Bách niên giai lão
Gửi anh Nguyễn Tài Cẩn, ngọn
mây Tần
Nhà
bác học Pháp Claude Lévi-Strauss sinh ngày 28 tháng 11 năm
1908 tại Bruxelles – Bỉ. Tuần này là ông lên thượng
thọ trăm tuổi, tôi dùng từ « giai lão » trong
nghĩa « đẹp lão » : mừng ông còn khỏe và
minh mẫn. Vào tuổi cổ lai hy, là một học giả lừng
danh, đã có nhiều đóng góp lớn lao vào nền học thuật
nhân loại già nửa thế kỷ, ông là một tấm gương
sáng cho giới trí thức thế giới, nhất là ngành
biên khảo đương thời và hậu thế..
Gần đây, ông còn dí
dỏm : Khi người cao tuổi qua đời, thì chết ít
thôi, chỉ chết cái phần còn lại đã hư hao đi nhiều.
Câu nói thường thôi, đúng thôi nhưng phát xuất từ tác
giả Con người trần trụi (L’ Homme nu,1971), thì
lời hóm hỉnh mang một thoáng u hoài cảm động.
Tiểu sử và sự nghiệp
ông, nhiều người đã biết, tài liệu nơi nơi đã ghi.
Mùa xuân năm nay 2008, nhà xuất bản Gallimard, Paris, ấn
hành tuyển tập Claude Lévi-Strauss, trong tủ sách quý La
Pléiade, được giới học thuật chào mừng như một sự
cố, vì nhà xuất bản này chỉ in sách văn chương, mà
Lévi-Strauss lại chuyên biên khảo về dân tộc
học – ngoại trừ hồi ký Nhiệt đới buồn thiu,
Tristes Tropiques, 1955, lúc xuất bản được đề bạt lĩnh
giải văn chương Goncourt, nhưng không được, vì không
phải là tác phẩm giả tưởng... Nhà xuất bản
Gallimard, rất kinh viện, khi chọn in tác phẩm
Lévi-Strauss trong bộ La Pléiade văn học, thì đã
mặc nhiên thừa nhận sách ông là tác phẩm văn chương,
và ông là nhà văn, bên cạnh nhà nghiên cứu. Cũng như
ông nhiều lần thừa nhận thầy mình, trong ngành dân tộc
học, là những nhà văn Montaigne, Balzac và Rousseau, nhất
là Rousseau. Và đồng nghiệp tương tác và tương đắc
của mình, không thuộc đồng khoa dân tộc học, mà là
nhà ngôn ngữ học Roman Jakobson.
Giá trị văn học trong
tác phẩm Lévi-Strauss trước đây đã nhiều người thừa
nhận. Nhưng quyết định của nhà Gallimard vẫn là một
khai mở dứt khoát. Nhờ đó tôi, với tư cách nhà
văn, hôm nay có thể an tâm viết về Lévi-Strauss, một bậc
thầy về mặt trí thức. Mà cũng là bậc thầy về văn
học.
Sách Lévi-Strauss chuyên
môn, uyên bác nhưng không phải bài nào cũng khó đọc.
Người đọc trung bình, lướt qua vài ba trang, vẫn có thể
biết thêm, học thêm được cái gì đó. Nhà văn Nguyễn
Tuân nổi tiếng về những bình luận việc ăn uống, trên
giá sách tại Hà nội, có cuốn Sống và Chín, Le
Cru et le Cuit (1964) của Lévi-Strauss, dày cộm, tôi nhìn vào
chăm chú. Ông giải thích sách đẹp, bày cho đẹp, thỉnh
thoảng chỉ đọc dăm trang (1979). Theo gương ông, tôi cũng
lật lật cuốn nọ cuốn kia, và học được nhiều
chuyện : hiểu thêm về từ « cậu » trong
tiếng Việt khi đọc Nhân chủng học cấu trúc,
Anthropologie structurale, 1958, về từ « anh, em »
khi đọc Cấu trúc sơ đẳng trong quan hệ họ hàng,
Les Structures élémentaires de la parenté (1949, 1967). Đọc
Hình thái học truyện cổ, Morphologie du conte (1958)
của Propp, nhiều điểm không hiểu, tôi đọc lời giới
thiệu trong Nhân chủng học cấu trúc2, ( 1973) của
Lévi-Strauss, thì hiểu ngay.
Học mót, lắm khi vở
lẽ, chợt sáng mắt sáng lòng.
Là người hàm ân Claude
Lévi-Strauss, để chúc mừng ngày sinh nhật ông, tôi mạn
phép công bố một bài viết đã lâu, nhằm giới thiệu
tác phẩm Nhìn Nghe Đọc,
Regarder Ecouter Lire[1],
1993 được ông xem như là tác phẩm út oi – chữ của
Nguyễn Tuân. Từ ấy đến nay, quả là ông không có sách
khác, và tiểu luận này được chọn vào cuối tuyển
tập La Pléiade- Gallimard tháng 5-2008.
Claude Lévi-Strauss là một
trong vài người khai sáng trào lưu cấu trúc luận đã gây
ảnh hưởng sâu và rộng trong những khoa học nhân văn,
xã hội thế giới năm mươi năm gần đây. Tại Việt
Nam, đã có nhiều người giới thiệu như Nguyễn Văn
Trung ở miền Nam[2],
Hoàng Trinh ở miền Bắc[3]
thời kỳ đất nước còn bị phân chia.
Hoàn cảnh đất nước thời điểm ấy (trước sau 1970,
thời hòa hội Paris) chưa cho phép giới nghiên cứu Việt
nam tiếp thu đầy đủ, công bình những thành tựu của
khoa học nhân văn Phương Tây. Ngày nay, trào lưu cấu trúc
đã đi qua, có lẽ chúng ta cũng nên kiểm điểm lại một
cách khách quan những thành tựu xem còn gì có thể tiếp
thu hay thừa kế nhân đọc lại tác phẩm mới của
Lévi-Strauss.
Nhìn
Nghe Đọc dưới
hai trăm trang thân chữ lớn là tác phẩm ngắn, dễ đọc
nhất của tác giả, một tiểu phẩm so với sự nghiệp
của ông. Một loại mạn đàm nghệ thuật hoặc tùy bút
hiểu theo nghĩa Vũ
Trung tùy bút
của Phạm Đình Hổ, vì tác giả viết tùy hứng nhưng
vẫn theo dụng ý truyền đạt phương pháp luận, kinh
nghiệm tri thức. Tựa đề gồm ba động từ Nhìn
Nghe Đọc
báo hiệu nội dung tác phẩm, những suy tư của tác giả
khi nhìn hội họa, nghe âm nhạc và đọc sách cổ kim,
song song với thao tác
nghiên cứu, lập thuyết trong địa hạt dân tộc học
chuyên môn của mình. Tác phẩm phản ánh một tâm hồn
nghệ sĩ nhạy cảm và uyên bác đằng sau bộ óc bác học
bao la và nghiêm túc.
Sách gồm hai mươi bốn
chương bề ngoài rời rạc. Lévi-Strauss cho rằng mình ráp
nối « cắt dán » theo kiểu họa sĩ Max Ernst.
Nhưng người đọc sành điệu cảm thấy ngay « cấu
trúc » ngầm của một bản hòa tấu đa dạng, phong
phú, hài hòa và nhất quán, qua sợi chỉ mành kết hợp
là lập trường Lévi-Strauss mà người đọc đã làm quen,
đã học tập từ hơn nửa thế kỷ nay. Những chuyên khảo
của tác giả trước đây, dù khó đọc và nghiêm nghị
vẫn phảng phất màu sắc và âm hưởng của nghệ thuật,
từ Poussin đến Ravel, Wagner. Trong Sống và Chín (Le
Cru et le Cuit, 1964) ông đã xem nhạc sĩ Wagner như « cha
đẻ của lối phân tích cấu trúc huyền thoại ». Ba
mươi năm sau, lần lên thêm một thế kỷ nữa, ông xem
nhạc sĩ Rameau (1683-1764) với « lý thuyết hợp
âm (accords) đã đi trước phương pháp giải thích cơ
cấu » (tr.43)
*
Tác phẩm mở ra bằng
một nhạc khúc trong Tìm thời gian đã mất của
Marcel Proust để đi tới họa phẩm Poussin (1594-1655) với
hai bức tranh Những người chăn cừu ở Arcadia vẽ
lần đầu khoảng 1630, lần thứ nhì tám năm sau, dựa
trên một tác phẩm cùng đề tài của Guerchin vẽ khoảng
1622. Từ hai tác phẩm của một tác giả, vẽ theo một
chủ đề có sẵn, Lévi-Strauss muốn đưa ra những khác
biệt về cấu trúc để đi đến phương pháp sáng tác,
« cách suy tưởng » (tr.15) của nghệ sĩ qua nhiều
khâu khớp khác nhau, nhiều thời đại và chân trời khác
nhau, từ Đông Á sang Tây Âu (tr.39-40).
Với hội họa,
Lévi-Strauss lắm duyên nhiều nợ : bố là họa sĩ,
dượng là họa sĩ lừng danh, ông trưởng thành tại số
22 đường Poussin tại Paris… Với âm nhạc, tương quan
còn sâu sắc hơn : ông suốt đời viết lách trong âm
nhạc, suy nghĩ bằng âm nhạc, cho nên những trang ông viết
về âm nhạc chủ yếu về Rameau rất uyên bác, thậm chí
rất kỹ thuật. Trong một bài báo, có lần ông tuyên bố :
« Âm nhạc và huyền thoại là hai chị em, cùng do
ngôn ngữ sinh ra, rồi mỗi người đi một hướng – như
trong huyền thoại kẻ Nam người Bắc, không bao giờ tái
hợp »[4].
Ca ngợi
Rameau, Lévi-Strauss dựa trên kịch hát Castor và Pollux chính
xác hơn là dựa trên một giai điệu aria chuyển điệu
với ba nốt nhạc fa-la-mi để chứng tỏ rằng Rameau đã
cách tân âm nhạc thời đó, và sở dĩ làm được là nhờ
thính giả thế kỷ XVIII sành điệu hơn thính giả về
sau, và gần gũi người sáng tác hơn. Nhưng để tìm ra sự
chuyển giọng (modulation) từ fa thứ sang la bémol và mi
bémol trưởng trong nhạc bản 1754 (tr.51), Claude Lévi-Strauss
đã phải tìm tòi so sánh với nhiều nhạc thoại của
kịch bản và phải nghe nhiều lần nhiều nhạc thoại,
mới thấy sự xê xích so với thoại 1737. Nói vậy để
thấy công sức lao động của một nhà bác học lừng
danh về dân tộc học khi nói chuyện chơi về âm nhạc,
trong một trang phiếm luận, một tiểu phẩm được tác
giả gọi là « trái chứng » (caprice) hay là « hí
hoáy chắp vá » (Un grand collage ou un bricolage)4.
Lévi-Strauss
đã giới thiệu và đề cao Chabanon (1730-1792) một nhà âm
nhạc học ít người còn nhớ, không có tên trong các từ
điển thông dụng. Theo ông, Chabanon, trong âm nhạc, đã
tìm ra những nguyên lý mà sau này De Saussure sẽ sử dụng
trong ngôn ngữ học cấu trúc. « Những tư tưởng về
ngôn ngữ học hiện đại đã thành hình từ những suy tư
về âm nhạc chứ không phải về ngôn ngữ » (tr.95).
Lévi-Strauss tỏ ra rất tâm đắc với Chabanon, người từ
hai thế kỷ trước, đã viết : « Trong âm nhạc,
mỗi âm không mang ý nghĩa nào cả. Mỗi âm hầu như trống
rỗng, vừa vô nghĩa vừa vô tính » (tr.95)
nhưng kết hợp thành chuỗi thì tạo ra được nhạc ngữ
gây được lạc thú. Đây là một quan điểm Lévi-Strauss
đã tích lũy từ lâu, và trong một bài phỏng vấn năm
1977, ông đã từng so sánh : « Ngôn ngữ có ba
giai đoạn âm kết hợp thành từ, từ kết hợp thành
câu. Ở âm nhạc, âm phát triển thành câu, không qua từ,
không có từ vựng. Ở huyền thoại, không có âm, chỉ có
từ phát triển thành câu. So với ngôn ngữ thì âm nhạc
là huyền thoại thiếu một khâu »4. Lévi-Strauss có
nghệ thuật trình bày, đúc kết ngắn gọn ít người
sánh kịp.
Giới
văn học, dĩ nhiên đặc biệt lưu tâm đến lời
Lévi-Strauss giải thích bài thơ Nguyên âm (Voyelles) của
Rimbaud (1871).
A
đen, E trắng, I đỏ, U lục, O xanh…
A
thường thường gợi lên màu đỏ, sao nhà thơ lại hình
dung màu đen? Đi từ những khám phá của linh mục Castel
(1688-1757) muốn tạo ra “cây đàn thị giác”, tạo tương
quan giữa âm thanh và màu sắc, qua những khoa học vật
lý, thần kinh, ngôn ngữ, Lévi-Strauss đã giải thích màu
đen ở đây là “màu đỏ dưới trạng thái tiềm tàng”
(tr.131) và ông đã viện dẫn nhiều văn liệu để minh
chứng. Cũng cần nhắc lại rằng lý luận của ông tiếp
nối công trình, giải thích bài thơ Mèo (Les Chats) của
Baudelaire ông viết chung với Roman Jacobson (1962) có
Benveniste góp ý, được xem như khuôn mẫu của phương
pháp cấu trúc áp dụng vào việc phân tích văn chương,
vô hình trung tạo ra “trường phái” phê bình cấu trúc,
mà ông có đôi lần phủ nhận.
Tác
phẩm khép lại với ba chương Nhìn vào đồ vật, như cái
ngoái nhìn u hoài của nhà khảo cổ vào buổi xế chiều.
Đặc sắc là mấy trang viết về những vật dụng đan
lát như giỏ, thúng, rổ, rá, gùi… “trạng thái thăng
bằng mong manh giữa thiên nhiên và văn hóa”, một chủ
thể trung tâm trong tư tưởng Lévi-Strauss xưa nay. Khảo
sát những vật dụng đan lát ở các bộ lạc châu Mỹ
chưa có chữ viết, ông nhìn thấy khía cạnh thực dụng,
trang trí và tín ngưỡng. Theo huyền thoại địa phương,
đồ đan lát, một mặt phải không thấm nước (như gàu
bên ta), mặt khác sợi đan phải tạo ra được mô-típ
trang trí theo quy luật. Từ đó, các dân tộc đã phân
biệt Giỏ cứng và Giỏ mềm: có bộ lạc da đỏ tưởng
tượng Giỏ mềm như những quỷ cái bắt trộm và ăn
thịt trẻ con (tr.163) có khi “quyến rũ đàn ông rồi cắt
dương vật bằng âm hộ có răng” (tr.164). Lévi-Strauss đã
tỉa ra một nhận định đơn giản mà sâu sắc:
“Đó
đây khắp Tân Thế Giới, con người xem gùi – giỏ như
những đồ vật đa cảm. Chúng đến từ thiên nhiên, tiếp
thu được quy chế văn hóa qua công trình tiểu công nghệ
đơn giản rồi sẽ trở về với thiên nhiên” (tr.166).
Đã mong manh, chúng lại phù du: chỉ dùng được một lần,
“nhưng dù hỏng nát, chúng vẫn gìn giữ phẩm chất văn
hóa, mơ hồ tạo lòng kính trọng. Chúng ta là vật bất
ly thân của người phụ nữ” (tr.166-167).
Những
nhận định như thế vừa uyên bác vừa thi vị, nhân ái:
ấy là phong cách riêng của Lévi-Strauss. Độc giả bàng
quan, đọc lướt qua những dòng như thế, cũng thấy phẩm
chất của mình được nâng cao.
Lévi-Strauss
là một kẻ hoài nghi. Năm 1993, trả lời phỏng vấn , ông
có tâm sự : « Tôi thấm thía một luận lý tối
hậu : không có gì tồn tại. Dĩ nhiên, muốn sống,
phải làm như là sự vật có ý nghĩa ; đó là triết
lý tạm bợ cho cuộc đời, nhưng là triết lý cấp hai »4
Ông
tin ở giá trị con người, bẩm sinh và vĩnh cửu, dù có
nổi trôi theo lịch sử - và tác phẩm nghệ thuật là một
chứng tích. Kết luận Nhìn Nghe Đọc, vừa buồn bã, vừa
phấn khởi.
« Nhìn
dưới tỷ lệ hằng nghìn năm, những dục vọng con người
đồng hóa vào nhau. Thời gian không thêm được gì, không
bớt được gì cho yêu thương và thù hận, cho những dấn
thân đấu tranh và khát vọng : xưa và nay, cũng chỉ
vậy mà thôi. Tình cờ, xóa đi mười, hai mươi thế kỷ
lịch sử, kiến thức chúng ta về bản chất con người
cũng không thay đổi bao nhiêu. Mất mát không bù đắp lại
được là những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ
kia đã tạo nên. Vì con người chỉ khác nhau, thậm chí
chỉ tồn tại, qua tác phẩm của mình. Như tượng gỗ
sinh ra từ thân cây, chỉ có tác phẩm nghệ thuật mới
chứng tỏ được hiển nhiên, rằng qua thời gian giữa
người với người, có cái gì đó đã thực sự xảy
ra » (trang cuối).
*
Trào
lưu cấu trúc đã đi qua. Cùng với trận gió đã thổi
qua đường phố Paris mùa xuân 1968. Từ ấy đến nay, thời
gian đã mang đi bao nhiêu khuôn mặt lớn lao của nền văn
học Pháp : Sartre và Aron, Barthes và Foucault, Lacan và
Althusser…
Claude
Lévi-Strauss là người còn lại của thế hệ trí thức
ấy, được dư luận văn chương và báo chí ngưỡng mộ,
một cách đằm thắm và dường như nhất trí. Không nhất
thiết vì những đóng góp chuyên môn của ông : người
đọc Lévi-Strauss không nhiều ; tận tụy một đời,
Lévi-Strauss không những mang lại cho đời một cách nhìn
đời, ưu ái, tin cậy với một thoáng hoài nghi. Ông còn
được cảm tình nhờ phong cách hàng ngày : dung dị,
từ tốn, uyển chuyển, khúc triết, nhân ái và thân ái.
Với
ai được dịp gần ông, về mặt học thuật hay trong thực
tế, Lévi-Strauss là tấm gương sáng, về lao động trí
thức và về cách ứng phó với cuộc đời, trong một
giai đoạn lịch sử nhiễu nhương, một trần gian đa
đoan, và một nhân gian nhiễu sự.
Ngoài
đề :
Nhìn
người, không cần gì phải nghĩ đến ta, vì nghĩ
đến ta, có khi lại buồn vơ vẩn. Có lúc buồn vơ vẩn
như thế, tôi lại nhớ đến một người bạn vong niên,
nhà ngữ học Nguyễn tài Cẩn, cũng tuổi cao, cùng
phương trời xa…Vì vậy, bài này, tôi đề tặng anh Cẩn.
Cái
gì thân, thì nó cũng xa, có khi xót xa…
Đặng
Tiến
[1]
Claude Lévi-Strauss, Nhà xuất bản Plon,
Paris, 1993.
[2]
Nguyễn Văn Trung : Tìm hiểu cơ cấu
luận như một phương pháp, một triết thuyết và đặt
vấn đề tiếp thu. Tạp chí Bách Khoa thời đại, Sài
Gòn, số 293 ngày 15-3-1969 (và nhiều bài khác)
[3]
Hoàng Trinh : Bước đầu phê phán chủ
nghĩa cấu trúc trong phê bình văn học, Tạp chí Văn học,
Hà Nội, số 3 (135) tháng 5 và 6-1972.
Lê
Sơn : Văn học Liên Xô phê phán chủ nghĩa cấu trúc
trong phê bình văn học, Hà Nội, số 5 (137) tháng 9-10 năm
1972 và một số bài khác.
[4]
Claude Lévi-Strauss, tạp chí Magazine
Littéraire, Paris, số 311 tháng 6-1993, tr. 15, 24, 44 và 26
(Số đặc biệt về Lévi-Strauss và Nhìn Nghe Đọc, nhiều
bài hay)
______________
Claude
Lévi-Strauss mất khuya 31 tháng 10, sáng ngày 1 tháng 11,
2009, vài tuần trước sinh nhật 101 .