm lủi vượt qua những triền núi cheo leo, bánh xe nghiến lên những phiến đá lồi lõm tạo ra một thứ âm thanh cộc cằn khô khốc. Ông vẫn ung dung tự tại ngồi tựa vào hông xe như một vị hoàng đế đang chễm chệ trên chiếc ngai vàng. 


      Mặt trời ngã xuống thật nhanh. Bóng tối tràn về bao trùm vạn vật. Cái vẻ hiền hòa an phận của núi rừng phút chốc cũng trở nên hung hiểm dị thường. Ông điều khiển cặp bò rẽ vào một khu đất trống nằm cạnh một con sông nhỏ với dòng chảy hiền hòa trong mùa nước cạn. Cho bò uống nước xong, ông nhặt một mớ củi khô nhóm lửa nấu cháo. Ông đổ nửa chén gạo vào cái soong nhỏ với hai chén nước rồi bắc lên cái bếp dã chiến kê bằng ba cục đá. Tiếng sôi ùng ục từ soong cháo phát ra nghe buồn đứt ruột. Ông bê soong cháo trút hết vào cái tô rồi gắp hai con cá bỏ vào. Mùi cháo và mùi cá nướng quyện vào nhau bốc lên thơm phức. Ông nhai ngấu nghiến cái đầu cá rồi từ từ để cho chất mặn, chất béo, chất ngọt thắm vào đầu lưỡi như một vị đế vương đang thưởng thức một món sơn hào hải vị gì đó. Bữa ăn chiều của ông là vậy! Một chút lương hồ lõng bõng trút vào cái bao tử rổng tếch chẳng thấm thía vào đâu. Ông thu dọn bát đũa bỏ vào bao cát rồi chui vào gầm xe.


     Nằm co ro trên tấm nylon với một cảm giác cồn cào khó chịu, giấc ngủ khó lòng tìm đến với ông. Ngủ không được, ông lại chui ra ngồi bên đống lửa. Đêm càng về khuya, núi rừng càng lộ rõ cái vẻ hung hiểm kỳ bí của nó. Một vài tiếng kêu rời rạc của một con chim ăn đêm vọng lại từ khu rừng bên cạnh làm ông thấm buồn. Ông lại lan man nghĩ ngợi về thân phận con người. Mới ngày nào còn là một học sinh với bao niềm ước mơ, hy vọng. Mới ngày nào còn là một sinh viên sỹ quan với bộ quân phục ủi hồ láng bóng đi bên cạnh người yêu trên đường phố Sài Gòn. Rồi giờ đây, một mình ngồi giữa núi rừng thâm u trùng điệp, bóng tối vây quanh, nỗi cô đơn lại hiện về phủ kín hồn ông… 


       Mặt trời đã lên cao. Những giọt nắng quái ác xuyên qua cành lá đậu lên tấm thân gầy gò héo hắt của ông. Một con chim đứng nhìn dáo dác rồi bay vút vào khu rừng phía trước. Một con sóc chuyền nhanh qua trước mặt. Một chiếc lá còn xanh yểu mệnh nhẹ nhàng rơi xuống nằm trơ vơ trên đám lá khô. Nhịp sống quanh ông diễn ra đơn điệu đến rợn người. Ông dụi tắt điếu thuốc rồi uể oải đứng lên tiếp tục đi tìm những khúc củi khô, nằm rải rác trong khu rừng giữa trưa hừng hực nóng. Mồ hôi trên lưng áo bà ba đen của ông bị sức nóng hong khô tạo thành những vết loang lỗ trắng đen trông giống như một bức tranh trừu tượng.



       Loay hoay cả ngày với những khúc củi oằn vai khiến ông cảm thấy toàn thân mệt nhoài rời rã. Màn đêm núi rừng buông xuống thật nhanh. Ông ngồi vắt vẻo trên chiếc xe chở đầy than củi xuyên qua những khu rừng chồi nối tiếp nhau trải dài hàng chục cây số dẫn về ngôi làng bé nhỏ của ông, nơi có những vũng nước ngả màu và những con cá lòng tong mắt cạn…



Nguyễn Đức Nhơn