văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Saturday, March 16, 2013

Huy-Phương * chim bay biển Bắc

 

Từ Tòa Đại Biểu về, ông Tôn thất Huân quẳng chiếc xe đạp vào góc hè, bước vào nhà với những bước đi giận dữ,và ông đã thoáng thấy con gái ông, Quỳnh Diên đang ngồi trước chiếc bàn học nhỏ ở gian nhà dưới.
Ông lên nhà, ngồi vào chiếc ghế tràng kỷ đặt ở gian giữa, trước bàn thờ tổ tiên. Lòng ông đã dịu lại được phần nào trong khung cảnh yên tĩnh, trang nghiêm của  gian nhà dùng làm nơi thờ phượng, tuy vậy ông cũng còn quát:
-Quỳnh Diên đâu, lên cha biểu!
Nghe giọng nói hơi nặng nề của cha, Quỳnh Diên lật đật lên nhà, đến đứng bên cha, và sau khi thấy vẻ mặt nghiêm trọng của ông Huân, nàng thoáng thấy chút lo lắng trong lòng.
-Con có biết thằng Thời làm cho Ba xấu hổ biết bao nhiêu không, mà không phải làm xấu hổ cho ba, mà con làm xấu hổ cho giòng họ này nữa- ông gằn giọng- nếu Ba có một thằng rễ như thằng Thời.
-Anh Thời làm chi rứa Ba ? Quỳnh Diên hỏi lại cha với giọng hoảng hốt.
-Làm chi à ! Con ra phố mà coi, thằng Thời đã bôi tro trát trấu lên cái mặt của Ba, bây giờ Ba dám ra đường mà nhìn ai nữa. Nếu thằng Thời là con nhà cha căng chú kiết nào thì Ba cũng cóc cần, mà khổ thay nó lại là một thằng rễ tương lai của nhà này - ông bất giác nhìn về phía bàn thờ ông bà - nghĩa là chồng của con.
Quỳnh Diên bắt dần thấy run rẩy toàn thân, mặc dầu cho đến phút này nàng cũng chưa hiểu câu chuyện gì đã xảy ra giữa cha và Thời. Ông đập mạnh bàn tay phải xuống chiếc bàn rồi đi  đến kết luận:
-Từ rày về sau tao không muốn thấy mặt thằng Thời lui tới cái nhà này nữa!
Nghe tiếng ồn ào ở nhà trên, bà Huân vội vã từ dưới bếp chạy lên:
-Việc chi  mà ông quát tháo ầm  ĩ như thế, việc gì thì cũng từ từ nói cho tôi nghe đã.
Trong khi Quỳnh Diên đứng tựa vào thành ghế khóc rấm rứt, thì ông Huân bắt đầu kể lại câu chuyện. Thời, người chồng sắp cưới của Diên là người họa sĩ làm ở Ty Thông Tin thị xã, anh là người rất có hoa tay nên được Ty giao cho nhiệm vụ vẽ các bức chân dung lãnh tụ cùng những bức hí họa qua các chiến dịch do chính phủ đề ra. Thời được xem như con người tài hoa lại là một công chức đứng đắn, hiền lành đã chiếm được trái tim của Quỳnh Diên và đã được gia đình ông Huân chấp nhận một lễ sơ vấn, trên căn bản, đã xem Thời như một người con trong gia đình.
Đột nhiên, chiến dịch truất phế Bảo Đại được tung ra vào thời điểm ấy và Ty Thông Tin huy động nhân lực để vẽ cho kịp những bích chương cổ động, phần lớn là mô tả cảnh ăn chơi trụy lạc của vua Bảo Đại ở Pháp. Thời là họa sĩ chính và tác giả của nhiều tác phẩm dựng ở chân cầu, góc vườn hoa, trước chợ là những nơi có đông người qua lại. Nét vẽ tài hoa của Thời đã làm cho những tranh hí họa trở nên sống động khiến cho đàn bà, con gái đi ngang nhìn những bức tranh “truất phế”đều phải đỏ mặt. Cái tài của Thời không ngờ lại là lưỡi dao cắt đứt mối tình của Thời và Quỳnh Diên.
Ông Huân là một người bảo hoàng hơn hết trong giòng họ Tôn Thất. Tổ tiên nhà ông mấy đời đều hưởng ơn vua lộc nước, đến đời ông nội là ông Tôn Thất Khoan còn giữ tới chức Tổng Đốc Nam Ngãi, cha ông Huân là nhánh sau, tức là con bà thứ, công danh không rạng rỡ bằng các anh của ông nhưng cũng đã từng giữ chức tri huyện Duy Xuyên.
Đến đời ông Huân, ông là con của bà thứ ba, văn dốt vũ dát, công danh thụt lùi, ra đời ông chỉ được lãnh cái ngạch thư ký tòa sứ, rồi cuối cùng là một trưởng phòng của Tòa Đại Biểu Chính Phủ. Tuy không giữ được quyền cao chức trọng gì, nhưng ông cũng đã từng lui tới các gia đình tôn vương quí phái, ông cũng đã có lần tháp tùng với vị tỉnh trưởng sở tại vào Cung An Định hầu tứ sắc với đấng Từ Cung. Thời tản cư về, sau khi toàn bộ cơ ngơi dã bị thiêu rụi vì chiến tranh, cảnh nhà sa sút, gia đình ông đã được về trú ngụ tạm trong Tôn Nhơn Phủ. Ông Huân luôn luôn hãnh diện về gia thế, và trong lòng luôn luôn canh cánh nỗi niềm khi nghĩ đến nhà vua.
Thế mà giờ đây, một thằng bần dân, đã có được cái diễm phúc sắp làm chồng cô gái xinh đẹp, nết na của ông, sắp được gia nhập vào gia đình quí phái của ông, lại giở trò bôi bác, dám động chạm tới nhà Vua. Với ai khác, ông có thể vì thời thế mà tha thứ, chứ với thằng rể đã từng lui tới trong nhà ông, ông không thể nào tha thứ được, nghĩa là cuộc hôn nhân này phải được hủy bỏ.
Sau khi kể tội Thời, ông bình tĩnh, buồn bã đứng lên. Ông cắm nén hương trước bàn thờ tổ tiên, - nơi có để hình ảnh của ông nội ông, ngồi trên chiếc ghế cẩn xa cừ, trong phẩm phục triều đình với mũ cánh chuồn, tay cầm hốt - suýt soa khấn khứa làm như bao nhiêu tội lỗi bây giờ là do đứa con gái bất hiếu của ông gây nên.
Trong buổi cơm tối, bà Huân và Quỳnh Diên chỉ ngồi nhìn nhau thở dài còn ông Huân bỏ ra trước hiên nhà, nơi nhìn ra bờ sông. Sau đó khi trăng bắt đầu lên, ông trầm ngâm ngồi uống rượu một mình, trong khi Quỳnh Diên khóc mùi mẫn trên tay mẹ.
Trong gia đình , ông Huân quyết định mọi chuyện và vợ ông chỉ là cái bóng mờ đi bên cạnh ông. Bà thương con cháy cả ruột gan nhưng  kinh nghiệm trong suốt cả cuộc đời làm vợ, bà biết bà không hy vọng gì xoay chuyển được những quyết định đôi khi quá đáng của ông.
Thời, người họa sĩ kém may mắn ấy là con út của ông nội tôi, chú ra đời muộn khi ông tôi đã hơn sáu mươi. Góa vợ năm ông năm mươi  tuổi, ông già sống đơn độc được gần mười năm, sau đó lại giở chứng kiếm một cô gái già mới bốn mươi, lấy cớ là để trông nom nhà cửa ruộng vườn, đi thâu tiền nợ và lo sổ sách lúa gạo cho ông. Lão bạng sinh châu, ở ngoài tuổi sáu mươi ông còn làm cha được một chú nhóc khôi ngô, láu lỉnh.
Đúng là cảnh cha già con muộn, khi chú Thời lên mười thì ông nội tôi qua đời, và chú cũng đã dến tuổi vào trung học nên bà nội kế tôi phải đem chú lên thành phố ở với cha tôi.
Chú Thời nhỏ hơn tôi vài tháng tuổi, và học chung một lớp với tôi. Về mặt học hành chú không khá lắm, nhưng chú vẽ rất đẹp, làm văn hay và viết thư tình cũng bay bướm. Chú chạy nhảy, leo trèo  nhanh như một con sóc, ăn nói khôn ngoan, lanh lợi lúc nào cũng được lòng thầy, bạn. Chính vì điểm sau này, tôi thấy ngay cha tôi cũng dành nhiều tình cảm cho chú hơn là tôi, khiến cho tôi đôi khi phải đem lòng ganh tị.
Cha tôi là một người gia trưởng nghiêm khắc, lại luôn luôn cho mình là người anh có bổn phận nuôi nấng, dạy dỗ cho đứa em nhỏ khác mẹ sau khi cha đã mất. Tuy vẫn cho mình mang trọng trách như vậy, nhưng mỗi buổi trưa thứ bảy, sau một tuần làm việc cha tôi lại đến nhà bạn bè trong những canh tổ tôm hoặc tài bàn, để mặc hai đứa chúng tôi lang thang rong chơi cho hết hai ngày cuối tuần.
Chưa bao giờ cha tôi cho tôi được xếp ngang hàng với chú Thời. Trong bữa cơm Thời ngồi kế cha tôi, rồi đến  anh tôi, còn tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu thấp hơn chiếc phản ngựa, nghĩa là ở thứ hạng chót. Lúc ấy là thời gian mới hồi cư, vật giá đắt đỏ, gia đình cha tôi là gia đình công chức, đông con, đã bắt đầu khó khăn, nhiều bữa ăn không được no. Chú Thời là người ăn chậm, còn tôi là đứa háu đói; lúc Thời chưa ăn xong chén cơm đầu tiên thì tôi đã xong chén thứ hai…Cha tôi vẫn thường lo cho chú Thời, và khi thấy tôi đưa chén về phía nồi cơm để tiếp tục chén thứ ba thì ông đưa đôi mắt nghiêm nghị nhìn tôi, thế là tôi rụt tay lại. Lúc ấy , chỉ là một đứa trẻ mới lớn, tôi cảm thấy rất buồn lòng, nhưng sau này tôi khi lớn lên tôi thấy thương xót cha tôi biết là chừng nào. Vã lại, hồi ấy tôi không để ý cho lắm, nhưng tháng nào, khoảng ngày rằm, bà nội kế tôi vẫn thường mang gạo, nếp, sắn khoai, đôi khi một cặp gà và dúi vào tay mẹ tôi mấy  chục bạc gọi là tiền ăn cho chú.
Vì là con nhà nghèo, tôi luôn luôn đến trường với cái túi rỗng, nhưng chú Thời luôn luôn có tiền ăn quà vặt ở nhà bác cai trường và chú không quên chia xẻ với tôi. Ngoài tình máu mũ ruột thịt, tôi và chú Thời còn là bạn thân chung lớp. Ở nhà, trước mặt mọi người trong gia đình thì chúng tôi gọi nhau là chú cháu, nhưng khi ra đường thì chúng tôi vẫn gọi nhau là mầy tao như đôi bạn thân tình.
Khi bà nội kế của tôi qua đời, chú không còn thiết tha gì đến việc học, khi tòa hành chánh tuyển người, chú đã thi vào làm thư ký và sau đó nhờ tài vẽ tranh chú được chuyển qua ty thông tin. Trong thời gian này, chú vẫn còn ở với gia đình tôi, còn tôi thì đã xa Huế. Những ngày hè, khi về lại gặp chúù tôi đã gặp luôn Quỳnh Diên, người yêu của chú. Sau khi hai người quen nhau, chú đã không mấy khó khăn để được vào với gia đình Ông Huân, vì ông và cha tôi thỉnh thoảng cũng có gặp nhau tại nhà một người bạn chung trong canh “tài bàn”,”tổ tôm”.
Sau khi câu chuyện ngang trái giữa Thời và Quỳnh Diên xảy ra, ông Huân đã tìm cách lánh mặt  cha tôi và về phần chú Thời và người yêu của chú, cảû hai đều đã thúc thủ không phấn đấu nỗi với quyết định cay nghiệt của ông Huân. Dù yêu Thời đến mức nào, Quỳnh Diên cũng không thể bỏ nhà ra đi và Thời cũng không thể nào chống trả được với định mệnh đã an bài.
Ít lâu sau, tôi được cha tôi báo tin là chú đã bỏ việc đi Saigòn, nhưng tôi đã nghĩ  cha tôi đang che dấu một điều gì, vì nếu vào Saigòn, chú Thời không thể nào không báo tin cho tôi biết. Đúng như điều tôi nghĩ, sau đó, qua một người bạn, tôi được biết chú được người đưa về miệt Vân Dương và sau đó ra Bắc.
Năm sau, tôi không biết thực lòng Quỳnh Diên đã quên được Thời chưa, nhưng tin bà thím hụt của tôi đi lấy chồng cũng đã làm tôi buồn suốt mấy ngày Saigòn bão rớt. Sau đó, chạy theo cuộc sống, tôi gần như quên cả chú Thời và nàng tôn nữ của chú.
Trong những ngày đầu tháng năm, một nghìn chín trăm bảy mươi lăm ở Saigòn, trong lúc tôi đang hoang mang cùng cực vì thời cuộc diễn ra một cách quá mau lẹ, không ngờ, thì một buổi sáng, một người đứng tuổi, áo chàm, dép râu, nón cối, xắc cột bên hông, gõ cửa nhà tôi. Sau một vài giây ngỡ ngàng, và dù đã bao năm xa cách, tôi cũng nhận ra người đó là chú Thời của tôi. Tôi đã vội vã ôm chầm lấy chú, và hỏi đi hỏi lại một câu hỏi:
-Chú Thời phải không ? Chú Thời phải không ? Vào đây, vào đây !
Thời ngần ngại, rụt rè bước vào nhà và việc đầu tiên của chú là đưa mắt quan sát gian phòng khách  trống trải của tôi, sau đó mới ngồi xuống chiếc ghế gỗ kê sát tường.Tất cả đồ đạc trang bị ở phòng khách của tôi đã được người ta đến dạm mua, dọn đi từ mấy hôm trước. Vợ con tôi, sau khi được tôi giới thiệu về chú Thời đã tự động rút ra nhà sau.
Những năm tháng dài quá nhiều thay đổi có lẽ đã gây ra nhiều khoảng trống cách xa giữa Thời và tôi, nên sau những lời chào hỏi, nhìn lại hiện tại, tôi không biết phải mở lời nói chuyện với Thời như thế nào. Chú Thời của tôi, so với những ngày trước có gầy đi nhiều, khuôn mặt Thời xanh xao và có vẻ trầm ngâm chứ không còn vẻ lanh lợi, tươi tắn như hồi nào.
Sau khi tôi từ chối điếu thuốc từ tay Thời, chú chậm rãi bật lửa, từ từ nhả khói. Gặp tôi, hình như chú muốn nói hết những điều chú ấp ủ bấy lâu nay mà chú không biết nói với ai. Thời cho biết, trên đường vào nam, Thời đã ghé Huế thăm lại bà con và nhất là cha mẹ tôi, và theo chú, mọi sự đều thay đổi, không còn gì như trong trí tưởng tượng mà bao nhiêu năm qua chú vẫn thường nghe qua tin tức.
Bỗng tôi buột miệng hỏi Thời:
-Chú còn nhớ Quỳnh Diên, cố nhân không ?
-Quỳnh Diên ! Thời lặp lại tên người con gái, có vẻ trầm ngâm một vài giây..Mười bảy năm, từ lúc tôi ra đi, trong lòng tôi vẫn ôm một mối hận, hận người thì ít mà hận đời thì nhiều và trong suốt thời gian ấy tôi chưa lúc nào quên được Diên. Nàng có sung sướng không, cuộc đời trôi giạt về đâu. Những ngày công tác gian khổ, bom đạn, sơ tán…tôi luôn luôn mang hình ảnh Diên theo bên mình và tôi vẫn nghĩ rằng Diên cũng còn yêu tôi như thế. Có lúc tôi nghĩ quẩn việc mình ra đi là một điều thất sách, vì bất mãn chứ không phải vì lý tưởng, do đó với trong những quan hệ và va chạm hàng ngày lòng tôi không bao giờ cảm thấy yên ổn. Trước ngày ra đi, có đêm tôi đã đến đứng thơ thẩn trước ngõ nhà ông Huân,dưới cây đào mà tôi và Diên vẫn thường hay leo lên đó, trước cái hàng rào bông cẩn dài dằng dặc để nhìn vào nhà mong nhìn nàng một lần cuối qua khung cửa sổ có ánh đèn vàng như một thằng con trai lần đầu biết yêu. Nhưng đối với tôi, sau khi mẹ qua đời và sau khi mất Quỳnh Diên, tôi thấy không còn tha thiết gì trên cõi đời này nữa, tôi muốn đi thật xa, muốn chết rấp ở một chốn rừng thiêng nước độc nào cho xong.Thế mà qua bao nhiêu bom đạn, ốm đau tôi vẫn còn sống mà bò về đây, kể cũng lạ.
-Chú đã lập gia đình ?
-Một lần. Tôi nghĩ, lấy vợ, có con, sống một cuộc đời tầm thường ở một cái xó xỉnh nào đó, rồi mình cũng sẽ quên tất.Nhưng vợ thì do cơ quan xếp đặët, vì thương hại hơn là yêu, con thì không có. Tôi làm nghề phóng viên chiến trường, đi từ Lào Cai tới Gio Linh, nhưng tuyệt đối không ai cho vào B, vì có lẽ họ cũng phong thanh biết động lực tham gia cách mạng của tôi cũng không có lý do gì xác đáng. Thôi mà như thế cũng xong!
Trở về nam, tôi không ngờ cuộc đời lại có nhiều oái oăm, oan nghiệt như thế.Trong lòng tôi vẫn nghĩ lại chút tình cũ nghĩa xưa và dù thế nào đi nữa, tôi cũng phải ghé lại thăm gia đình Diên, không phải trong tư  cách một người chiến thắng, mà là một kẻ chiến bại - Thời mỉa mai -Bà Huân tiếp tôi lạnh nhạt, một thưa hai bẩm như với một cán bộ cấp cao với giọng đầy oán hận, vì như anh đã biết ông Huân đã chết trong trận tổng công kích Mậu Thân, xác còn chôn trong vườn mà bà không muốn cải táng đi nơi khác, chồng của Quỳnh Diên thì tử trận tại Nam Lào, để lại cho nàng hai đứa con dại.Thơ thẩn trên thềm nhà cũ, tôi vô tình buột miệng hỏi đến cây đào trước ngõ nay chỉ còn lại cái gốc phủ đầy cỏ dại thì bà Huân cay đắng “ người cũng chẳng còn nữa, hỏi chi tới cây!”. Cơ sự như vậy mà tôi lại muốn tìm về cảnh cũ người xưa thì anh nghĩ có điên không ?.
Về Huế, như kẻ hành hương về nguồn cội của mình, tôi  điên cuồng mất trí muốn đi tìm cho được người xưa. Tôi vẫn biết rằng bây giờ mọi sự đã thay đổi nhưng sao trong lòng tôi có một điều gì thôi thúc, tôi hành động như kẻ mù quáng thiếu suy nghĩ. Sau khi gặp lại bà Huân và biết được hoàn cảnh của gia đình Diên, lòng tôi không khỏi ngậm ngùi chua xót, và hơn nữa đây là một sự phũ phàng của định mệnh khiến cái vị thế của tôi lúc bấy giờ trở nên lố bịch.
Vào Saigòn, tôi bươn bả đi tìm Quỳnh Diên theo cái địa chỉ trên mảnh giấy mà em gái Diên đã ái ngại trao cho tôi. Manh giấy ấy tôi đã cất kỹ trong túi áo như một thứ giấy tùy thân. Tôi cũng không biết rằng tôi đi tìm nàng để làm gì, và ví như  gặp Diên thì tôi sẽ nói những gì, than thở khóc lóc như một đứa trẻ thơ cho bõ những ngày nhung nhớ với hình ảnh nàng luôn luôn ở trong tôi, hay  ngậm ngùi  nhìn nhau mà ứa lệ cho một mối tình xa xưa khi hai người qua một thời gian dài mới gặp lạ trong một hoàn cảnh quá éo le.
Tôi đã đứng ở xa xa bên kia đường để ước tính chừng một số nhà và cố hình dung ra những người có mặt trong ngôi nhà đó, nhưng khi tôi bước qua bên kia đường và đi thẳng đến ngôi nhà mang biển số  tôi đã thuộc lòng thì đó lại là một ngôi nhà khác mà cánh cửa ra vào đã được khóa lại bằng một ổ khóa lớn..
Tôi bỗng dưng nhổm người dậy và nói:
- A ! Thế là Quỳnh Diên đi Mỹ rồi !
-Phải, tôi đã tìm đến ban quân quản Quận thì họ cho tôi biết chủ ngôi nhà ấy đã bỏ trốn đi nước ngoài, căn nhà đã được tiếp quản, nhưng chủ nhà đi nước nào thì họ không rõ. Để khỏi bị hỏi han lôi thôi, tôi chỉ nói cho họ biết đó là nhà một bà cô họ xa.
Tôi đã đi qua lại ngôi nhà ấy nhiều lần, đôi lúc muốn dừng chân hỏi thăm một người hàng xóm đôi điều về người thiếu phụ chủ căn nhà khóa kín nhưng cuối cùng tôi đành bỏ cuộc.Đôi lúc tôi cũng không hiểu tôi đang làm gì nữa, và tôi hành dộng theo một bản năng rất khó hiểu.
-Không, điều đó cũng dễ hiểu thôi ! Tôi chen vào đểû an ủi Thời.
Hút hết gần năm sáu điếu thuốc và cạn bình trà, tôi chưa kịp mời chú ở lại dùng cơm trưa thì Thời đã đứng dậy cáo từ.
-Thế bây giờ chú đi đâu ?
-Họ đã sắp xếp chỗ ăn ở cho tôi ở Hội Nhà Văn ở đường Nguyễn Du. Tuần sau, tôi xuống Cần Thơ, rồi chú cháu mình thế nào cũng gặp nhau lại.
Bắt tay tôi lần cuối khi còn đứng ở ngoài cổng nhà, lần nay Thời thực sự xúc động. Chú nhìn tôi khá lâu và đột nhiên chú nói, giọng có vẻ bùi ngùi:
-Có lẽ phải lâu lắm chú cháu mình mới gặp nhau lại.
Nhìn dáng đi của Thời có vẻ hấp tấp như trốn chạy một điều gì. Chú tránh tôi, một thằng cháu, một đứa bạn thân tình mà bây giờ số phận của kẻ thất trận như cá nằm trên thớt, hay chú tránh một đoạn đời đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên.
Sau này khi tôi bị tập trung ra bắc, có lần mẹ tôi ra thăm tôi tận Bắc Thái, bà cho biết tin Thời được điều động đi Kampuchia, bị mất một chân vì mìn cá nhân. Cuối cùng Thời an phận trở lại Thanh Hóa sống với người vợ chú đã kết hôn trong thời gian ở Bắc.Từ đó tôi không còn nghe gì về tin tức của Thời nữa.
 Kể lại chuyện này, tôi chỉ lo ngại có một điều là câu chuyện này có một lúc nào đó sẽ xuất hiện dưới mắt của Quỳnh Diên. Bốn mươi năm rồi, hai người đã có hai cuộc sống riêng quá cách biệt, công bình mà nói, nếu có, nỗi đau của cô Diên ngày xưa chắc đã qua, nhưng vết thương của Thời, tôi nghĩ hãy còn đau đớn lắm mỗi khi trời trở nắng, chuyển mưa…

HUY-PHƯƠNG