văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Tuesday, January 29, 2013

TRẦN VĂN NAM * CHẤT THƠ TRONG TRIẾT HỌC và CÁC BÀI THƠ SÁNG TÁC ÁP DỤNG

tranh Đằng Giao
Bài viết về chất thơ trong triết học của Trần Văn Nam đã có trong sách (TRONG DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN NAM, xuất bản năm 2006), đã đăng trên phụ trang “Quán Văn” của nhật-báo “Người Việt” (ra ngày 26.07.2006), đã lên trên các mạng điện tử “nguyentrongtao.info” (trong ngày 14.05.2010) và mạng “chimvietcanhnam free” (tháng 12 năm 2011). Nhưng thơ sáng tác áp dụng chỉ có một ít bài trên báo mạng (chimvietcanhnam), 2 bài trên sách in (THƠ TỰ DO MIỀN NAM, Thư Ấn Quán xuất bản năm 2008), một hay hai bài trên tuần-báo (Saigon Times ; Saigon Nhỏ), mười bài trên nguyệt san (Tạp chí Khởi Hành, số mùa Xuân 2008). Nay, mạng “vuontaongovhnt.blogspot.com” đã đồng ý cho phổ biến rộng qua điện-tử gần toàn bộ những bài thơ sáng tác áp dụng chất thơ trong triết học (tức các văn ảnh “thơ và triết học” theo thể loại Thơ văn xuôi):
Thơ và Triết Học hay là Văn ảnh trong “Tập Thơ Ðộc Nhất” và “Tập Thơ Bổ Khuyết” của Trần Văn Nam, phát hành hạn chế, đã in tại Sài Gòn năm 1963
Vết trâu xanh

Theo Sách Cổ thì ngày xưa ở bên Trung Hoa có một triết nhân thường ngồi một mình dưới chiếc cổng đền đổ nát có màu xanh lung linh của con trăng lưỡi liềm thời khuyết sử.

Rồi một ngày kia khắp trong nước từ Hoàng Ðế đến cả thần dân không một ai biết ngài đã lưu lạc ở góc biển chân trời nào.

Có người kể đã gặp ngài một lần đang cưỡi con trâu xanh đi lần trên sa mạc Trung Á trong một buổi hoàng hôn xa mờ miền vạn dặm.

Và hình như ngài có ghé nghỉ đêm ở một quán khách chênh vênh trên miền du hành bao la để ngày hôm sau trước khi tiếp tục ra đi đã trao tặng chủ quán một quyển sách nói về sự khôn ngoan của loài người...

Ngài đã là một thể hiện của con đường tìm đạo mà ngài đã bỏ ra một đời trầm ngâm giữa núi sông thảo mộc.

Ngài đã tự xóa không còn ai biết nữa trong dĩ vãng ngàn năm mà trên cuộc hành trình xa xôi gió sa mạc cũng đã thổi mờ dấu chân đi của con trâu xanh thời quá khứ hoang đường... 

Tiểu Sử của Lão Tử cũng chính là văn ảnh diễn tả tư tưởng Lão Tử: “Ðạo khả Ðạo phi thường Ðạo, Danh khả Danh phi thường Danh”

***

Ngôi nhà xứ sở

Khi người không tìm được tâm tình xứ sở trong chữ nghĩa âm vang tiếng thì thầm thư viện.

Khi người không nghe được hồn thiêng dân tộc khi ngồi quán kinh kỳ nhạc trổi lênh đênh.

Thì xin người hãy trở về dừng chân trên một bờ dốc kinh đào thật cao rồi nhìn đáy chân trời mịt mùng những thôn làng cuối bãi.

Người hãy lắng nghe tiếng động chiều vàng xéo dài qua vùng trời yên lặng đón hoàng hôn.

Bao lâu còn những trẻ mục đồng dẫn trâu trên quốc lộ dài in hình lên mây ngàn đỏ sẫm,

Bấy lâu người vẫn còn nghe tiếng hát muôn đời của thực thể quê hương...

Heidegger nói: "Ngôn Từ Là Nhà Ở Của Ẩn Thể" (“Le langage est la maison de l’être”), vì ngôn từ ấp ủ ẩn thể siêu hình. Xin lấy hồn thiêng sông nước đồng ruộng làm một ví dụ về ẩn thể.

***

Con sông daì qua kinh thành cũ...

Chiều hôm qua cũng như chiều nay có một người đàn ông mặc đồ nỉ xám ra bến tàu nhìn hằng giờ trên dòng sông vẫn miên man trôi về nơi vô tận.

Ðốm lửa lòe lên qua điếu thuốc nằm trễ dài trên đôi môi mím chặt vẻ u hoài của nét mặt trầm ngâm.

Dăm cầu tàu quạnh quẽ nhớ nhung dài theo cuộc hành trình sáng hôm qua đã ra miền trùng dương cao rộng.

Những con tàu còn lại đây nằm im lìm trong hơi nước hay sương mù của cơn mưa vừa tạnh giữa chiều nay.

Dòng sông đã trôi qua miền bình nguyên bao la để đêm đêm về đây bên kinh thành vẫn huy hoàng trong điệu nhạc Valse muôn đời kỳ ảo.

Sao người mãi u buồn nhìn dòng nước thời gian đi từ nguồn quá khứ sang hiện tại là nơi đây để ngày mai về miền biển cả ngàn khơi.

Người ơi! Thực ra dòng nước vô tri ngàn năm vẫn chỉ là hiện tại không bao giờ có dĩ vãng cũng không về với nghìn sự sau ảo tưởng.

Chính vì người đang mơ màng một cuộc hành trình xa xăm bỏ lại nơi kinh thành quen thuộc mà u hoài trên bến nước thời gian...

Hiện-Tượng-Luận của Husserl đào sâu về Ý thức: "Ý Thức Là Ý Thức Về Một Ðiều Gì”, vì vậy chỉ có Hiện tại là cụ thể xác thực, còn Quá khứ hay Tương lai đều hư vô đối với Ý-Thức (Ý-hướng-tính). 


***

Người tình tiên tri của thi sĩ Ðinh Hùng

Thật lạ lùng khi thi nhân có sẵn trong tâm trí chân dung người tình của mình là một thiếu nữ đẹp như trăng chưa từng quen biết.

Ðẹp như trăng quả là mơ hồ cũng như mắt xanh của bóng dừa hoang dại rất khác với tiêu chuẩn màu sắc ca ngợi đôi mắt ở thế gian này.

Chưa gặp nàng lần nào mà thi nhân xác nhận đã có hò hẹn lâu rồi chắc ở một nơi nào đó ngoài không gian thời gian nên không phải là cuộc hò hẹn từ tiền kiếp mà là do tiên cảm tiên tri.

Khuôn mẫu định hình người tình đã có sẵn nên khi gặp một người thật trong đời có lẽ thi sĩ đã gán cái khuôn mẫu đó cho nàng.

Ý nghĩ người đẹp trong tâm trí và hiện tượng xác thân gặp nhau thành một cuộc trùng phùng chính xác làm mãn nguyện thi nhân để se duyên cho họ thành một đôi tình nhân hạnh phúc dắt nhau đi vào rừng xanh vớt cánh rong vàng bên suối.

Lấy bài thơ "Mộng Dưới Hoa" của Ðinh Hùng làm văn ảnh diễn tả khái niệm nhận thức trong triết lý KANT: "Biết được hiện tượng là do những khuôn mẫu có sẵn trong tâm trí đóng khung vào vật giới ở ngoài”.

***

Khi mọi sự đều trơ trụi

Dòng nhựa vẫn âm thầm chảy lên ngọn trong thân cây sần sùi khi mùa đông trụi lá.

Vài loài động vật bắt đầu cuộc sống tiềm sinh dưới bùn khô hạn hán để đợi chờ năm tới có trận mưa đầu mùa.

Nếu cuộc đời khô cạn ý nghĩa cho Tổ Quốc cho quê hương thì ta là đám mây trôi đi trôi tới dật dờ một kiếp đời vô định.

Nếu cuộc đời chấm dứt ý nghĩa cho gia đình cho họ hàng thân thuộc thì ta là hòn đảo cô đơn nghe độc điệu ngày đêm một loại nhạc thủy triều.

Nếu cuộc đời không có kỷ niệm không hồi tưởng quá khứ thì ta hụt hẫng như giây phút bàng hoàng vô thời gian của một phi hành gia lúc bị cuốn vào rún trời xoáy thành hố thẳm.

Nếu cuộc đời không liên hệ gì với kẻ khác với môi sinh thì ta là một sa mạc chết không gió vãng lai không mù mưa thăm viếng.

Nếu cuộc đời tiêu hủy mọi lý tưởng thì ta là cây cỏ đồng hoang vận hành cho hết một đời hay sâu bọ tối tăm vận hành cho hết một kiếp.

Không phải vậy đâu! Vì ta là tiềm sinh là dòng nhựa tồn vong là con người sống ở đời và với kẻ khác.

Ta không là chiếc rễ cây bị lột trần hết mọi ý nghĩa mà trở thành nhầy nhụa như một hiện diện thừa thãi đáng buồn nôn.

Văn ảnh diễn tả ngược lại ý tưởng "Sự Buồn Nôn" và "Ðịa Ngục Là Những Kẻ Khác" của Sartre.

***

Người sống ở đời như thi sĩ

Quê hương chúng ta khi thanh bình trở lại sẽ có những đứa con thân yêu từ hải ngoại trở về trên con đường làng xưa dẫn vào thôn ổ muôn năm vẫn một đàn cò trắng bay về sau lũy tre xanh.

Họ sẽ ra đi bỏ lại xứ người bao nhiêu sự nghiệp sau công trình mười năm đại học ngồi co ro tuyết trắng qua những đường xe lửa điện ngầm.

Trên con tàu hồi hương họ sẽ thấy lại rặng cây hoang nằm dài duyên hải giơ lá cành vẫy gọi biển xa khơi.

Quê ta đất rộng còn nhiều nhưng chưa có những bàn chân khai phá đi về cuối trời góc biển với cát ngàn năm gió thổi phù trầm.

Họ sẽ về để đổi một dòng một con sông cho chảy qua vùng trời hạn hán hay vạch một đường xa lộ đi vào núi thẳm hang xanh.

Khi đã xong công việc rồi họ lại ra đi mở mang một nơi nào hoang vu khác trên đất nước có ngàn thông bóng dừa nghe như đời đời còn hát điệu biển Ðông.

Từ ngữ “Thi Ca”trong triết lý Heidegger được hiểu như “Sáng tác” hoặc “vén mở” (có ý nghĩa siêu-hình làm xuất hiện ẩn-thể). Heidegger khai triển nghĩa siêu hình này từ ý thơ tạo nghiệp ở đời thấy như rất cụ-thể của Holderlin (Plein de mérites, mais en pòete, l'homme habite sur cette terre: Mặc dầu đầy sự nghiệp, nhưng mà người sống ở đời như thi sĩ)


***

Hồn những con đường

Chúng tôi còn những con đường ngoại ô của người đàn bà gánh nước nửa đêm bỏ lại phía sau từng vũng chuyện buồn đi về xóm vắng đìu hiu đèn vàng.

Chúng tôi còn nghe tiếng nói lam lũ một đời qua hình ảnh người phu xích lô đạp xe đường khuya bóng dáng ngã dài xuống bến trăng xanh.

Nếu người từ phương xa đến đây tìm hiểu đất nước này thì xin tiếp xúc làm quen chứ đừng thả dài trên đại lộ phồn hoa khi hoàng hôn đỏ rực công trường.

Bởi vì bề mặt kinh thành không phải là hồn dân tộc chúng tôi mà chỉ là những hình khối mấp mô dựng lên bầu trời, và cùng lắm thì chỉ nghe được tâm sự não nùng của người ca sĩ sầu tình hát khúc buồn tênh.

Người phải đi qua những ngõ tối mưa khuya lầy lội có tiếng hát ru con ngậm ngùi tan vào bóng tối trầm tư nửa đêm gỗ đá thì thầm.

Hay lắng nghe phần Vô ngôn chuyên chở trên lời thơ của người thi nhân lãng tử đêm đêm lướt qua phố phường như một vì sao lạc rồi đi mất dần về ngõ khói âm vang..

Ý niệm Chân Lý trong Triết Lý Heidegger chủ trì sự làm quen, tiếp xúc thân thuộc; Chân lý không thể đạt tới bằng trí hiểu. Như những con đường mòn trong rừng chỉ quen thân đối với người tiều phu. 

***

Thi sĩ và khoảnh khắc phù du

Thi nhân một hôm xuôi dòng trường giang trôi chảy đi qua bao nhiêu bãi cát vàng bỏ lại bao nhiêu cồn dâu xanh về nơi cửa sông hoang vu nước vào trăm ngả.

Hai bên bờ làng mạc xa xăm nằm ngủ kỹ trong sương mù từ buổi mai đến xế chiều lắng nghe dư âm đồng vọng của đoàn người áo nâu đi họp chợ đầu hôm trở về.

Con sông dài thì bao giờ cũng chuyên chở tình cờ một cành củi khẳng khiu theo đám bèo giạt trôi qua từng hàng không biết đến khi nào trở lại.

Cành củi trôi sông kia đã rời bến ra đi từ một quá khứ nào hôm qua rồi từng phút từng giây tiến vào khu vực hư vô của tương lai phía trước xa mờ.

Nhưng thi sĩ đã lập được kỳ công để tồn tại vì người không phải là sự vật vô tri sự vật im lìm trôi vào thời gian vô tận.

Bởi vậy củi một cành khô trên dòng trường giang lớp lớp đã nhập hồn thi sĩ mà hóa thân vào bài thơ sông dài bất hủ để vượt thoát sự hủy diệt của một khoảnh khắc phù du...

Lấy bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận làm văn ảnh diễn tả ý niệm "Mọi sự đều biến dịch, ta không bao giờ tắm được hai lần trên một dòng sông" của Heraclite.

***

Cái bóng ở ngoài ta

Lúc bấy giờ trời vừa xế chiều, người là một khối lù lù vô thức ngồi bất động bên một triền núi nhìn ra ngoài kia có hay không một màu xanh phẳng lì của mặt biển.

Ánh nắng hoàng hôn chưa hiện thực nhưng chiếu rọi cái khối vô thức ấy lên vách đá thành một hình thù hư ảo mà từ đó người tạo ra sự tồn tại của mình.

Cái bóng đó là do người muốn đặt ra ngoài mình vì tự ý đến ngồi đây nhờ ánh nắng chiếu dọi tạo thành nên không giống sự thụ động ngoài ý muốn của các tù nhân do một đống lửa chiếu từ phía sau in hình họ lung linh vào hang đá mà một triết gia thời cổ nào đó đã nói tới.

Hình tượng khối vô thức ấy in lên vách đá mỗi lúc một mờ dần, thu nhỏ dần, chứng tỏ tạo vật đang vận chuyển ở trong vòng thời gian và cái thu mình ngồi đó chiếm lấy một chỗ không gian chứng tỏ người là hiện tượng vật giới.

Ý thức mình là thời gian và vật giới nên bây giờ người đã biết mình là ai biết mình đang hiện hữu trong cuộc đời.

Phản tỉnh đi ra rồi trở về nên cái khối vô thức cùng cái bóng ở ngoài đứng lên nhập lại thành một người thực sự, và kéo cao cổ áo đi vào thành phố cũng vừa mới lên đèn đây đó...

Văn ảnh diễn tả cụ thể ý tưởng trừu tượng rất “duy tâm chủ quan” của Fichte (Triết gia Ðức 1762- 1814): Ta tự đặt ra ngoài một cái-không-ta (Phi ngã, Le non-moi) để từ đó quay lại phản tỉnh ý thức mình là mình; nhờ biện chứng sáng tạo đi ra trở vào đó nên nó làm thế giới thành thực hữu - The conscious mind creates both the objects and the knowledge by which the objects become known. (Bài mới sáng tác năm 2002)

***

Ði trên bình nguyên nước Phù Nam

Vị trí thuận lợi khi ngồi trên một xe đò lớn, dọc dài một tỉnh lộ tái thiết trên bờ đê đắp cao; và thời gian cũng thuận lợi khi cơn mưa vừa tạnh buổi xế chiều làm bầu trời quang đãng.

Chuyến xe đang trên tuyến đường Rạch Giá- Sài Gòn, chạy song hành với con kinh đào Cái Sắn thông nước đến bờ Hậu Giang tại Bắc Vàm Cống.

Xe vừa ra khỏi Rạch Giá mười lăm cây số, khách nhìn về phía trái qua bên kia con kinh đào đầy nước, qua những cánh đồng mênh mông tỉnh An Giang, bóng núi Sập của dãy Ba Thê hiện ra dưới tầm mắt, một đỉnh chơ vơ đột khởi chân trời.

Chữ viết của những trang sử đời nhà Lương bên Tàu ghi lại cách nay một ngàn năm trăm năm đã có nói một nước Phù Nam với thủ đô Óc Eo trong địa bàn dãy núi Ba Thê; bình nguyên An Giang- Kiên Giang còn đây mà chủng tộc nào một thời đã ở?

Mấy lớp vỏ sò hầu hến thuộc sinh vật biển hiện hữu ở lưng chừng những vách núi đá vôi tại Hà Tiên là ngôn ngữ địa chất; ngôn ngữ đánh dấu lại mực nước biển dâng cao thời đầu Công Nguyên, xác định Óc Eo bây giờ nằm sâu trên đất liền mà ngày xưa đã trời xanh hải cảng.

Tiếng lặn hụp của bầy trâu len vô số kể từ Ba Thê đi về miệt Bảy Núi trong mùa nước lụt vang vọng từ cuốn sách của nhà văn Sơn Nam đã là ngôn ngữ văn học, khẳng định vương quốc Phù Nam thuộc vùng trũng thấp có thể tiềm tàng cả một đô thị bị bùn đất chôn vùi.

Những đồng tiền La Mã, tượng thần Vishnu và Shiva của Ấn Ðộ, các dòng chữ Phạn trên bia đá, vài đồ gốm từ các xứ Á Ðông, đôi mảnh nữ trang bằng vàng của Ba Tư; đó là ngôn ngữ khảo cổ khai quật tại Óc Eo, làm rập rình trước mắt ta những đội thương thuyền ghé bến, lưu tồn những nét nhân văn.

Ngôn ngữ sử học, ngôn ngữ địa chất, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ khảo cổ; những dấu hiệu có hệ thống đó có phải đã giúp ta hiện thực hóa một phiếm định, hay chỉ trưng ra bằng chứng một thực thể tồn tại từ hai ngàn năm trước.

Ngồi xe qua bình nguyên Phù Nam cổ, chỉ biết Óc Eo tồn tại vì chất thơ âm vang sóng nước thời nào bến cảng, và bằng phẳng chân mây đột khởi một đỉnh núi đền đài.

Thơ Và Triết Học/ Văn ảnh diễn tả khái niệm về “Ngôn Ngữ Tổng Quát” của FERDINAND DE SAUSSURE: Ngôn ngữ gồm lời nói, chữ viết và tất cả những dấu hiệu nào quy thành hệ thống; mỗi ký hiệu đều liên hệ xa gần với những ký hiệu khác làm nên những cơ cấu; và không có chúng thì ta không nhận ra được thực tại. Như vậy CƠ CẤU LUẬN như gần với thuyết Duy Tâm Chủ Quan (Subjective idealism): Thực tại được thực-hữu-hóa do tâm trí. Ở đây, tâm trí là những dấu hiệu được con người hệ thống hóa – The relationships betwen the elements of the code give the product of a system signification. Codes (or signs) are arbitrary and without them we cannot apprehend reality. (Bài mới sáng tác năm 2002)

TRẦN VĂN NAM