Tây
cai trị xứ mình... đem lại nhiều cái hay nhưng cũng có
lắm điều dở, phải không chú phó hương quản ?
Chú
phó hương quản ngạc nhiên, chưa dám trả lời. Ðây là
lần đầu tiên mà chú nghe cậu xã Nê tuyên bố lạ lùng
như vậy. Cậu xã là người thanh niên độc nhất ở U
Minh làng Ðông thái này thi đậu bằng cấp tiểu học,
học trường của nhà nước ở chợ. Nhiều lần, cậu xã
giải thích riêng cho chú hiểu : tên Nê của cậu do chữ
Tây Rờ-Nê, Rê-Nê gì đó mà ra. Chính cậu xã phổ biến
cách chào hỏi mới, bắt tay "bủa xua" với ông
đại hương cả. Mỗi kỳ đi hầu ông Ðốc Phủ Xứ chủ
quận, cậu xã Nê không mặc áo dài, đội khăn đóng như
mấy ông hương chức khác. Cậu diện áo bành tô, cổ
thắt "cà ra quách". Lại còn một việc lẫy lừng
khác, thiên hạ đồn phong phanh chớ chú không chứng kiến
tận mắt : năm ngoái, lúc ông Chánh Soái đi tàu tới Cạnh
Ðền mang theo sắc thần của Bảo Ðại phong cho Hoàng tử
Cảnh, cậu xã Nê bắt tay "bủa xua" với ông
Chánh Soái, rồi "bật" tiếng tây rôm rốp khiến
quan Ðốc Phủ Sứ, mấy thầy thong thầy ký và tất cả
hương chức hội tề các làng trong quận đều khâm
phục...
Cậu
xã Nê nhắc lại câu hỏi khi nãy :
-
Phải không chú phó hương quản, Tây cai trị đem lại lắm
điều dở, chú nghĩ coi.
-
Ðiều gì vậy cậu. Tôi thiếu hiểu.
-
Cờ bạc lộng quá. Dân mình như tự do cờ bạc suốt
năm. Ở chợ Ngã Năm, ở chợ Xẽo Rôn nhà "xẹt"
đông nghẹt dân nghèo.
Chú
phó hương quản suy nghĩ, giải thích :
-
Tại cái máu cờ bạc. Dân miệt này toàn là người tứ
xứ tới làm ăn. Họ cờ bạc không cần ăn thua, cốt để
khuây khỏa nỗi nhớ nhà.
-
Không phải đâu ! Tại họ ở không, quanh năm chỉ làm
một nghề ruộng hoặc một nghề đốn củi. Thiếu tiểu
công nghệ...
-
Thưa cậu, tiểu công nghệ là cái gì ?
-
Là thuộc da, dệt chiếu, may quần áo... Làng mình không
có thứ tiểu công nghệ nào để cầm chưn họ.
Vùng
rừng bùn lầy, khai thác chưa xong, làm sao họ nói đến
tiểu công nghệ ? Chú phó hương quản mải lục soát
trong trí nhớ. Làng gồm bốn ấp, tháng Tết rảnh rang,
ai nấy bỏ nhà đi chơi. Ấp Ðông Bình, sát mé biển
chuyên về chài lưới ; thường thường mấy tay khá giả
ở đó đi ghe ra chợ Rạch Giá đánh me, đánh vố. Hết
tiền thì họ ngồi nhà mà đờn ca vọng cổ hoặc nói
chuyện tiếu lâm. Hồi mùng ba Tết, chú phó hương quản
đến đó một lần, họ kéo chú lại bắt ép uống rượu
đến say mèm rồi mới chịu thả ra. Vui quá ! Lại còn
"ông Năm xay lúa" từ ngoài hòn Cổ Trơn vào xay
lúa mướn ! Thiên hạ bao vây ổng, hỏi han rối rít. Cái
ông già này mới cừ khôi, đứng xay từ hừng sáng tới
mười giờ đêm mà không nghỉ tay, sắc mặt luôn luôn
tươi rói. Bất chấp Tết nhứt, ông ra nghề từ bữa
mùng bốn, xay lúa ròng rã tới hôm nay, ai cần thì cứ
gọi ông đến cho vui nhà vui cửa.
Chú
phó hương quản nói :
-
Ở xóm biển có người chuyên môn xay lúa mướn. Ðó là
tiểu công nghệ, phải không cậu ba ?
Cậu
xã Nê gật gù :
-
Không phải... nhưng mà có còn hơn không. Ai xay vậy ?
-
Dạ, ông Năm ở hòn Cổ tron mới vô.
Nghe
qua, cậu xã như bị điện giựt, nhảy nhổm, sáng mắt
lên :
-
Chú nói sao ! Hòn Cổ Tron à ! Thiệt không ?
-
Dạ, thiệt chớ.
-
Trời đất ơi ! Mấy năm rồi tôi muốn biết cho rành
cái... tụi người đó. Kỳ cục lắm kia. Tôi thấy tận
mắt một lần mà còn nhớ, còn giận hoài. Họ ở truồng.
Chú
phó hương quản ngạc nhiên :
-
Sao lạ vậy cậu ? Ông già này... có bận quần. Hằng năm
mùa Tết ổng vô đây xay lúa mướn. Qua tháng mưa, ổng
thất nghiệp trở về hòn ; ổng đui hết một con mắt,
nói chuyện sành sõi, nghe ngộ lắm.
-
Ðây là lần thứ nhì tôi gặp họ... Nếu không ở truồng
thì họ cũng mang vô đây vài phong tục lạ lùng. Chú đốt
đuốc mau. Mình đi kiếm ổng nói chuyện... Dịp may hiếm
có.
Con
trăng đêm hai mươi lăm u ám quá ; hai thầy trò đốt đuốc
soi đường. Mùa hạn, đồng trống hoang, cây cỏ héo cằn,
con rạch khô cạn. Ði bộ trong làng rạch đã mát chân
lại được bảo đảm nạn rắn rít.
Gió
biển hiu hiu, hơi lạnh như gió bấc, muỗi bay thưa thớt
từng con bên cây đèn tọa đăng, tuy vặn tim lên cao nhưng
mãi lu câm vì ống khói không chùi sạch. Ông Năm nắm tay
vào giàn xay, đưa tới lui. Thớt cối quay tròn, lúa phun
ra kêu rồ rồ, vang đều đều, mãi rồi sanh nhàm tai,
buồn ngủ, cơ hồ không có. Kế bên ông Năm, đờn kìm
trổi giọng, không na ná tiếng gà mổ vào nia. Ðờn "ghi
ta" hòa theo, tuy nhanh nhưng buông rõ rệt từng giọt
đồng, kém dồn dập hơn giọng đờn ở bên Tây Ban Nha
tuyệt vời. Bãi biển sình lấy của vịnh Xiêm La chứng
tỏ đủ năng lực hấp thụ và đồng hóa những gì xa lạ
!
Năm
ba bạn bè đang nghe bài Tây Thi quốc sự, nhắc gương
chiến đấu của nhà chiến sĩ quốc gia Phan Châu Trinh,
Mấy chai "ắp xanh", "con cọp đen" rượu
rừng... lần lần cạn. Tuy bận rộn xay lúa nhưng ông Năm
vẫn lắng nghe, thưởng thức. Bỗng có kẻ chạy vào như
tên quân trong tuồng hát bội cấp báo :
-
Thầy xã với phó hương quản tới. Nghe không ! Hai chả
đốt đuốc... Lặn hụp giữa ruộng nãy giờ. Tôi thấy
rõ ràng.
Ai
nấy ngưng đờn ca. Ông Năm vẫn xay lúa rồ rồ... Họ
vừa nói vừa cười, cãi cọ qua lại một cách thân ái :
-
Mấy chả gan mật cùng mình sao kìa ! Hồi nào tới giờ
họ chưa đặt chân tới xóm mình. Chắc có chuyện gì,
mình ăn thua đậm.
-
Nói bậy đi. Hễ không tới thì chê người ta nhát, kiêu
căng. Bây giờ người ta tới thì công kích. Thầy xã này
là người có âm đức. Ba của thẩy, chú của thẩy hồi
đó hiền lắm.
-
Hiền đâu không thấy, chớ tôi hồ nghi mấy "chả"
toan xét giấy thuế thân đặng mà dằn mặt tụi mình.
-
Tết mà, thẩy đâu dám. Tôi nghi thẩy làm "ăn kết"
dân lạ mặt, thí dụ như ông Năm xay lúa. Mình cứ trả
lời rằng đã trình diện ổng với ông chủ ấp. Chủ ấp
của mình bữa nay đi vắng, dễ nói dóc quá, đâu có mặt
mà đôi chối. Nè ông Năm ! Ngừng tay lại, nghe tôi dặn
: Lát nữa, ai có hỏi, ông làm bộ như câm, như điếc.
Nói chuyện nhiều, nguy lắm. Ông có "giấy lão"
không ?
Ông
Năm nói :
-
Không có giấy tờ gì hết. Tôi tàn tật hư một con mắt
mà... Muốn dẫn tôi đi đâu cũng được... Theo lẽ, nhà
nước phải nuôi tôi nữa kìa.
-
Cha này coi vậy mà gan ta !
Ánh
đuốc sáng lòe trước cửa. Ai nấy lặng im. Chú phó
hương quản đập đuốc xuống đất để dụi tắt. Cậu
xã Nê bước vào, trong khi ông Năm mải xay lúa rồ rồ.
Cậu
xã tươi cười, khoát tay như bảo ai nấy cứ ngồi xuống,
đừng đứng dậy chào.
-
Ðược ! Ðược ! Phiền bà con quá. Tết năm nay đầy đủ
không ? Ðờn địch vui quá hả ? - Thầy nói.
Một
người đáp lại :
-
Dạ, nhờ... "bà cậu" nên năm rồi cũng khá, tạm
đủ tiền xây xài.
Chú
phó hương quản lườm mọi người :
-
Bà con ăn nói vô ý tứ quá. Tại sao nhờ... "bà cậu"
? phải nhờ người này người kia chớ. Còn ông già kia
sao xay lúa hoài vậy ? Nghỉ một chút để người ta nói
chuyện. Bữa nay cậu xã tới...
Cậu
xã ngắt lời :
-
Ổng xay để ổng xay. Nếu dân mình ai nấy đều siêng
năng như vậy thì quý lắm.
-
Dạ đó là ông già Cổ Tron mà tôi nói hồi nãy với
thầy.
Cậu
xã hơi phật ý vì thái độ quá sốt sắng của người
cộng sự :
-
Chú phó hương quản để mặc tôi. Tôi không muốn làm
rầy ổng.
Rồi
giọng thầy ôn tồn :
-
Ông ở hòn Cổ Tron hả ! Làm gì sanh sống ở ngoải ?
Ông
Năm ngưng tay, trả lời :
-
Dạ, tôi đốn cây săn đá để làm cối giã gạo, bán
cho bà con trong bờ này.
-
In là ông hư một con mắt ?
-
Dạ bẩm, tôi tàn tật hồi còn nhỏ chớ không phải vì
nghề... cầm búa.
Một
người nói tiếp như muốn chứng minh sự lương thiện
của ông Năm :
-
Thưa thầy, ổng giỏi lắm. Nghèo là tại trời... vậy
thôi ! Cây săn đá ngoài hòn Cổ Tron bền tới thiên niên.
Cối bằng săn đá giã gạo mau trắng. nhịp chày vô nghe
bon... bon như thiếng chuông đồng. Ở nhà đằng kia, còn
một cây cối thứ đó.
Cậu
xã gật đầu :
-
Ðó là tiểu công nghệ, nghe không chú phó hương quản.
Rồi
cậu ngắm nghía ông Năm. Nỗi thắc mắc của cậu vẫn
chưa giải tỏa. Không lẽ dân ở hòn Cổ Tron lại siêng
năng, khéo léo, hiền hậu tới mức này. Day qua mấy cây
đờn, mấy chai rượu, cậu như hối hận :
-
Bậy quá ! Làm lỡ cuộc vui chơi của bà con anh em. Thôi
"làm" một bản vọng cổ nghe coi ! Lựa thứ nào
văn chương hay một chút.
Vọng
cổ mà văn chương hay ! Họ rao sơ sơ rồi bắt đầu :
-
Ác ngậm non Ðoài, ngọn gió Ðông Nam nó thổi đưa mặt
nhựt hồi về nơi Tây Bắc...
Anh
ca sĩ ngạc nhiên, tức tối vì thình lình cậu xã dơ tay
lên, ra dấu hiệu chận lại, thiệt không đúng "điệu"
! hay là cậu hồ nghi câu hát này ẩn ý chuyện quốc sự,
sấm truyền ? Hồi lâu, cậu xã mới nói :
-
Câu hát khó hiểu quá ! Rắc rối mà lại vô duyên.
Anh
ca sĩ cãi lại :
-
Thưa cậu, đó là tả cảnh chiều, gió thổi nhè nhẹ mặt
trời sửa soạn lặn... Bài này trích trong cuốn Vọng cổ
Bạc Liêu bán tại chợ Rạch Giá.
-
Tôi hiểu... Bài ca lăng nhăng quá, trật sách vở khoa học.
Tại sao mọc ở Ðông Nam rồi lặn ở Tây Bắc ?
Anh
ca sĩ nhìn qua ông Năm như cầu cứu. Cậu xã nói cố ý :
-
Ông già xay lúa này cắt nghĩa thử coi. Tôi nói câu hát
trật văn chương mà !
Ông
Năm vừa xay lúa vừa nói chậm rãi :
-
Dạ, lệ thường mặt trời mọc hướng Ðông lặn hướng
Tây. Nhưng gần sa mưa hay gần Tết thì mặt trời đi xéo.
Vì vậy ngày và đêm không đều, "tháng năm chưa nằm
thì sáng, tháng mười chưa cười thì tối". Từ Ðông
Nam hồi về Tây Bắc, tức là bài ca vọng cổ muốn nói
lúc tháng mười ; ngọn gió đó là gió Tết. Mặt trời
ít khi đi ngay hướng Ðông Tây, thưa cậu.
Cậu
xã Nê hoảng hồn vì dường như ông già xay lúa nọ nói
đúng, đúng theo cuốn sách địa lý mà cậu đã học.
Nhìn nhận rằng ổng nói đúng thì e mất thể diện mình,
cậu đánh trống lảng :
-
Ông học điều đó ở đâu vậy ? Ai dạy ông ?
-
Dạ, không ai dạy hết. Tôi nghiệm ở hòn Cổ Tron. Ở
ngoải buồn lắm. Tối ngày, tôi coi mặt trời mọc, mặt
trời lặn cho khuây khỏa. Ðiều đó, lần lần tôi hiểu
được, không rõ hồi nào.
Cậu
xã Nê hơi tức giận. Chú phó hương quản nãy giờ ngồi
im lại nói :
-
Ông biết cái gì ông ơi ! Hòn Cổ Tron là nơi quê mùa,
còn tệ hơn quê mùa nữa kìa ! Dân hòn Cổ Tron chuyên môn
ở truồng, đàn ông đàn bà gì cũng vậy, cậu xã của
tôi biết rõ.
Anh
em đờn ca cảm thấy áy náy vì bầu không khí hơi bất
hòa. Họ muốn an ủi cái thể diện của cậu xã mà họ
không hề thù oán. Sẵn câu nói này, họ đồng hè trả
lời :
-
Cậu xã hay quá ! Ở ngoài hòn Cổ Tron có gì lạ vậy
cậu, tụi tôi chưa biết. Ông Năm xay lúa mới ra hòn lúc
sau này, chắc cũng chưa biết, Xin cậu nói lại cho tui tôi
nghe.
Thích
chí, cậu xã Nê thuật lại :
-
Năm đó, hồi còn nhỏ mỗi ngày tôi đi học, từ nhà
muốn tới trường thì phải quẹo ra sân banh sát mé biển
chợ Rạch Giá. Bữa đó, hừng sáng, dân chài lưới la
hoảng chạy về báo với ông cò Tây. Tôi tới nơi xem :
rõ ràng trên bãi biển có hai người đờn ông, hai người
đờn bà nằm dài lim dim con mắt, miệng chúm chím cười.
Họ ở truồng đông đổng ! Chập sau, thầy đội mã tà
ra tới, Thẩy kêu mấy người đó. Họ nhúc nhích rồi
nằm yên. có người bàn : "Chắc họ bị chìm ghe
ngoài biển khơi trôi tấp vào đây, dọc đường họ cởi
quần áo để thân thể nhẹ nhàng, tiện bề bơi lội. Họ
ở xa lắm, không chừng ở ngoài hòn Cổ Tron". Nghe
qua họ vẫn chúm chím cười. Tiếng đồn ngày một lẹ,
mấy người ở chợ kéo nhau đến nghẹt tới mé biển mà
coi cho rõ hư thiệt. Ông cò Tây hoảng sợ, thầy đội mã
tà cũng hoảng sợ. Làm sao giải tán được ? Làm sao che
dấu chuyện ở truồng đó được ! Sau rốt, ông cò Tây
bèn sai lính mã tà qua chợ mua bốn chiếc chiếu đem xuống
mé biển, phát cho mỗi người một chiếc, biểu họ quấn
chung quanh mình rồi lên bờ. Họ không trả lời. Mấy
người mã tà bắt buộc họ đứng chính giữa, rối căng
chiếu che bốn bên, dẫn họ về bót. Họ bằng lòng đi.
Cái cảnh lạ lùng quá, như công chúa ngày xưa đi tắm có
tỳ nữ che rèm bốn bên.
-
Hay quá vậy câu xã. Nói tiếp nữa đi.
Cậu
xã nói tiếp :
-
Ông cò không chịu chứa mấy ông bà ở hòn Cổ Tron này
trong bót, e xui xẻo. Ổng ra lịnh giam họ bên nhà việc
(nơi làm việc của chính quyền ở làng, xã) làng Vĩnh
thanh Vân. Mấy ông hội tề đành giam giữ họ.
-
Rồi họ chịu bận quần áo không ? Có người hỏi.
-
Chịu chớ sao không chịu. Hương chức làng xuất tiền
công nho, may cho mỗi người một bộ vải xiêm láng. Họ
cười, không nói không rằng, ra về.
Rồi
cậu xã kết luận :
-
Ðó, mấy người ở hòn Cổ Tron theo tôi thấy rõ ràng
thì như vậy đó. Ông Năm xay lúa nghĩ sao ?
Ông
Năm mỉm cười, trả lời rằng không biết. Chú phó hương
quản nói :
-
Hồi đó, chắc ông già này có tham dự quá !
Ai
nấy cười rộ. Cười để làm thỏa mãn lòng tự ái của
cậu xã, hòng chấm dứt câu chuyện cho đúng lúc.
Cậu
xã, chú phó hương quản đốt đuốc ra về.
***
Ông
Năm lại tiếp tục xay lúa. Ông nói :
-
Tôi không biết cái chuyện ở truồng này ! Chẳng qua là
thiên hạ hiểu lầm hòn Cổ Tron. Mấy người ở truồng
nào đã tự xưng quê quán, danh tánh. Như cậu xã nói, họ
im lìm từ hồi đầu mùa kia mà ! Cậu xã nói thiệt chớ
không nói dóc đâu.
-
Vậy thì vụ đó là vụ gì ?
-
Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là
mưu mô của mấy người nào đó ở gần chợ rạch Giá.
Vì thiếu quần áo - nên nhớ là năm đó đồ khổ lắm,
họ liều thân làm xấu để xin quần áo của nhà nước.
Nhà nước sợ họ ; họ đã thành công. Dễ gì đi làm
mướn một buổi sáng mà sắm được bộ quần áo, hồi
năm quần bao áo bố đó !
Ai
nấy khen ngợi :
-
Ông Năm cắt nghĩa hay quá !
-
Tôi nhắm chừng vậy thôi. Người trong cuộc họ hiểu rõ
sự thật hơn tôi. Họ không nói gì thì làm sao mình biết
; sự thiệt nó im lặng, không có lời nói. Bây giờ chắc
họ cũng không muốn nói ra, e bị ở tù về tội gạt
hương chức làng.
-
Vậy mình cũng nên kêu cậu xã trở lại, nói cho cậu
nghe. Cắt nghĩa như vậy chắc cậu chịu lắm mà lại còn
phục tài người ở hòn Cổ Tron như ông đây.
Ông
Năm lẩm bẩm :
-
Ðừng kêu trở lại nửa chừng ; ban đêm, cậu hồ nghi.
Ðể cậu về ngủ. khuya, gió lạnh lắm. Mà chưa chắc
cậu chịu nghe. Nhưng không sao. Năm mười năm nữa, chừng
tóc bạc hoa râm cậu hiểu một mình, không cần ai cắt
nghĩa. Muộn gì !