Xa
quê nhà đã lâu. Mỗi lần đi đến một địa danh xa lạ nào đó, nhất là những
dịp lái xe chạy dọc theo một bờ biển đẹp, lòng tôi lại nôn nao cái cảm
giác như đang trên đường ngược về quê cũ - Nha Trang. Thành phố đã chôn
giấu giùm tôi bao hang động tuổi thơ, dấu tích của những mối tình học
trò một thời vụng dại, mà sau cơn sóng tháng tư năm nào bất ngờ ập
xuống, ngỡ tất cả đã biến mất, có còn chăng cũng chỉ là chút sương khói
mơ hồ trong lòng một người lưu lạc.
Ngày xưa, khi còn là cậu bé học trò, tôi
từng nghĩ trên thế gian này có lẽ không nơi nào thơ mộng, hiền hòa và
dễ thương bằng Nha Trang của tôi. Với tôi, nơi ấy còn là xứ thần tiên
nữa. Bởi khi buồn, chỉ cần đạp xe dọc theo con đường Duy Tân lộng gió,
nhìn biển trời mênh mông, nghe tiếng sóng rì rào, là cảm thấy lòng mình
như vừa được vuốt ve, âu yếm. Ngôi trường Võ Tánh trên đường Bá Đa Lộc
cũng nằm gần biển, nên cả một thời đi học, nhờ mỗi ngày được vỗ về bằng
âm thanh rạt rào của biển và tình mến yêu của thầy, của bạn, mà tôi đã
quên đi nỗi buồn tuổi thơ bất hạnh, ngước mặt hăm hở nhìn bầu trời xanh
bao la với bao khát khao, ước vọng.
Như những thằng học trò đến tuổi biết mơ
mộng khác, tôi cũng có vài mối tình ngây ngô vụng dại. Chỉ nghe mấy
thằng bạn đùa nghịch gán ghép mình với cô bạn nào trong lớp, là về nhà
vội vã tập tành ghép vần làm những bài thơ với lời lẽ si tình như một gã
từng trải yêu đương. Sau này, mỗi lần nghe bài hát Phượng Hồng, phổ từ thơ của ông Đỗ Trung Quân nào đó, tôi lại thấy lòng lâng lâng cảm xúc, ngỡ như đang trở về tuổi 14,15, với những “bài thơ cứ còn hoài trong vở, giữa giờ chơi mang đến lại mang về”.
Tôi nghĩ, có lẽ cũng như tôi, nhiều chàng học trò ngày xưa vẫn còn đang
cất giữ những bài thơ đầu đời ấy trong ký ức. Bây giờ tuổi già, đem ra
đọc lại chắc chắn sẽ nở nụ cười ngượng nghịu với một chút bâng khuâng
man mác trong lòng.
Người ta cũng ca ngợi Nha Trang như là
thành phố của tình yêu. Bởi Nha Trang không chỉ có đất trời thơ mộng mà
còn sản sinh và đón nhận nâng niu bao nhiêu cô con gái đẹp từ các xứ
Huế, Bắc Kỳ, trôi dạt đến đây. Đất lành chim đậu. Và có một thời, các cô
nữ sinh Nha Trang đã làm khốn khổ trái tim của biêt bao SVSQ Hải Quân,
Không Quân, những chàng trai say mộng hải hồ, lướt gió tung mây. Tiếc là
Nha Trang đã không cho tôi mối tình lãng mạn say đắm nào để có tròn cảm
xúc khi nghe ca khúc Nha Trang Ngày Về của ông nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng
vài mối tình học trò ngây ngô ngày ấy cũng đã để lại trong tôi bao kỷ
niệm khó quên.
Năm 1963, tôi đang học năm cuối trung
học thì bao nhiêu biến cố xảy ra, dồn dập: Những cuộc xuống đường, biểu
tình, bãi khóa để chống chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước cổng trường luôn
có cảnh sát và lính gác. Nhiều học sinh bị bắt. Nghe nói có vài người
nhảy núi. Một số giáo sư trẻ bị động viên, rời trường vào lính. Không
khí ngột ngạt, căn thẳng.
Đúng vào thời điểm này, thành phố Nha
Trang xuất hiện một người đàn bà điên. Trông bà trọng tuổi, lúc nào cũng
ăn mặc sạch sẽ chỉnh tề với chiếc áo dài nhung đen. Trên cổ đeo nhiều
vòng vàng. Có người bảo là vàng giả, nhưng có người lại bảo vàng thật,
vì gia đình bà giàu có, con cái học hành tử tế. Gần như ngày nào người
ta cũng thấy bà xuất hiện ngoài phố, chấp hai tay sau lưng đi bộ dọc
theo con đường Phan Bội Châu - Độc Lập, vừa đi vừa nói những điều không
ai hiểu được. Đặc biệt bà luôn ghé lại và ở khá lâu trong nhà sách
Nguyễn Lê và Ty Thông Tin. Ở đây có treo tấm ảnh chân dung của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm. Hai địa điểm này tôi thường có mặt. Lần nào cũng
thấy bà đưa tay chỉ vào tấm ảnh mà chửi. Không ai biết là bà có ân oán
gì với ông Diệm, vì khi chửi bà cũng không gọi tên và kể lể người trong
tấm ảnh có tội tình gì. Có người biết chuyện, bảo là bà chẳng hề dính
dáng gì tới chuyện chính trị hay cá nhân cụ Diệm, mà dường như bị ông
chồng đào hoa phụ tình. Bà hận lắm. Thấy tấm ảnh cụ Diệm mà cứ tưởng là
chồng bà. Oan và tội nghiệp cho cụ. Chắc chắn đến khi bị bọn phản tướng
sát hại, cụ cũng không hề biết đã từng bị một người đàn bà chửi oan mình
như thế..
Có lẽ đã chứng kiến nhiều lần, nên dần
dà chẳng còn mấy ai quan tâm đến bà. Ngoại trừ tôi. Không biết mặt mũi
của tôi có được cái hồng phúc giống cụ Ngô hay ông chồng đào hoa của bà
ít nhiều gì không, nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy tôi, ngay cả những khi đi
chung, lẫn lộn trong đám bạn bè, bà vẫn tìm đến chỉ mặt tôi mà chửi. Sau
này, vừa thấy bà là tôi vội vàng bỏ chạy, nhưng bà vẫn rượt theo và cố
la lớn mấy lời nguyền rủa từ phía sau lưng. Biết bà điên và nghĩ trước
đây cũng là một người giàu có tử tế, nên tôi cũng thấy thương hại, tội
nghiệp cho bà. Nhưng mỗi lần bị chửi bới vô cớ trước đám đông, nhất là
khi có đám con gái, tôi ngượng ngùng, lại thấy sợ và oán bà. Có thể nói
bà là nỗi ám ảnh của tôi lúc ấy. Đôi khi trong giấc mơ, thấy bà rượt
theo mình, mặt mày hung dữ như mấy bà phù thủy trong tranh phiếm họa.
Thức dậy, tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng cũng toát mồ hôi. Tôi đâm ra “hận”
bà vì sau đó, tôi đành phải bỏ cái thú vào nhà sách Nguyễn Lê vờ mua
sách, nhưng chỉ cốt để ngắm cô con gái mới lớn của bà chủ, có đôi mắt to
với đôi mội mọng đỏ, đẹp như thiên thần và mấy cô bán sách khá xinh,
cũng như không dám bước vào Ty Thông Tin đọc mấy tập Thế Giới Tự Do mà
ông thầy sử địa gốc biện lý, giáo sư Nguyễn Hữu Thứ, thường ra những câu
hỏi từ các đề tài trong đó, và cũng để được nghe giọng nói Bắc Kỳ rất
dễ thương của bà chị quản thủ thư viện, ca sĩ Hoàng Yến (lúc ấy đang mặc
áo bầu).
Sau đó, chỉ thỉnh thoảng tôi mới thấy
bà, nhưng dường như cơn điên trong bà ngày một tệ hơn. Trông bà già và
ốm đi nhiều lắm. Có lần chứng kiến một đám con nít đi theo trêu chọc để
bà múa may la hét lung tung, tôi động lòng dừng xe lại la rầy và khuyên
bảo các em không được quấy rầy bà. Thấy tôi, bà vội vàng chạy tới. Không
biết lúc ấy bà có còn nhớ tôi không, và có thay đổi thái độ vì tôi vừa
mới giúp bà, nhưng tôi vẫn ám ảnh những lần bị bà xỉ vã trước đây, nên
vội vã đạp xe đi. Bất giác tôi nhớ đến mẹ tôi. Mẹ mất khi tôi mới ba
tuổi. Tôi chưa hề biết cảm giác của một đứa con có mẹ. Nếu có một người
mẹ điên như bà, để tôi lo lắng, chăm nom, biết đâu tuổi thơ của tôi sẽ
hạnh phúc hơn. Ngẫm nghĩ, tôi càng thấy tội nghiệp và thương bà, ân hận
vì trước đây từng nghĩ bởi vì bà mà thành phố Nha Trang đã mất đi một
chút yên lành, đẹp đẽ đối với riêng tôi.
Những năm đi học, tôi ở nhà ông chú, một
tiệm buôn nằm ngay ngã ba Trần Quý Cáp - Quốc Lộ 1, gần Ty Thông Tin.
Ông chú tôi làm nghề thầu khoán, nên những ngày cuối tuần nhà thường có
khách. Để tránh bớt không khí ồn ào và bị sai vặt, tôi thường viện cớ
đến nhà thằng bạn cùng lớp học bài, nhưng thực ra là chỉ để chơi đùa và
đàn địch hát ca. Điều đặc biệt quyến rũ tôi hơn là cô em gái có răng
khểnh rất dễ thương của nó, học sau bọn tôi hai lớp, bên trường Nữ Trung
Học. Hai đứa -cô bé và tôi - thường đóng vai Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu
Thiết, bắt chước giọng, hát mấy bài song ca cho thằng bạn tôi, anh cô
bé, tập dạo đàn theo.
Nhà ở khu Rộc Rau Muống, phía dưới một
con hẻm lớn từ đường Trần Quý Cáp. Ngôi nhà bề thế nằm kín đáo dưới mấy
tàng cây bàng phủ bóng. Mẹ nó mất sớm, nên ba nó thường vắng nhà. Nghe
nói ông sống với bà tình nhân trẻ ở đâu đó, vì không muốn đưa bà về đây
để phải phiền muộn cảnh mẹ ghẻ con chồng. Ông cưng con, thuê một chị
giúp việc từ trên Thành về ở đây luôn. Chị rất siêng năng, vui vẻ làm
hết mọi việc trong nhà. Ngôi nhà rộng rãi trở nên thừa thải nên ba nó
cho thuê nguyên cả dãy nhà sau gồm khá nhiều phòng ốc. Nhà trước và khu
nhà sau được ngăn ra bằng một hàng rào song sắt. Điều đặc biệt là cái
giếng nước nằm ngay giữa hàng rào, để hai nhà có thể dùng chung.
Một hôm, thằng bạn nháy mắt cho tôi biết
một tin vui: Gia đình vừa mới dọn tới gồm mấy anh em mà có đến ba cô
con gái, cô nào cũng xinh. Ban đầu, tôi tỏ ra thờ ơ trước cái tin với
cái vẻ hí hửng đó của thằng bạn thân, để chứng tỏ ta đang “ăn cây nào
rào cây nấy”. Khi ấy tôi còn ngu ngơ chưa biết cô em gái của nó đang là
cánh “hoa biển” của một anh chàng SVSQ Hải Quân bô trai nào đó. Cho đến
một hôm bất ngờ đụng đầu trên dốc con hẻm, khi thấy hai người ôm nhau từ
giã, tôi mới hụt hẫng, biết canh bạc này chưa kịp bắt đầu mà mình đã
trắng tay. May mà lúc ấy tôi chưa kịp tỏ tình và cũng chưa biết si tình,
nên chưa “chết ở trong lòng một ít”, chỉ thấy ngượng ngùng bâng khuâng
một chút. Không được làm người tình, tôi bèn quay sang làm anh cô bé, để
lâu lâu còn được nghe nũng nịu và nhất là được vỗ về chút tự ái của
người thua cuộc.
Sau khi “con tim đã vui trở lại”, tôi
bắt đầu (và ra mặt) nhòm ngó khu nhà phía sau. Cái giếng mà trước đây
gần như thứ bảy và chủ nhật nào, sau khi tắm biển về, tôi và thằng bạn
đều ra tắm lại, thích thú đùa nghịch, đổ cho nhau những gầu nước trên
đầu, bây giờ ngại người ta nhìn thấy hai “bộ xương cách trí”, nên đành
tắm vội trong phòng tắm. Nhưng cái giếng ấy lại trở nên vô cùng quan
trọng đối với bọn tôi. Là chỗ có thể nhìn thấy “mục tiêu” rõ ràng nhất,
khi các cô nàng ra xách nước, giặt áo quần trên thềm giếng. Cô em thằng
bạn, sợ bọn tôi phá đám mối tình đầu, nên bây giờ trở thành bà mai, con
chim xanh đắc lực của hai ông anh. Bọn tôi dần dà biết được tên, tuổi,
trường lớp của ba cô nàng. Đặc biệt hơn là hoa nào đang có chủ và hoa
nào đang trong tình trạng đợi chờ. Cô chị thường đi vắng vào ngày cuối
tuần bởi tình yêu đang thời kỳ mặn nồng, ở nhà thường chỉ còn lại hai cô
em. Hai thằng tôi bò qua thành giếng sang nhà hàng xóm. Thằng bạn thì
mang theo cây guitar đàn cho cô chị hát, còn tôi thì vờ hỏi cô em chuyện
học hành, dịch hộ những bài Pháp văn, giải nghĩa vài điển tích trong
Cung Oán Ngâm Khúc, lâu lâu tặng một bài thơ tình con cóc. Dần dà tôi
lọt mắt xanh cô em út Quỳnh Chi(*), học đệ ngũ bên trường Nữ, rất hiền
lành dễ thương. Cũng chỉ là tình yêu học trò, ngây thơ trong sáng. Thỉnh
thoảng để giúp vui, tôi đem chuyên bị bà điên rượt kể cho hai chị em
nghe. Có khi tôi còn nhại tướng đi và giọng hét của bà. Hai cô nhìn nhau
sợ sệt.
Cuối năm đệ nhất, khi chuẩn bị kỳ thi Tú
Tài 2 thì tôi bất ngờ lâm bệnh. Một buổi sáng chủ nhật, thức dậy, thấy
người hơi sốt, khó chịu. Tưởng chỉ cảm cúm, uống vài viên thuốc aspirin
là khỏi. Không ngờ đến trưa cơn sốt lên cao, người nóng như lửa đốt, đến
nỗi không thể cử động, nói năng gì được. Ông chú vội vàng chở tôi đến
bác sĩ. Bác sĩ trực hôm ấy là bà Chung Thị Luông, có phòng mạch ở đường
Công Quán, gần rạp ciné Minh Châu. Nghe nói bà chích cho hai mũi thuốc
thì tôi tỉnh lại. Tôi nhớ lúc vừa mở mắt ra, đang còn mơ màng, tôi đã
thấy bà bác sĩ đẹp quá chừng. Biết danh bà từ lâu nhưng đó là lần đầu
tiên tôi mới trông thấy bà. Và dường như sắc đẹp của bà bác sĩ đã giúp
cho những thằng bệnh nhân trẻ con mới lớn như tôi mau tỉnh táo hơn là
thuốc. Sau đó bà đề nghị chú tôi nên đưa tôi đến bệnh viện tư của bác sĩ
Thạch nằm trên đường Trần Quý Cáp để điều trị. Tôi đã nằm ở đây hơn một
tháng và đành phải bỏ thi kỳ ấy.
Một hôm, Quỳnh Chi đến thăm khi tôi đang
lên cơn sốt, nằm mê man. Không biết cô bé đến từ lúc nào. Tỉnh dậy tôi
thấy cô đã ngồi bên cạnh. Sau khi phụ cô ý tá dìu tôi ngồi dậy, cho uống
một ly nước cam vắt, cô bé nắm lấy tay tôi, nhìn thật lâu vào mắt tôi,
rồi buồn bã nói nhỏ lời từ giã. Tôi mệt quá chưa kịp nói lời gì thì nàng
đã bước ra cửa. Tôi cố gắng đưa bàn tay lên vẫy, nhưng không thấy nàng
quay nhìn lại. Chỉ còn nghe tiếng chân bước vội xuống những bậc tam cấp.
Và đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp Quỳnh Chi..
Sau khi lành bệnh, tôi đến thăm anh em
thằng bạn dưới Rộc Rau Muống. Vừa mở cửa, cô em buồn bã cho biết là mấy
chị em Quỳnh Chi đã dọn đi nơi khác, vì có bà mẹ điên, trên cổ mang đầy
vòng vàng, không biết vì sao tìm được nơi mấy cô con gái ở, đến la hét,
khóc than cả một buổi. Và đây cũng không phải là lần đầu các cô dọn nhà
với lý do như thế!
Tôi giật mình, nhớ lại bà cụ điên thường
rượt theo tôi ở nhà sách Nguyễn Lê và Ty Thông Tin. Bất ngờ và xúc
động, nước mắt tôi trào ra. Tội nghiệp cho bà và cho cả mấy cô con gái
xinh xắn, thùy mị và học hành chăm chỉ của bà, trong đó có cô con gái út
Quỳnh Chi. Tôi cảm thấy ngượng ngùng như vừa phạm tội, vì đã mấy lần
thản nhiên kể chuyện không mấy đẹp về bà trước chị em Quỳnh Chi. Và cũng
có thể, vì mấy lần rượt đuổi theo tôi, mà bà đã khám phá ra căn nhà trọ
của mấy cô con gái ở cuối con hẻm khá kín đáo này.
Sau đó, tôi vào Sài gòn học tiếp vài năm
thì đi lính. Cuộc chiến ngày một khốc liệt, kéo tôi theo như cơn lốc
xoáy. Thời gian trong lính, mỗi năm tôi chỉ về thăm Nha Trang một đôi
lần bất chợt. Đầu tháng 4/75 Nha Trang đổi chủ sau cơn hồng thủy. Gia
đình tan tác. Cha tôi và tôi vào tù. Chỉ một năm sau cha tôi chết, còn
tôi thì bị lưu đày hơn tám năm từ nam ra bắc. Ngày trở về, Nha Trang
nghèo nàn xơ xác và buồn thảm như còn phủ màu tang. Đi trên con đường
Phan Bội Châu - Độc Lâp cũ , giờ đã đổi tên, bỗng dưng tôi nhớ tới người
đàn bà điên ngày trước. Tôi tưởng tượng đang có rất nhiều người đàn bà
điên khác, mất chồng, mất cha, mất con, mất nhà cửa sau cuộc đổi đời oan
khiên bi thảm. Họ đã bị đuổi ra khỏi thành phố này hay gia đình không
dám để họ chạy ra ngoài vì sợ phải rước thêm phiền lụy. Bất giác tôi
rùng mình có cảm giác mọi thứ trở thành xa lạ. Thành phố này không còn
là Nha Trang của tôi ngày trước nữa. Mấy tháng sau, tôi cùng vợ con
xuống biển ra đi, lẵng lặng giã từ Nha Trang giữa một đêm mưa tầm tã .
Dường như ông trời cũng đang sụt sùi trước cuôc chia ly.
Sau này, và cho mãi đến bây giờ, tôi
không có cơ hội nào gặp lại bà cụ điên và mấy chị em Quỳnh Chi. Bà cụ
thì chắc đã qua đời từ lâu rồi, còn mấy chị em Quỳnh Chi không biết trôi
dạt về đâu, sau bao nhiêu thăng trầm dâu bể. Cầu mong cho tất cả đều
may mắn vượt qua dông bão để có cuộc sống an bình. Riêng Quỳnh Chi, một
cô gái xinh xắn, thùy mị, hiền lành, xứng đáng để có một gia đình hạnh
phúc. Xin nguyện cầu bà cụ được an nghĩ nơi cõi thiên đường thênh thang
nào đó, chẳng còn gì để phải bận lòng ở chốn trần thế đảo điên. Và xin
tất cả, hãy cho tôi được nói một lời xin lỗi- dù rất muộn màng.
Hai anh em thằng bạn thân thiết của tôi
cũng không còn ở trong ngôi nhà dưới Rộc Rau Muống. Thằng bạn vào lính
sau tôi một năm và đã chết ở trận Pleime, chỉ sau bốn tháng rời khỏi
quân trường Thủ Đức. Cô em gái xinh đẹp của nó, sau này không lấy chàng
SVSQ Hải quân ngày xưa, mà làm vợ một đồng nghiệp. Giáng Sinh năm 70,
nhân theo đơn vị tham dự một chuyến hành quân bất ngờ, giữ an ninh cho
một khóa Võ Bị làm lễ ra trường, tôi có dịp gặp hai vợ chồng. Cả hai đều
dạy học tại Đà Lạt, đẹp đẽ hiền lành, sống rất hạnh phúc. Sau 75, vì
anh chồng gốc sĩ quan biệt phái, nên cả hai đều không được “lưu dung”,
phải về tá túc nhà cha mẹ chồng ở Sài gòn, buôn bán chợ trời kiếm sống.
Năm 81, vợ chồng và hai đứa con mất tích trên đường vượt biển từ Rạch
Giá. Tôi rất đau đớn khi biết tin này, lúc vừa mới ra tù. Nhiều lúc tôi
trách ông trời, sao nỡ bất công với những con người quá hiền hậu dễ
thương.
Nha Trang đã cho tôi nhiều niềm vui
nhưng cũng đã để lại trong tôi bao nỗi buồn, những vết đau như vậy đó.
Không biết Nha Trang bây giờ có còn đẹp và thơ mộng như ngày xưa? Vừa
rồi tôi có đọc ở đâu đó, người ta xếp Nha Trang là một trong mười thành
phố du lịch tồi tệ nhất thế giới. Tôi đau lòng lắm. Nhưng cho dù có đẹp
đẽ, lộng lẫy hay “hoành tráng” đến đâu đi nữa, Nha Trang cũng chỉ còn
trong tôi như cổ tích, một nơi chốn thần tiên cho tôi cùng đám bạn bè
thơ dại, những thằng học trò của một thời quá đỗi dễ thương mà giờ đây
phần đông đã chết trong chiến tranh, tù ngục, vài thằng sống sót thì
cũng tản mác khắp muôn phương.