truongthithinh |
1
Dòng
họ Trần Liêu vào định cư ở bờ Bắc sông Thu một
thời gian lại gặp chuyện chẳng lành. Mấy năm liền,
mùa hè như trong lò thiêu, mùa đông như băng giá, khí hậu
khắc nghiệt, khắp nơi bị lụt lội, hạn hán, mưa đá,
bão tố; lúa đang đòng đòng sâu bọ ăn hết, kiến vàng
làm tổ trong măng tre măng trúc; giếng nước có rắn, dọc
bờ sông cá sấu phơi mình trên cát; giữa trưa khô khốc
từng bầy voi lang thang đi tìm nước dọc bờ sông trắng.
Gió rao truyền những tai ương, và biển bủa sóng báo
hiệu của hoang phá điêu tàn.
Về
mặt nhân văn, con người không tin vào những điều thực
tế; nhưng những cảm ứng tâm linh không còn chân chính;
nó bị tác động, xua đi theo dấu chân tà thuật. Đó đây
mọc lên lời kinh cầu, sấm truyền. Những phù thủy dạy
cho con người những u muội, xuyên tạc, đẩy đạo lý
đến cửa ngõ của dị đoan mê tín. Người ta thờ những
con rắn hai đầu, gà bốn chân, cua mặt người, cọp biết
nói. Tin đồn loan truyền, những đồng dao, những mẫu
chuyện châm biếm cứ mọc cánh bay đi, tụ hội với trăm
nghìn hoang tưởng, làm cho xã hội hôm ám càng nhuốm màu
hoang đường. Bọn đồng bóng có nơi ăn chốn ở, quân
ma mãnh giàu sang, kẻ trí thức thất sủng sống âm thầm
thui chột. Óc tim tẩm độc.
Trần
Liêu vay nợ Phú Hào nhiều năm vốn lãi chất chồng không
sao trả được, Phú Hào đòi cào nhà và cùm gông Trần
Liêu giải lên quan huyện. Trần Liêu đành đem cô gái Út
xinh đẹp – Cô Giao Châu – mười bảy tuổi gả làm hầu
cho Phú Hào trừ nợ. Kỳ hẹn mười năm Hào trả Giao
Châu lại cho Liêu. Nào ngờ, sau đó Phú Hào đem Giao Châu
nộp cho quan Huyện, gọi là món lễ vật quý giá. Quan
Huyện mê mẩn Giao Châu đến quên cả vợ, nên người vợ
tìm cách giết Giao Châu bằng thuốc độc.
Mãi
mấy năm sau Liêu biết chuyện, tới huyện đường kêu
oan. Huyện phán, “Người đem con gái nạp cho Phú Hào trừ
nợ. Vậy, con gái ngươi là món hàng, ai dùng chẳng được.
Hàng đã dùng thì có hư hao, sao đòi?” Liêu kêu oan mãi,
lại khóc nức nở vì thương con gái. Quan tức giận sai
quân lính nọc Trần Liêu ra giữa sân nắng mà đánh ba
mươi hèo, rồi đuổi về. Quan Huyện bày trò nhân từ
cho Liêu tiền, Liêu không nhận.
Mang
một cái đầu căm uất và một cái lưng máu về nhà,
Liêu nói cùng vợ con: “Bỏ xứ mà đi thôi”. Vợ Liêu
can ngăn: “Mình là dân, phải biết nhịn nhục mà sống,
sao bỏ làng nước ra đi. Đi đâu, về đâu?”. Cậu con
trai cả của Trần Liêu nói: “Quan hà khắc thì giết lũ
quan ấy đi!”. Cậu Út nói theo cách huyễn mộng của
mình: “Ta sống không cần vua quan có được không?”.
Rõ
ràng bốn người bốn quan điểm khác nhau. Liêu muốn từ
bỏ một nơi chốn khắc nghiệt để tìm đến một miền
đất lành, như vượt sông Thu vào phía Nam chẳng hạn.
Người vợ tòng quyền, nhưng không muốn rời bỏ nơi có
mồ mả cha anh; nghĩ về những lao lung của dĩ vãng, bà
rất sợ những cuộc ra đi tìm đất Hứa. Cậu con trai cả
rõ là muốn nổi loạn, dù đẫm máu, nhưng nó làm sạch
triều đình. Cậu Út có khuynh hướng vô chính phủ: “Ta
sống với ta, vua quan là cỏ rác”.
Đi?
Ở? Giết quan? Hoặc không cần vua quan? Song, trong gia đình
ấy có một sợi dây vô hình và bí ẩn: bàn luận thì
rộng rãi, cuối cùng vẫn theo lời cha. Họ sẽ ra đi. Nơi
họ định đến vẫn trên xứ sở thân yêu của họ,
nhưng là bên kia bờ sông Thu. Phải là Bên-kia-Bờ. Bên
kia bờ con sông mà định mệnh đã trót cho nó cái tên
sông Thu.
Bây
giờ đang là mùa đông. Thời tiết năm ấy giá lạnh kinh
hoàng, bão khô thổi xao xác làm rừng núi khô vàng như
chờ nhóm lửa. Sông Thu có dòng chảy rất xiết, xoáy bờ
Nam, phá bãi Bắc, tạo ra những bãi phù sa cồn cồn lớp
lớp, hoặc những vịnh nước mênh mông. Ngày ngày mặt
trời như một cục máu đỏ hỏn trồi lên một chút là
bị mây đen vây phủ. Bầu trời mang máng xám rộng, khi
con sông Thu trán tỏa, sóng reo như biển.
Ngày
ấy, bờ Nam sông Thu hãy còn ít di dân tới định cư. Bờ
Bắc còn lưa thưa xóm làng. Chen lẫn giữa những xóm lá
hiu quạnh là rừng thưa hoặc núi đồi, đầm lầy. Từ
làng tới huyện phải mất mấy ngày đường. Quan đi lại
có ngựa, kiệu, dân cuốc bộ. Quan có lính hầu bảo vệ,
dân phải mang giáo mác phòng khi đâm chém với voi rắn,
heo rừng. Nông phu đi làm rẫy chạm mặt với thú dữ là
thường. Cọp thấy người trước tức thì phóng về
người xé xác mà nhai. Người thấy cọp trước thì đập
giết cọp mạng về, thịt ăn, da cọp làm áo hoặc làm
phên vách quanh nhà. Đôi khi cuộc chiến đấu ngang bằng,
cọp người gầm gừ rời nhau, cọp mang máu me chạy vào
núi, người mang thương tích về nhà vợ con băng bó. Cọp
gặm người vì bản năng, người giết cọp vì ý thức
sinh tồn.
Trần
Liêu có vóc dáng to khỏe như gấu. Cậu Cả giống bố,
ngày ăn bốn bữa, mỗi bữa nồi cơm bự, luôn có ý tìm
giết Phú Hào cùng quan Huyện. Trong Cả có dòng máu muốn
đứng lên giữa trời, cây đao phơ mà quạt “cỏ dại”.
Cậu Út, người mảnh mai, da trắng trẻo, mắt sâu mũi
thẳng, cách đi đứng nói năng thanh tú, sính chữ nghĩa
thơ văn, có tính khinh đời nhưng lại sợ chuyện đâm
cọp giết người. Với cậu, thế gian này chỉ là cõi
tạm; trong cuộc hành trình miên viễn của cậu, nơi đây
chỉ là cuộc ghé chơi, ngẫm nghĩ xa xôi làm chi cho u hàn
thể phách.
Thuở
bé, có lần Út đi chơi sao đó mà lang thang vào một hang
cọp. Liêu và Cả vác dáo đi tìm. Lúc tới nơi, người
ta thấy cậu Út đang ngồi thu mình bên chú cọp con láng
mướt màu nhau. Liêu ẳm Út ra khỏi hang cọp. Cả lăm le
ngọn dáo. Liêu can ngăn: “Đừng giết cọp con!”. Khi
xuống núi, ba cha con gặp cọp mẹ trở về. Lần nữa
Liêu nói với Cả, “Hãy tự vệ, đứng giết nó. Nó còn
con nhỏ trong hang”.
2
Cha
con Liêu xẻ gỗ đóng thuyền. Lại rèn thêm vũ khí.
Việc
qua sông chỉ cần một chiếc ghe nhỏ là vừa nhưng họ
đóng một chiếc thuyền khá lớn: như để vượt biển.
Liêu giải thích rằng phải chở cả bàn ghế tủ giường,
cối xay, chày giã gạo. “Ra đi, chỉ đi một lần không
lui lại, có chi thì chở hết”. Vả lại qua bên kia sông
đã chắc gì tìm được cái sống lúc ban đầu dễ dàng.
Bà
mẹ chuẩn bị lương thực, áo quần. Bà hái lá rừng
phơi khô, những loại có thể là những món thuốc Nam,
phòng khi chưa hợp thủy thổ. Hôm dọn bàn thờ, người
mẹ thấy cái hộp đựng cuốn gia phả đã bị mối mọt
ăn, tượng Phật cũng vậy. Để yên thì thần là tượng,
mà tháo ra ráp lại không được. Chúng rã tan. Như lớp
bụi vô nghĩa. Như một cái gì rất đáng sợ, giữa niềm
tin sâu mọt.
Bà
mẹ đem chuyện này nói với chồng. Liêu nói nghiêm chỉnh,
tuy có một thoáng bàng hoàng: “Cái gì hư mọt thì vất
đi, không cần sơn phết làm gì nữa, cha mẹ Phật, Tổ ở
lòng ta”.
Mùa
đông rồi cũng trôi qua. Nhưng mùa xuân năm ấy kỳ lạ.
Gia đình Liêu ăn cái tết từ biệt để chuẩn bị ra đi
thì mưa lê thê kéo dài, gió Bắc khô lạnh. Khắp nơi,
mai không nở. Cây rừng trụi lủi. Núi đồi hắt hiu bát
ngát. Bầu trời luôn màu chì. Giữa tháng giêng sâu bọ
bò rào rạt, hàng nghìn triệu con, san bằng đồng lúa.
Cào cào châu chấu, kiến cao cẳng đầy nhà đầy vườn.
Những luống cải hoa vàng trở thành màu nâu đen vì ruồi
nhặng bu quanh. Bướm ong màu sắc tươi xinh chết đầy
đất. Chuột chù chuột cống bò khơi khơi trong vườn
ngày. Trong trái chín sâu dòi ngổn ngang. Nước đồng
ruộng có màu đỏ loãng. Trên mặt nước có đóng ván
ngũ sắc, phản chiếu ánh mặt trời chiều trông hoang
đường đến nhức mắt. Ánh chiều mong manh như tơ lụa
bỗng trở nên gớm ghiếc: “Một mùa xuân ma”.
Một
hôm, quan Huyện đi thăm dân tình, gọi là chúc xuân, nhân
tiện ghé Phú Hào đánh chén cùng hãm hiếp kín đáo gái
quê. Cậu Cả nghe tin ấy, mang dáo ra đi, định giết
chúng. Liêu can ngăn con: “Chưa có tòa xử chưa nên giết
người!”. Cả cãi lại: “Bọn chúng không còn là người.
Mà ai ngồi tòa? Ai xét xử?” Người mẹ vừa khóc vừa
sợ hãi van xin: “Dù sao con gái mẹ cũng đã chết rồi,
gây ra oan trái làm chi nữa”. Cả giận dữ: “Trừ kẻ
có tội, trả thù cho Giao Châu mà là gây oan trái à?”.
Cậu Út nói: “Thôi, xin mọi người hãy dẹp cất dĩ
vãng đi”. Hôm đó Cả bỏ ăn, nói với cha: “Suốt đời
cha chỉ dạy con điều nhịn nhục, chịu đựng. Cha làm
tê liệt ý chí con người.”
Thời
gian dần qua, mọi việc chuẩn bị xong, ngày ra đi sắp
tới. Liêu mang màu vẽ mắt con thuyền. Cả rửa thuyền.
Dưới sức nắng mùa hè, con thuyền bạc thếch vì nước
lũ có bùn non phủ qua những ngày mùa đông. Trong lòng
thuyền một lớp bùn nhão, ở đó một con rắn nằm
khoanh tròn. Cả chặt một phát. Con rắn cụt một phần
đuôi, vùng thoát, trườn mình hướng về phía đầm lầy.
Cả nói vui: “Ngày xưa Lưu Bang chém rắn, ra đi rồi làm
vua”. Trần Liêu nhìn con gằn giọng: “Chỉ toàn chuyện
vấy máu”. Cả nói: “Nhưng máu của chính đạo thì
cũng cần thiết phải đổ ra lắm chứ”. Cha con cùng
cười. Nắng mùa hè chói chang. Dãy núi hùng vĩ phía Tây
như nghìn ngọn sóng bát ngát trong trời xanh. Mây trắng
chập chùng, trôi dạt cả dưới lòng con sông Thu xa xa.
Con
thuyền được kê lên cao bởi hai cái đà gỗ. Trần Liêu
lập bàn hương án, ăn vận chỉnh tề rồi cầm cọ chấm
màu vẽ mắt cho thuyền. Cả nhìn cha vẽ, lại hỏi:
“Người có mắt đây mà nhìn không thấy hết phương
hướng, lạc mãi chốn vô minh, cha vẽ mắt lên gỗ đá
mà chi?” Liêu giải thích: “Mắt người ta là mắt thịt.
Mắt gỗ đá mới hiển linh con trai ạ”. Liêu không là
họa sĩ nhưng điểm nhãn cho thuyền rất đẹp. Sau đó,
họ lắp bánh lái, lợp mui.
Bà
mẹ rất lưu luyến chốn cũ nhưng cuối cùng cũng đành
phải xuống thuyền cùng chồng con. Hôm ấy người mẹ
buồn lắm. Bà khấn vái tổ tiên. Đôi mắt ướt, nhìn
hun hút về nương rẫy rừng núi. Liêu đứng ở bờ sông
quay mặt về hướng Bắc lạy ba lạy, lại day về hướng
Nam bái ba bái. Thấy lạ, Cả hỏi: “Sao cha lạy phương
Bắc mà chỉ bái phương Nam?” Liêu giải thích: “Phương
Bắc là tổ tiên linh hồn giống nòi ta”. Út nói: “Theo
con thì cha phải lạy phương Nam. Phải lạy cái tương
lai. Còn quá khứ thì xá xá nó là vừa!”. Liêu cúi mặt,
thở dài, nhìn con.
Từ
lâu Cả thắc mắc một điều nên gạn hỏi cha: “Này
cha! Nghe rằng chúng ta là hậu duệ của vua Trần?”. Liêu
nói nghiêm chỉnh: “Đúng vậy, chúng ta là con cháu chính
thống vua nhà Trần, vì suy mạt mà ra đi”. Cả lại hỏi:
“Cùng một dòng họ nhà Trần sao một thời đầy dẫy
anh hùng, nhưng Hưng Đạo, Quang Khải, bây giờ lại toàn
một lũ gian manh trộm cắp, hoặc đói khổ đoạ đày như
chúng ta?”. Liêu than thở: “Đó là vận nước. Cũng một
dân tộc, một thời có thể rặt anh hùng, một thời rặt
bọn khùng lũ điên. Thời hưng thịnh thì một người cày
ruộng cũng giữ luân lý riêng mình và đạo đức giống
nòi. Thời suy vi thì cũng dân quan đó nhưng là lũ ti tiện,
coi trọng vật chất, xem thường đạo lý, vì cái sống
thấp hèn, vì địa vị, có khi ám hại nhau không nương
tay. Trong nhân loại, nước nào cũng có trường hợp đó,
vận hạn mà. Nhưng chớ có buồn mần chi. Ở chỗ cùng
kiệt, anh hùng lại sẽ xuất hiện, minh quân ra đời.
Cuộc nhân sinh sẽ được vun quén trùng tu.”
3
Thuyền
hạ thủy vào một ngày rực nắng. Bầu trời xanh ngát
không một áng mây. Liêu và cậu Cả ăn vận gọn gàng,
dáo mác bên hông, đai lưng bằng da thú, nón mây. Trông Út
như một đạo sĩ trong lớp áo trắng phơ phất. Người
mẹ nhìn bờ Nam xa tắp, dấu hiệu đất Hứa hãy còn mịt
mờ nơi cái tường thành lau trắng xa xa, chưa một bãi
dâu, chưa một làn khói bếp nhà. Bơi theo thuyền của họ
là một đàn cá sâu vùng vẫy. Cả định phạt một dáo.
Liêu can ngăn: “Ta có đường đi của ta, đừng chọc vào
lũ sấu xà”. Người mẹ tụng kinh. Tiếng lòng chan hòa
sông nước, giữa cái nóng của mặt trời cùng sự reo
thèm của lũ cá sấu dưới lườn ghe.
Họ
cho thuyền ngang qua bờ. Sông mênh mông không cầu. Cầu
quan lộ xa xa dưới kia năm ba ngày chưa thấy một bóng
ngựa trạm.
Trước
đây gia đình Liêu từng nghe người bơi thuyền qua sông,
đi Nam về, kể lại những gì đã từng mắt thấy tai
nghe. Câu chuyện khá hấp dẫn đối với Cả và Út khi
được biết cách đó không xa có một con đường rẽ về
hướng Tây, dẫn sâu vào núi. Một con sông chảy bạt
ngàn trên đỉnh núi liền núi. Như một con sông huyền
thoại, nhìn nó người ta tưởng nó chảy ngược, vì mắt
ta quen nhìn sông xuôi về biển. Đó là hướng Tây của
Quảng Nam – mở rộng về phương Nam – mà dòng họ Trần
Liêu, con cháu vua tới lập nghiệp. Núi trùng điệp sừng
sững. Những thung lũng trầm mặc, bí ẩn. Nơi miền xuôi,
những tháp Chàm hiện lên như những cánh xương rồng
khổng lồ. Đất đai hãy còn là những thảo nguyên hoang
dã.
Người
ta kể lại rằng ở đó, miền núi tây của Quảng
nam, có một kinh đô bị chôn vùi trong lòng một ngọn
núi. Một dân tộc đã vùi chôn kinh đô của mình trước
khi ra đi, bằng cách đắp núi lên đó. Người ta nghĩ
rằng lòng đất là nấm mồ sẽ giữ cho kinh đô vĩnh
cữu. Núi đó là Nhân Sơn – mộ địa sầu bi, đầy
huyền bí. Ngày nay, cái chất thơ hùng đó không chỉ bàng
bạc trong sử lịch mà nó hiện hồn bâng khuâng trong từng
từng cỏ lau trắng như khăn tang lưng chừng núi. Lúc bình
minh, núi chìm trong sương mù biển khói, và hoàng hôn núi
lặng im một cách lạ thường, khi cả trời rực lên cái
ráng chiều máu pha. Sau đó, núi chìm trong đêm im lìm, tìm
cách đầu thai trong bóng tối.
Thuyền
đang trôi an bình thì mọi người bỗng thấy dòng nước
chảy xiết. Củi khô, bèo giạt ở đâu trôi về đầy.
Mặt sông đen ra, mịt mù. Liêu đổi tay chèo cho Cả cầm
bánh lái. Mọi người đang vui vẻ bỗng lo lắng. Con sông
cứ như có thần linh làm cho nó càng xa thẳm hai bờ. Càng
chèo chống, vươn tới, hướng về, mong qua, thì bờ Nam
cứ dần dần xa tít. Bãi bờ phương Bắc hun hút với đầm
lầy rừng thưa. Bầu trời nắng gắt giờ đây mây phủ,
gió rao rao huyền hoặc không còn nữa. Một cơn bão đã
tới, gặt, giật, rung chuyển nghìn vạn âm thanh cuồng
nộ. Gió khoét nước từ mặt sông tung cao lên không
trung. Mưa không thể nào kể hết mưa. Từng tảng nước
dội phủ lên thuyền. Người ta cảm tưởng bị rách thịt
da, mặt, vì từng cây nước trắng như bạch kim châm vào.
Cả
vuốt mặt và nói: “Chúng ta bắt đầu chơi với quỷ
thần rồi đây. Bọn âm binh bắt đầu ló mặt. Ta trốn
xa lũ quỷ mặt người hóa ra giờ đây…” Út phất tay
áo nói: “Đúng là định mệnh chúng ta đang có ma vương
thọc tay vào”. Liêu răn dạy: “Hãy bình tĩnh các con.
Lúc này mới là lúc thử sức người”.
Trong
cuộc chinh phục thiên nhiên, con người vừa muốn tiêu
diệt nó, vừa muốn hòa bình, nhân hóa nó. Con người cần
lưu giữ thiên nhiên một phần nơi sọ não. Cuộc chơi đó
lắm khi gay cấn, không thiếu phần mỉa mai tàn nhẫn, là
một bên vẫn cứ muốn tiêu diệt một bên. Nhân loại có
nẩy sinh nhưng lần lượt đi vào mộ; thịt da mãi bốc
làn khói đen trong trời xanh. Con người tiêu diệt vi trùng
nhưng định mệnh cỏ cây cứ nẩy sinh ra nghìn nghìn vi
trùng mới, lạ lẫm và khôn ngoan hơn. Những cánh rừng
vẫn cứ bị chặt phá, ao hồ khô kiệt, không gian thấm
độc, vậy mà con người cứ đào biển phá núi, lăm le
đào xới những vì sao, tính tuổi mặt trời. Cho nên,
trong qui luật đó, gia đình Trần Liêu đang được treo
trên sợi dây bão tố, để thiên nhiên dày vò. Người ta
có thể không tin vào thiên đường hay địa ngục nhưng
quả thật những mặc khải tâm linh đó không trừu tượng
– ít ra về mặt biểu trưng: nghĩa là chúng ta đang ở
trong nhau, bão tố thường trực mang thai trong khí hậu an
lành.
Đối
với gia đình Trần Liêu, con sông Thu giờ đây là một
cõi lưỡng nghi hỗn độn: bờ Bắc thì mờ mịt, bờ Nam
tít xa ngàn dặm. Dứt bỏ dĩ vãng mà không có tương lai.
Rời một đám khói mịt mù để mơ tới một bờ sương
vô vọng. Trần Liêu đã dâng hiến một niềm tin sắt son
cho bão tố. Cuộc trùng phùng chừng như giấu mặt, bôi
vôi. “Trần Liêu? Ngươi có đau lòng chăng khi từ bỏ
một quá khứ dị dạng buồn nôn, để hòa mình cùng một
thực tại rách nát bão dông?”.
Cả
và Út không chèo thuyền nữa, mà gác mái chèo trong lòng
khoang. Trời đất vẫn lòi cái mặt nạ xám xịt trong cơn
thịnh nộ. Con thuyền răng rắc muốn bức làm đôi. Mũi
thuyền trước như con thú chồm lên vồ mồi, mũi sau như
con kình ngư chực lặn sâu xuống đáy nước. Nó đâm
ngang, rẽ dọc, lại quay tròn, khi lao vào Nam khi trở ngược
phương Bắc. Thuyền tự do theo hướng vô phương Phật
của nó, sẳn sàng nghiêng hất cha con Liêu giữa dòng.
Rồi, rắt một cái, bánh lái gãy. Liêu mất thăng bằng
bổ nhào vào lòng thuyền. Người mẹ cúi mặt vuốt nước,
miệng tụng kinh. “Một lời kinh nguyện nhỏ nhoi mà dám
van xin đất trời an bình?”. Nhưng người mẹ cứ tụng
kinh, vì mẹ nghĩ rằng trời đất có lỗ tai để nghe
những lời van xin hèn mọn nhỏ nhoi nhất trên thế gian.
Lạ
thay, rất lâu, qua nhiều thử thách, thuyền không chìm mà
cứ trôi mãi. Lại có vẻ càng lúc càng bình an khi sóng
gió đã lặng. Đêm lên. Mảng trăng lưỡi liềm vắt vẻo
xa xôi. Bầu trời trở nên sâu lắng huyền ảo. Lúc đầu
mọi người còn tỉnh táo, sau họ không định được
mình đang ở đâu. Thậm chí họ không còn cảm giác ở
trên sông hay biển khi mọi người bắt đầu mê dần.
Không gian như có mùi hương tinh khiết. Một bàn tay huyền
bí nào đó giữ cho chiếc thuyền không còn bánh lái cứ
trôi mãi đi. Mấy ngày đêm liền, thuyền không qua được
sông mà trôi ra biển. Cuối cùng rất may mắn thuyền dạt
vào một hoang đảo.
4
Cậu
Cả là người tỉnh dậy đầu tiên sau một thời gian dài
mê xỉu. Anh nằm dài trên cát ngơ ngác nhìn chung quanh và
nhận ra cái nắng rát mặt của buổi trưa nơi hoang đảo.
Mùi biển tanh nồng hòa trong gió. Sóng vỗ tràn lan qua bãi
trắng phẳng lì. Xa hơn, những mỏm đá cheo leo chồm ra
vịnh biển. Rừng rất xanh kéo lên tận đỉnh đảo. Một
vài cánh chim chao liệng trong trời.
Cả
cố đừng lên, lại mệt mỏi ngồi xuống. Chiếc thuyền
còn nguyên vẹn, nằm trên cát, cách nơi nằm của cha anh
và cậu Út không xa. Mẹ anh trong khoang. Đầu tiên với
cây dáo, Cả đào một cái giếng nhỏ trên cát, dùng tay
vốc nước uống, lại bốc một nắm gạo sống mà nhai.
Sau đó anh tới lay thức mọi người.
Họ
đi dần vào chân đảo, tìm một cái hang trú ngụ qua đêm.
Về
đêm, khí hậu đảo rất lạnh, sóng đánh rì rầm, tiếng
chim và tiếng rú gầm của muôn thú quanh quất. Mấy hôm
sau, Liêu và Cả vác dáo đi thám thính quanh vùng và trở
về cho người mẹ biết quanh đây không có làng xóm nương
rẫy, nghĩa là không có dấu hiệu rằng con người đã
từng sống hoặc từng qua đây. Người mẹ hiểu rằng
gia đình đang rơi vảo một tình thế hiểm nguy. Lương
thực đã hết, vì trước kia bà chưa hề nghĩa tới ngày
lạc vào hoang đảo.
Ngày
qua ngày, người mẹ chôn dấu sự lo sợ tận đáy lòng.
Bên ngoài bà cố vui vẻ, làm những việc giúp chồng con
như khâu vá áo quần, quơ nắm củi, hái rau rừng, lấy
nước từ giếng xa, sát vực biển, bằng cách khoét một
vài lớp cát. Bà tìm một chỗ bằng phẳng sạch sẽ,
trong hang đá – để thiết cái bàn thờ tổ tiên. Mẹ
vái lạy hằng đêm, khấn nguyện người khuất mặt –
tiền linh giống nòi, ông cha, chú bác, anh em thương; cả
những oan hồn cô quạnh, những kiếp chết linh hồn nát
mẩm thành cô hồn của quỷ ma – để mong chờ phút giây
cứu rỗi.
Một
hôm Cả đâm được một con thú, xẻ thịt ăn. Con người
ăn thịt mãi cũng khó thành người. Những đám rau rừng
dần dà cũng mòn tịt đi, vì bốn miệng ăn. Ở chốn sỏi
cát, cũng có thể trồng lương thực rau quả, ngặt vì
không có hạt giống. Rất may, nơi đây vẫn còn ít loại
rau và hoa quả nuôi người. Nhưng người đâu là khỉ,
núi rừng cho chi ăn nấy. Nên, thời gian lấy dần thịt
da máu tủy người.
Một
buổi chiều xám, ba cha con Liêu vắng nhà, người mẹ ngồi
thu mình trong hang đá bỗng nghe tiếng động ngoài cửa
hang. Mẹ rùng mình hiểu rằng loài thú rừng cũng đang
tìm một cái hang ấm áp. Chúng đang ngắm nghía cái hang
của mẹ. Đêm nằng mẹ mơ thấy những điều không vui.
Trong thế giới hoang đường của giấc ngủ mẹ nghe cả
tiếng cười vui, nhưng rất đau lòng, của chồng con. Họ
đang chống lại một định mệnh cay đắng. Những con
người khỏe mạnh dũng cảm ấy đang bị biến thể, trở
nên những bộ xương.
Nhiều
hôm trời thanh nắng tốt, mẹ đứng trên mỏm đá cao
nhìn mông lung, cố tìm dấu hiệu của đất liền. Mẹ
theo dõi cánh chim, mong thấy vệt xám xanh ở chân trời,
hay một cánh buồm nào đó qua đây. Mẹ tuyệt vọng cùng
tháng ngày, vì trong cái mông lung xanh ngắt kia không một
dấu hiệu bến bờ.
Mùa
đông lạnh giá lại về. Những mảnh áo tấm quần rách
nát. Trần Liêu là một bộ xương có mái đầu bạc: một
cái đầu lâu có tóc, có cái nhìn, có tiếng cười, và
sự bất trắc vẫn còn đeo đuổi.
Đêm
đêm, người ta đốt đống lửa hồng là để cho ấm, để
trò chuyện với nhau như ma trong mồ nhớ dĩ vãng trần
gian. Lửa ấy ít đun nấu một thứ gì có chất gạo. Da
người thiếu chất bột đã trở thành màu da bụng của
rắn mối, pha một chút xanh lơ bệnh hoạn của thiếu
máu, của mong chờ đất liền, của một ngày về đang
chìm trong sương biển. Mọi người trong gia đình Liêu rất
thương yêu đùm bọc bảo vệ nhau. Nhưng chính sự khắn
khít can đảm đó, trong cảnh khốn cùng đặc biệt, cũng
là một hoàn cảnh mỉa mai: Họ đang dần dà biến thành
vượn để hoàn chỉnh cái sống của kiếp người.
Một
hôm bà mẹ nói – đúng hơn là một bộ xương nói:
-
Nếu tôi chết, rất mong mình và các con hãy ăn thịt tôi
để sống qua ngày.
Liêu
cắn môi, rít qua kẻ răng:
-
Đừng nói điều vô đạo.
Bà
mẹ nghiêm chỉnh, nói lời nguyện cầu; như một sấm
truyền đầy cảm ứng thần linh, như máu trong mẹ nói:
-
Sao lại vô đạo? Tôi là vũ trụ tạo ra chúng. Lúc nằm
trong bụng tôi, chúng chẳng từng hít máu tôi, thở trong
tôi, ăn hút tủy xương tôi đó sao? Khi là bào thai lại
hoang vu ăn thịt người, lúc thành người lại mang đạo
đức ra trá hình đối với những dâng hiến cuối cùng.
Người
Mẹ, sau đó, kể cho hai con nghe một câu chuyện đầy ẩn
dụ rằng ngày trước có một đám tù vượt ngục từ
một trại tù nơi một hòn đảo lớn – địa ngục trần
gian. Họ lênh đênh trên biển – với một chiếc bè ráp
tạm – rồi trôi dạt vào một hoang đảo. Đói lạnh
bệnh tật, nhưng là những người tù chính trị chân
chính, họ không hề tuyệt vọng, rất can đảm và minh
sáng trong hoàn cảnh hiểm nghèo. Thế là một trong đám
người họ quyết định tự tử. Để làm gì? Để những
người anh hùng kia lấy thịt mình mà ăn. Con người kiên
cường kia biết rằng những người cùng chí hướng với
mình sẽ giải quyết cái thân xác tạm thời của
mình để tiếp tục làm cái việc muôn đời cho muôn
người.
Nghe
xong, Cả và Út lặng lẽ kinh hoàng. Họ cúi mặt khóc.
Ngọn lửa hồng vẫn tiếp tục cháy giữa dòng đại hồng
thủy. Sự nghịch lý tàn khốc kia hóa ra vẫn là một xúc
tác trong sinh tồn. Tập tục thường hằng lắm khi phải
lùi bước trước những điều cao cả: sự tan vỡ cùng
cực của đại biến để mở màn cho một kết thúc.
Từ
trong hang động mẹ nhìn ra biển lớn. Lúc đầu bầu trời
thanh thản một cách lạ thường. Bầy chim biển sà trên
mặt nước xanh. Sóng bạc đầu xua vào bờ hằng nghìn
cánh bạc, lấp lánh nắng. Một lúc mẹ nói, giọng rất
ấm:
-
Các con nghe mẹ bảo. Nơi đây không thiếu thịt thú rừng.
Nhưng các con hãy ăn thịt mẹ. Không là thịt người.
Không bao giờ mẹ là thịt người. Mẹ là thiên nhục.
Lời
Mẹ quả là điềm gỡ. Hai hôm sau Mẹ qua đời trong cái
hang đá lạnh lẽo ấy. Cả nhà khiêng Mẹ ra đặt trên
một phiến đá cao bằng phẳng. Biển bao la thanh thoát.
Bầu trời rất cao xanh. Tinh tú như tỏ rạng ngay giữa
ban ngày. Bầy hải âu bay, những cánh thiên đường. Rất
xa, một chiếc cầu vồng bảy màu hiện ra chênh chếch,
nơi đó đang có thể là mưa trong nắng, tụ hội thần
linh, nơi có thể sẳn sàng đón một linh hồn tinh khiết
nhất, cao cả và thăng hoa nhất.
Không
ánh đèn, không nhang khói, không kèn đưa trống thổi. Chỉ
có sóng trắng bủa xa xa. Chỉ có tiếng rừng của đảo
trở nên âm thầm ray rứt. Và chỉ có cậu Cả cầm cây
dáo múa như điên trong không khí. Cả muốn đâm mặt
trời, muốn chém mây trắng, muốn chặt gió đang vi vu,
muốn lấy máu của đá.
Sau
cùng, Cả cắm phập ngọn ngọn dáo lên nền cát rồi gục
khóc nức nở.
5
Trần
Liêu chôn vợ một cách thầm lặng, dưới chân viên đá
tảng. Đầu người quay về hướng mà người ta tin rằng
có đất liền nơi quê nhà. Liêu căm giận nói với hai
con:
-
Giao Châu con gái ta bị chết thảm dưới tay cường quyền.
Nay, vợ thân yêu của ta cũng chết thảm thương lúc ta
bôn đào. Nếu ta gặp cái thằng Số Mệnh ở đâu ta chặt
đầu nó ở đấy, nếu quả thật có một thằng Số Mệnh
bằng xương bằng thịt.
Vài
hôm sau, kể từ lúc Mẹ nằm yên trong lòng đất, buổi
chiều, không gian bỗng huyền hoặc lạ thường. Màu trời
vàng lênh láng, mây trôi chập chùng, gió nhẹ, biển lặng.
Xa xa, vẫn cái cầu vồng màu sắc hiện lên, như một
chiếc cổng trời đầy hào quang. Thế gian như gọt đẽo
thần tốc để có một phong diện kỳ ảo. Theo sóng biển,
một con nhà táng trôi dạt vào, kề bên nó là một chiếc
thuyền buồm lọai nhỏ. Vào bờ được vài phút, cá nhà
táng đã chết. Cha con Liêu tìm thấy trên ghe có rất
nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men, áo quần, những
lọai giống ngũ cốc có thể gieo hạt.. Lại có một ít
vũ khí, một la bàn và một bản đồ hải hành. Năm người
trên ghe đã chết, máu me đầm đìa. Có những bịch gạo
thấm máu tươi như xôi gấc.
Thời
gian trôi đi.
Đã
hơn mười năm cha con Liêu sống nơi hoang dã. Họ xây nhà,
gieo hạt, trồng cây. Họ biến một phần đảo có hồn
người. Họ khắc đá dựng bia trên mộ người Mẹ. Họ
tìm cách để lại trong hang đá những ký hiệu, những
lời dặn dò mong hướng dẫn những kẻ không may sau này
lạc vào hoang đảo như họ. Từ lâu, rất nhớ đất
liền, cha con Liêu thề tìm mọi cách trở về. Chim có tổ,
nước có nguồn, cha con Liêu mong một mảnh quê hương,
được nghe tiếng nói của đồng bào mình.
Họ
tự học cách sử dụng la bàn, bản đồ hài hành, cụ bị
lương thực, xẻ gỗ đóng thuyền. Thời gian đó, may mắn
thay, một vài chiếc thuyền buôn ghé đảo. Họ được
tiếp xúc với những người thủy thủ da trắng mà họ
cho là man di – một loại người rừng đẹp đẽ. Rút
kinh nghiệm của lần ra đi năm xưa, bây giờ họ chuẩn
bị kỹ lưỡng hơn; bàn bạc với nhau tìm phương cách
đối phó nếu gặp hiểm nguy.
Trần
Liêu nay đã là một cụ già, giàu kinh nghiệm nhưng sức
sống không còn mãnh liệt như xưa; niềm tin cũng mòn mỏi.
Liêu không dám khẳng định một may mắn có thể chuẩn
xác trong tương lai. Cả đã là một gã đàn ông rắn rỏi,
cương nghị. Những ngày cô đơn, gian khổ, tuyệt vọng
đã dạy Cả, nung đúc Cả thành một con người gan dạ,
có chí hướng. Riêng cậu Út có khác, Út thường trực
ưu tư, có dấu hiệu tâm thần. Đi đâu về đâu, Út vẫn
thấy những bất hạnh vây quanh. Những ám ảnh siêu hình,
những suy niệm duy tâm luôn đè nặng lên tâm cảm cậu
ta. Có lẽ Út sẽ trở thành một nghệ sĩ cô đơn, ca
ngợi cái đẹp trong đau xót riêng mình; đành lòng nơi
một cõi trú rất phi lý mà phải tha thiết với nó, vì
nó. Út rất viễn mơ nhưng lại không tin vào điều tâm
nguyện, rất khinh đời, khuynh hướng vô chính phủ, thiếu
óc tổ chức. Với cậu, hy vọng chỉ là một sự phiền
muộn, mong ước là dấu hiệu của xót đau riêng tư. Út
cho rằng con người tự kéo sợi tơ tham vọng quanh mình
như con tằm nhả kén chung quanh, sau cùng, đành chết giữa
lòng tơ.
Sáng
hôm ấy trời quang mây tạnh. Sau khi kiểm điểm “quân
mã”, cha con Liêu bái biệt hoang đảo, xuống thuyền dong
buồm ra đi. Ra đi? Có nghĩa là tìm về.
Lúc
rời khỏi mái tranh nhỏ, nhìn mộ vợ dứơi chân viên đá
tảng, những nương rẫy hãy còn mầm xanh, những hoa vàng
quanh bờ dậu, những con dê được mở cổng chuồng cho
chúng về đỉnh đảo, bầy dê lại đi quanh quẩn trong
vườn, như nhớ ai, chúng đi dọc bờ rào gặm những đọt
xanh; Liêu động lòng nói: “Hóa ra đây là quê hương thứ
hai, đã có máu và mồ hôi chúng ta! “ Cả nói: “Sau này
thế nào chúng ta cũng trở lại đây. Có lẽ đây cũng là
một hòn đảo quê nhà”.
Ngồi
trên sóng bạc đầu, Trần Liêu nghĩ miên man về con sông
Thu, về Giao Châu, căm giận bọn Phú Hào, quan Huyện. Liêu
nhớ ngày tuổi nhỏ cùng cha vượt đèo vào bờ Bắc sông
Thu lập nghiệp. Một đoàn người biệt xứ ra đi, từ
đâu đó, tới đâu đó. Có dấu chân người là có con
đường, có xóm làng; những dây thân ái cùng khổ đau
nối kết, giăng tơ; và có những tên tuổi để gọi danh
cho nó. Con người đã làm ấm đất đai vốn nghìn xưa tẻ
lạnh.
Thuyền
buồm trôi dạt được hai đêm ngày thì bọn họ thấy
đất liền mờ mờ. Rất vui mừng, nhưng ba cha con Liêu lo
ngại rằng có phải mình đã đi đúng cái hướng mình
muốn tới, hay sẽ lạc vào một vùng người xa lạ, phải
đâm chém vong mạng mình mới tìm được chốn nương
thân.
Cả
đề nghị không nên cập bờ ban đêm. “Tối trời nguy
hiểm lắm”. Liêu nói: “Cập bờ ban đêm sẽ tránh được
sự dòm ngó của dân địa phương”. Đôi mắt cứ đăm
đăm nhìn vào mớ vũ khí, nghĩ tới một cuộc đụng độ
với người xứ xa lạ, Út nói: “Lần này chúng ta gặp
một hoang đảo nữa, ắt thành tiên thành Phật”.
Lúc
bình minh rựng rựng ở Phương Đông, vạn vật còn chìm
trong lớp sương mờ ảo, thuyền của cha con Liêu cặp bờ
an toàn. Trước mặt họ là một vùng nhấp nhô những đồi
cát, rừng phi lao thưa thớt. Vượt qua những đồi nương,
mặt trời đứng bóng, cha con Liêu gặp những cánh đầm
lầy, nước xâm xấp. Rồi những khoảng rừng tràm gần
như vô tận. Chưa thấy nhà, chưa thấy khói, chỉ thấy
bóng chim bay, tiếng sóng vỗ về sau lưng. Đêm đầu tiên
cha con Liêu ngủ dưới một tàng cây da lớn, chim chóc về
đầy. Họ vui mừng vì trong tiếng chim lao xao có một cái
gì tuy xa vắng nhưng quen thuộc. Có khi chỉ gặp bóng dáng
thiên nhiên đã nhận ra quê hương mình. Có khi chỉ thoáng
thấy màu núi xanh lơ đã nghe lòng nao nức mùi vị quê
nhà.
Cha
con Liêu cuốc bộ hai ngày đêm thì gặp một cánh đồng
khô, sau khi tìm cách vượt qua một con sông rộng. Từ
phía hữu ngạn đi lên, trong nắng chiều, họ bắt gặp
hình ảnh xa xa một tháp Chàm. Cái khối xương rồng khổng
lồ ấy hiện lên nền trời xanh, làm rực cháy trong tâm
cảm cha con Liêu một niềm tin quen thuộc. Họ mừng rỡ
nắm tay nhau. Lần đầu tiên những nụ cười của họ có
màu sắc, sau nhiều năm xám xịt âu lo.
Họ
bắt gặp một con đường mòn. Vậy là đã có dấu chân
người. Vậy là da thịt người đã làm mòn mặt đất,
cát bụi đã bắt gặp mồ hôi người, người và đất
hơn một lần trò chuyện. Sau cùng cha con Liêu đi vào một
vùng đồi thấp. Cả bảo: “Hãy gắng đi lên cái ngọn
đồi cao nhất kia kìa”. Ý của Cả là nhân đó có dịp
quan sát chung quanh, tìm phương hướng cho ngày mai tiếp
tục hành trình.
Lúc
lên tới ngọn đồi cao nhất là lúc mặt trời sắp lặn.
Hoàng hôn tim tím, nhãn quang của cha con Liêu bỗng rực rỡ
một không gian thoáng rộng khi xa xa bên dưới là con đường
quan lộ – có lẽ là xuyên Bắc Nam – những ánh đèn
leo lét của vài xóm nhà, những rặng cây bóng tối. Con
sông ngoằn ngoèo dẫn về Nam, không một cây cầu. Tất
cả hãy còn nhuộm vẻ hoang sơ, đầy đậm chất huyền
ảo, của miền đất một dân tộc bỏ đi và một đám
di dân chưa kịp tới. Bóng tối thì luôn luôn giống nhau
nhưng cái màu sắc nhân văn, cái ẩn số thần linh hãy
rất là khác nhau. Ở những cực điểm của hoàn cảnh,
con người luôn luôn bị vò xé bởi tâm cảm khó định
hình. Mỗi cha con Liêu rơi vào một trạng thái tinh thần
hoàn toàn khác nhau. Cậu Út rất ngợp trước những cơn
gió không biên cương nơi đỉnh đồi. Cậu lại ngạt thở
trước tình huống tự do, mà theo cậu, không đáng tán
dương gì. Cậu muốn chết ngay tức thì.
Đêm
đó, cha con Liêu ngủ trên một khoảng đất trên sườn
đồi phía Nam – hầu hết những xóm làng trên sườn đồi
hay sườn núi Việt Nam đều nằm ở phía Nam. Vì sao vậy?
Vì họ tránh gió mùa đông tanh lạnh, từ phương Bắc
thổi vào. Mọi người mệt mỏi, không ai nói với nhau
được điều gì. Mỗi người ôm ấp một an lành riêng
tư, nhấm nháp cái hương vị đất liền sau nhiều năm xa
cách. Dấu hiệu phục sinh được họ nhận ra trong tiếng
chim rừng quen thuộc, trong mùi cỏ, và trong từng lá cỏ
đâm nhói – dưới bờ lưng không mềm chiếu.
Khuya,
trời lạnh buốt. Trần Liêu tìm cách đốt một đống
lửa. Cha con ngồi vây quanh sưởi ấm: những bộ xương
hồng. Liêu nói: “ Chúng ta lập nghiệp tại nơi đây
được rồi các con ạ”. Cả nói: “Hãy đi thêm nữa.
Ngày mai có khi chúng ta tìm được một vùng đất phì
nhiêu lý tưởng hơn”. Út nói: “Chúng ta là những người
trồng kiếp người cho mai sau chứ không phải trồng cây
măng cây lúa”.
Không
gian như đượm hương. Đêm một màu đen tuyền, muôn
nghìn mắt tinh tú. Cách đó không xa, sóng bờ Bắc sông
Thu vây bủa, và những bầy voi trầm mặc đi, những con
cọp vồ người vẫn còn giấu mặt chờ sáng. Đã đổi
quan huyện mới, nhưng Phú Hào đã xây cất thêm được
những dãy nhà mới. Cuộc sống vẫn tiếp tục đồng bộ
đi tới bằng những bước chân ác quỷ trá hình; và
trong hiện thực màu xám hãy còn nhiều đầu lâu khoác
mặt nạ.
Đám
lửa giữa cha con Liêu bừng lên, và những đám hồng reo
nổ – do những thanh cây có chất dầu. Cậu Út dõi đôi
mắt vào đêm, như tìm cái tiền kiếp của cậu, hay cái
gì đó mà cậu vẫn cứ mơ màng là một phần hồn đang
cất cánh bay đi. Một số những con nai con sóc thấy ánh
lửa chạy tới nhưng thấy người chúng lại phóng mình
đi, với chim chóc, cọp, beo, cả chuồn chuồn châu chấu
trên ngọn đồi này, trong khu núi thấp triền miên là
rừng này, đêm nay, bọn chúng nhận ra rằng đã có bọn
người đặt chân tới; nghĩa là rồi ra, chúng sẽ tìm
nơi nương thân khác. Giữa đêm tịch mịch, trong ánh hồng
soi mặt, Liêu nhìn hai con rồi đột nhiên nói; giọng đầy
âm sắc ngọt ngào:
-
Các con, hãy vui sống để làm lại tất cả. Chúng ta
đang, và sẽ bắt đầu. Dẫu là trong đêm tối mịt mùng,
nhưng trên quê nhà, hôm nay ta đã đốt được một ngọn
lửa hồng.
*
Ngọn
lửa hồng ấy được đốt lên cách đây gần sáu trăm
năm, ngày Quảng Nam thuộc về đất Việt, những cư dân
đầu tiên đã tới. Ngọn đồi xưa kia cha con Liêu tới
đốt lửa nay là Nỗng Ông Tào. Ngày nay quanh đấy đã
đầy những nương rẫy, xóm làng, cuộc sống cứ mãi đổi
thay và tiếp tục. Những dấu vết xưa, nay có xóa nhòa,
tà huy hay bừng sáng, hy vọng nối hy vọng, khổ đau chồng
chất khổ đau, máu pha máu, mồ hôi cạn dần trên mỗi
xác thân lương thiện, cuộc sống con người có khai mở,
sự lạc hậu tối tăm có thể bị đẩy lùi; nhưng không
phải thế, vì vậy, mà những manh tâm nơi con người cứ
tuần tự phai tàn đi. Mỗi một con người sớm mai đẩy
cửa ra đường đã nhanh chóng có một thằng bản ngã của
nó huênh hoang và lếu láo bước theo, và con người lương
thiện ấy vẫn tưởng nó – cái phần phân thân kia –
đương nhiên phải có như một chiếc bóng của ta trên
mặt đường, dưới bóng mặt trời. Ngày ngày chúng ta
phải cứ hòa nhập với kẻ thù, chung cùng một trái tim.
Thuở
bé tôi từng nghe cha tôi kể câu chuyện trên – vẫn buổi
tối trăng lên ở ngọn cây gòn đầu ngõ, tiếng chuyện
trò văng vẳng của các thôn nữ ở vườn bên; tiếng
chim đêm cùng trái rụng; gia đình quay quần bên mâm cơm,
trên cái sân gạch lung linh ánh trăng, lót dưới mâm cơm
là chiếc chiếu trải nền. Và lót dạ thêm cho những bữa
ăn thiếu chất là các truyện cổ tích, giai thoại, những
câu đồng dao, những câu tiếu lâm. Cái hương vị quê
mùa thơ mộng ấy làm câu chuyện về cha con Trần Liêu
thấm đậm trong tôi. Đầu óc trinh bạch của tôi thuở
ấy giữ mãi câu chuyện trong một thần thái an lành.
Câu
chuyện Trần Liêu không phải là chính sử, chẳng là
chuyện thần thoại, cổ tích, thậm chí có người cho
rằng đó là một câu chuyện không thể có thật. Tôi
không nghĩ như thế. Bị một đau khổ đích thực còn hơn
có một niềm vui giả tạo. Bằng vào tính chất trong
sáng, nhân bản, không xa lạ với hiện thực, tôi tin rằng
câu chuyện Trần Liêu có thật. Nếu không, chúng ta để
Tình Người đi đâu, khi ngày nay nhìn mặt,
gọi-là-mặt-người.
Ngọn
lửa kia đã tàn trong thiên thu. Con cháu Người-Đốt-Lửa
hãy còn. Lửa ấy không chỉ là một thứ ánh sáng vô
cảm, trong một xã hội máy móc, lạnh lùng. Lửa ấy cũng
không siêu nhiên xa lạ, cũng không nằm chết trong ý nghĩ
hạn hẹp hiện thực của lửa. Nó có thể đã biến
thành một dạng ánh sáng khác: đậm đà như ca dao, rực
rỡ như lời ca hạnh phúc, hay ngậm ngùi như tiếng hát
gọi nát lòng của những thân phận hẩm hiu của Mẹ, của
Giao Châu.
Ngọn
lửa thiên thu kia đã có một linh hồn và một tác động
vĩnh cửu. Chúng ta ghi nhớ lại, cũng có nghĩa là sẽ đốt
lên.
Và,
chúng ta chẳng hề quên câu nói tiềm vọng của Liêu: “…
Chúng ta sẽ bắt đầu làm lại tất cả. Dẫu rằng trong
bóng tối mịt mùng, nhưng trên quê nhà, hôm nay chúng ta
đốt một ngọn lửa hồng”.
Cung
Tích Biền