Ta
suốt đời ngư phủ Thả con thuyền trên mái tóc em
buồn lênh đênh.
Đinh
Hùng)
Đinh
Hùng, con người có may mắn được mọi người biết
đến từ khi tác phẩm hãy còn là bản thảo. Đinh
Hùng, con người kỳ lạ xuất hiện trên thi đàn Việt
Nam với vóc dáng quái dị của ngôn ngữ làm mê hoặc
người yêu thơ. Đinh Hùng, tượng hình cô độc trên
vòm trời thi ca Việt Nam vào năm 1940 đến 1945. Rồi từ
đây, Đinh Hùng mới tìm thấy bạn đường như Trần
Dần, Phùng Quán v.v… Chất thơ của Đinh Hùng không
giống và không mang một ý nghĩa thông thường của thi
ca với những hình ảnh quen thuộc của thi nhân đang
nổi tiếng hồi đó như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng
Chương, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính v.v…
Đinh
Hùng đi vào thi ca với những ước mơ kỳ lạ và suy
nghĩ về cõi vô thức giữa một thời đại lười suy
nghĩ nhất. Tiếng thơ của Đinh Hùng không thuộc về
thứ tình cảm chung chung, mà toát ra tự ngôn ngữ làn
ánh sáng diễm ảo, ở trong đó, từng nỗi băn khoăn,
từng niềm ước vọng chạy xôn xao như tiếng thời
gian đuổi nhau trên rừng cây trút lá. Đinh Hùng tự
mình tạo nên sắc thái đặc biệt, rất đặc biệt,
để ngụp lặn trong dòng mê cảm đó với khổ đau
cũng như kiêu hãnh. Từng hình ảnh mông lung, từng nỗi
buồn vò xé, từng uất hận nghẹn ngào, tất cả, biến
Đinh Hùng thành một nạn nhân, nạn nhân của mặc cảm.
Đinh Hùng đã bị mặc cảm giày vò tái tê từ thể
xác tới linh hồn. Mặc cảm đó là nỗi bơ vơ lạc
loài của kiếp người trói buộc vào áo cơm trách
nhiệm với ngần ấy vốn liếng riêng tư giữa cuộc
sống xô bồ giả tạo. Đinh Hùng làm thơ chẳng phải
để tỏ bày tâm sự mà để xác định thái độ, một
thái độ bi phẫn khi nhận thấy kích thước trần gian
không phải nơi mình mơ ước.
Cõi
nhân gian mà Đinh Hùng vọng tưởng đã khuất lìa. Nó
là tiếng nói hoang sơ của thời tiền sử. Nó là
thiêng liêng cao cả của một khung trời nguyên thuỷ.
Nó rộng rinh và chói lói hào quang ân sủng của thi
nhân đóng vai Thượng Đế. Nó là cái nước Vô Danh
với sự hiện diện của con người Mộng Ảo đi suốt
một hành lang cô liêu muôn đời không gặp thực tại.
Dòng
thơ của Đinh Hùng đi từ sự mê hoặc của tâm linh
vượt đến cõi ý thức của thân phận qua thi phẩm Mê
hồn ca rồi ném mình theo Đường vào tình sử.
Khúc hát nào lênh đênh trôi nổi trên đầu non, và
tâm hồn nào còn giữ nguyên màu trinh tuyết trong xác
thịt chứa đầy tội lỗi bi thương? Trong cái bóng tối
mênh mông dày đặc của tương lai, trong nỗi khao khát
hung cuồng đắm đuối cắn chặt ở môi ngậm cứng
trái sầu đau, Đinh Hùng nhắm mắt lại, mở hồn thoát
du vào ảo giác.
Đinh
Hùng vào đời như đi trong ác mộng. Những hình dáng
con người di động giữa kích thước thành phố đã
làm người thơ phẫn nộ:
“Miệng
quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi
ngơ ngác một lũ người vong bản Mất tinh
thần từ những thuở xa xôi Ta về đây lạ
hết các ngươi rồi Lạ tình cảm, lạ đời
chung cách sống”. (“Bài ca man rợ”, Mê hồn
ca)
Đi
từ cõi huyền ảo của tiềm thức, Đinh Hùng dùng tâm
tư mong biến cuộc đời thành trường mộng. Hình ảnh
một sinh vật đơn côi trong một thiên nhiên mới hình
thành, tia sáng thứ nhất của tâm linh chiếu rọi vào
sự vật như một chứng tích ghi nhận có đời sống
trần gian với những huyền bí còn nguyên màu huyễn
hoặc. Cái Thiên Nhiên mà người thơ vùng vẫy thả bỏ
mọi níu kéo làm Đinh Hùng mo ước trở về, sự trở
về trong những lối hoang sơ – ở đấy – bước chân
đi làm rung chuyển núi rừng, đồi suối. Đau đớn
thay, sự hiện diện này làm kinh ngạc cả nhan sắc,
làm cho tình thương cũng mất chìm trong cô độc.
Từ
cái nhìn cô độc, Đinh Hùng không tin cõi đời hiện
hữu là có thực và người con gái bằng xương bằng
thịt kia với những mùi hương quyến rũ, vụt chốc
trở thành xa lạ đến nghi hoặc khởi đi từ tri giác:
“Ôm
nhan sắc với hai bàn tay sắt Ta nhìn ai, ôi
khóe mắt ta nhìn Em có là ma, là quỷ, là
tiên? Em có mấy linh hồn bao nhiêu mộng?
Em còn trái tim nào đang xúc động? Em có
gì trong xác thịt như hoa? Lạc thiên nhiên đến
cả bọn đàn bà, Với những vẻ dung nhan kiều
diễm nhất”. (“Bài ca man rợ”, Mê hồn
ca)
Cái
vũ trụ mà Đinh Hùng vọng tưởng đó đã mất. Trong
bóng tối mênh mông dày đặc của hiện tại, người
thơ không trông mong tìm thấy những gì mình chờ đợi.
Đinh Hùng nhắm mắt lại để du hồn vào quá khứ, đi
về những hướng sao rơi và theo lối chân cầm thú.
Trong trời thơ Nguyên Thuỷ, Đinh Hùng bơ vơ, lạc loài
giữa thế giới tâm linh, với tất cả tiếc thương,
hờn giận. Đinh Hùng ẩn hồn trong toà lâu đài kiến
tạo bằng vân thạch, gọi hồn cổ sơ về ngồi chung
tâm sự. Người thơ muốn được “ăn hoa man dại”
rồi “ngủ như muông thú”. Nhưng cái sống
của “Gái-muôn-đời” có “bộ ngực tròn
nuôi cuộc sống đương xuân” không còn nữa. Nó
đã chết theo tiếng cười man rợ và mối “Tình-thái-cổ”
đã “thơ thẩn với trăng suông” tự ngày
trái đất có con hươu vàng diệp, cất cao đầu nhìn
hoàng hôn chìm vào đêm Thơ hiền hậu.
Do
đấy, cái khung trời mà Đinh Hùng dùng để viết thơ
của mình lên, là một khung trời chứa chấp toàn huyền
ảo giữa người và sự vật, giữa suy tưởng và thiên
nhiên, giữa mơ mộng và thực tế. Vì nhìn rõ vị trí
của mình trong cuộc sống có đấy, Đinh Hùng chẳng
cần tra vấn hiện tại, phó mặc thời gian vận chuyển,
hằng đêm, bên ánh toạ đăng, lắng nghe tiếng thơ nức
nở âm vang theo từng sợi khói mong manh:
“Đi
vào mộng những Sơn Thân yên ngủ Đôi hồn
người tưởng gặp bóng cô đơn Rượu Trường
Sinh: ta uống mắt em buồn Sầu mấy kiếp,
giấc ngủ say bừng đỏ? Quên đi em, hãy sống
đời cây cỏ Từng linh hồn dan díu với hương
hoa Ta nhớ xưa: đêm thu rụng tiếng gà
Trăng vĩnh viễn khóc thời gian tình tự…”
(“Trời ảo diệu”, Mê hồn ca)
Cái
thời gian tình tự đó, có lẽ, chỉ hiện diện trong
cơn say men khói vì “bầy xứ tình” đã khuất
chìm theo lối mộng mà người thơ đã từng đi về “ân
ái cũ”. Từng nhịp thở của đôi hồn người cô
đơn cứ khắc khoải, chập chờn trong trí não Đinh
Hùng làm cho chết ngợp cả một vùng ảo diệu.
Tiếng
thơ Đinh Hùng không phải tiếng thơ buông lơi, dễ dãi
hoặc chọn lời lựa chữ cho suôn sẻ thanh âm. Nói cho
đúng, nó là chuỗi kim cương sáng ngời, như những vì
sao lạ treo chênh vênh giữa vòm trời thi ca hiện đại.
Trong
giai đoạn nguyên thuỷ, Đinh Hùng mang tâm trạng kẻ
lạc loài giữa đồng loại không chấp nhận sự hiện
hữu này là thực thể, nên luôn luôn người thơ đi
tìm kiếm cho riêng mình một giá trị trong những giá
trị có đó. Đinh Hùng mang tâm tư của loài rong biển
trôi dạt theo lớp sóng ngầm giữa lòng đại dương
bát ngát, phó mặc cho dòng nước luân lưu đưa đẩy,
miễn tìm thấy hồn thời gian qua vọng tưởng.
Đi
từ thơ Nguyên Thuỷ qua Thần Tượng, Đinh Hùng đã xê
dịch từ rung cảm thuần tuý sang bình diện con người.
Nghĩa là người thơ đã nhìn rõ giá trị của đời
sống qua vóc dáng kỳ nữ – làm người thơ choáng
váng.
“Ta
thường có những buổi sầu ghê gớm Ở bên
Em – ôi biển sắc, rừng hương Em lộng lẫy
như một ngàn hoa sớm Em đến đây như đến
tự Thiên Đường Những buổi đó, ta nhìn em
kinh ngạc Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ Ta trông
đó thấy trời ta mơ ước Thấy cả bóng một
vầng đông thuở trước Cả con đường sao
mọc lúc ta đi Cả chiều sương mây phủ lối
ta về Khắp vụ trụ bỗng vô cùng thương
nhớ…” (“Kỳ nữ”, Mê hồn ca)
Có
lẽ, vóc dáng người kỳ nữ một sớm nào đó đã gõ
nhẹ vào cửa lòng thi nhân làm cho tỉnh giấc. Bóng
dáng động vân thạch bị lu mờ trước giai nhân và
thời man rợ bị đẩy lui vào tưởng niệm. Cặp mắt
lưu ly nào đó đã chiếu rọi vào tâm hồn thi nhân
bằng tia sáng quang tuyến, có khả năng xuyên qua sự
vật để nhận rõ bản thể đích thực của sự vật.
Hơn thế nữa, nó còn cho người thơ tìm về thân phận
với ước mơ còn đấy, với bóng vầng đông thuở
trước và con đường sao mọc khi xưa. Thơ Đinh Hùng
quả thực có ma lực, nó có đó mà vô cùng xa xôi, vô
cùng cao trọng. Thực và Mộng luôn luôn xáo trộn tạo
nên ấn tượng hoang vu, man rợ. Nó là tiếng kêu vò
xé. Nó là lời thảng thốt giữa cơn mê loạn. Nó là
nỗi đam mê bấn loạn. Nó là tiếng thở dài ai oán
trút tự cõi lòng cô độc. Nó là thịt da, xương máu
của thi nhân. Nó là sự giao hưởng nhiệm mầu giữa
thơ và tơ trời kết lại:
“Ôi
cám dỗ! Cả mình em băng tuyết Rợn xuân tình
lên bộ ngực thanh tân Ta gần em, mê từ ngón
bàn chân Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió
bão Khi sùng bái ta quỳ nâng nếp áo Nhưng
cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm Ta khẩn
cầu từng sớm lại từng đêm Chưa tội lỗi
đã thấy tràn hối hận…” (“Kỳ nữ”, Mê
hồn ca)
Cái
nhan sắc ấy làm Đinh Hùng hoảng hốt và mê đắm với
lòng “sùng bái” như một tín đồ sùng bái đức
“Giáo chủ”. Trong thơ Thần tượng, Đinh
Hùng đã đóng vai gã si tình để tỏ bày ngưỡng mộ.
Đối với thế gian, Đinh Hùng tỏ ra mình là thi nhân
kiêu sa, còn đối với tình yêu Đinh Hùng muốn làm Bạo
chúa.
“Ta
quên hết! Ta sẽ làm Bạo chúa Sống nghìn
năm, ngự trị một lòng em Cuộc ân tình ghê
rợn suốt muôn đêm Nào ai tiếc thương gì
thân mỹ nữ!...” ("Ác mộng", Mê hồn
ca)
Nhưng
tình yêu với đôi cánh bay lượn chập chờn trong cõi
nhớ mong và “người em gái” đã cùng thi nhân
gặp gỡ trong “mộng linh hồn” đã vội trở
thành một “yêu quái” biết cười vui và nói
giọng êm đềm. Đinh Hùng phó mặc cho tình cảm lướt
trôi cùng nhan sắc và nụ hôn đầu đã làm tê dại
cả tâm can, người thơ gục khóc tưởng tình xưa
ngồi cạnh. Rồi gác “ca-lâu” cũng rèm
buông, lửa đỏ và xiêm áo như hoa thấp thoáng đi về
giữa trời ảo ảnh.
Tình
yêu đối với Đinh Hùng thoáng đến, thoáng đi và khắc
sâu vào tâm khảm người thơ những lằn roi rướm máu.
Nhan sắc, nhan sắc thật mong manh và vô cùng diễm
tuyệt. Đinh Hùng chưa kịp hưởng say men tình ái mà
giông gió cuộc đời đã cuốn vội từng lớp tang
thương. Từ hy vọng mê cuồng bước sang trời Chiêu
Niệm. Người thơ đi tìm mình, đi tìm chân lý tuyệt
đối của tình yêu trong đất lạnh, trong vóc dáng
thương yêu gói tròn hoài vọng:
"Trời
cuối thu rồi. Em ở đâu? Nằm bên đất lạnh
chắc em sầu Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…" ("Gửi
người dưới mộ", Mê hồn ca)
Mùa
thu với từng cánh lá vàng đẹp như cánh thơ rơi tự
trời cao. Mùa thu làm se ngọn cỏ hanh vàng trên nấm
mộ. Mùa thu với đám mây lãng đãng trở về sau cuộc
phiêu hành khắp vòm vũ trụ. Mùa thu có hồn Vệ Nữ
lạc loài bên cửa huyệt, có cây Từ Bi chợt nở đóa
Ác hoa mà thiện căn không tìm đâu thấy. Những vần
thơ Chiêu Niệm chảy dài như dòng lệ không bao giờ
khô trên gương mặt thi nhân. Nó kéo lê thê như một
ám ảnh trong mỗi câu, mỗi chữ với nhịp điệu tiếc
nuối, than van với bóng tử thần chập chờn, đe doạ.
Nhưng
rồi, tháng năm với những u buồn còn đấy, Đinh Hùng
ném hồn mình vào cõi Mê Hồn, ở đó, cái đau và cái
nhớ chợt tan biến để thi nhân nhìn hé thiên cơ với
ánh lửa tinh cầu “dựng lên địa chấn, loạn màu
huyền không”. Đinh Hùng van xin Trăng đừng bỏ
kinh thành, đừng bỏ nhân gian để thi nhân nằm chờ
Siêu Thoát, mơ đến những thanh âm tạo dựng một kiến
trúc với chiêm bao thần bí:
“Lời
nói im ta nằm chờ siêu thoát Mơ hoàng thành
dựng lại bản thanh âm Mười ngón tay run
Mở cửa để cầm Ôi kiến trúc một
chiêm bao thần bí Ta lạc hồn giữa lâu đài
kỳ dị Suốt muôn đời không hiểu dãy hành
lang…” (Mê hồn ca)
Làm
sao mà Đinh Hùng có thể hiểu được vì thực tế và
mơ mộng không nằm chung ước lệ. Cái chất thơ cứ
vươn lên, vươn lên mãi trong khi thân phận nằm đây,
soi lệch ánh toạ đăng mỗi đêm với muôn vạn nhọc
nhằn:
“Máu
ta say không chảy thoát hình hài Hằng kinh động
chốn ăn nằm vĩnh viễn…” (Mê hồn ca)
Trước
viễn ảnh chói loà của thi ca, Đinh Hùng dùng nghệ
thuật để đồng hóa thể xác mình với thời gian vĩnh
cửu.
“Buổi
chiều đến, sầu lên Kim tự tháp Bóng ta đi
hoài cảm góc trời mây…”
Đó,
tất cả cái sáng láng, cái tinh hoa của Đinh Hùng trình
bày với người đọc những nỗi niềm mà người thơ
thổ lộ qua vần, qua điệu. Đinh Hùng muốn vượt
thoát hình hài, vượt thoát hoàn cảnh để tự do múa
lượn trong cõi trường mộng, vì cuộc đời có khác
gì mộng ảo?
Thơ
Đinh Hùng chính thực không hoàn toàn mang tính chất
quái dị, đúng ra, nó hình dung những siêu thoát, những
nhiệm mầu mà con người trong khi thất vọng thường
bám víu lấy để cầu mong an ủi. Người thơ đi tìm
bản thân trong chiều sâu tâm giác, trong ngôn ngữ xuất
thần với suy tư dấy loạn nội tâm. Do đấy, lời thơ
Đinh Hùng bao giờ cũng vượt qua được bức trường
thành nhân thế để chiếu từng tia sáng mong manh nhưng
sắc bén giữa những tâm hồn đồng điệu:
“Khi
mùa Xuân buông dài trước cửa Khi nắng chiêm
bao khẽ chớp hàng mi Khi những con thuyền chở
mộng ra đi Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải
điểu Kỷ niệm trở về nắm tay nhau hiền
dịu Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh Mặc
trái đất sẽ tan vào mộng ảo…” (“Đường
vào tình sử”)
Tình
yêu vẫn có uy lực dẫn dắt thi nhân đi vào muôn ngàn
lối ân tình. Dù trái đất có tan vào mộng ảo, dù
buổi chiều nào tận thế, dù mùa thu phôi pha, mùa đông
tàn phế, ta vẫn vì em mà sống đời ngư phủ, thả
con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh và sau cùng
để chiêm ngưỡng Em như chiêm ngưỡng một hành tinh
xa lạ.
Phải
nhận rằng, trong tập Đường vào tình sử (Nam
Chi Tùng Thư xuất bản, 1961), hơi thở của Đinh Hùng
đã phần nào là buông cung điệu và nỗi hoài mong của
thi nhân chỉ gói tròn vào tình cảm thông thường nơi
tình yêu đôi lứa, dù cho tình yêu có được thắp
sáng bởi trí tuệ người thơ. Những nét độc đáo
với dòng suy cảm quái đản được gọi về từ thiên
cổ không thấy xuất hiện. Lời và ý thơ trong Đường
vào tình sử thật dung dị và đẹp:
“Tôi
nghe em nói bằng im lặng Bằng dáng nghiêng
nghiêng động nét mày Bằng cả mênh mang chiều
lắng đọng Nụ cười em gửi gió thu bay
*** Tóc
quyện mây choàng vai mộng nhỏ Chìm chìm hơi
nắng bước thu đi Hôn như khói toả say tà
lụa Chợt tỉnh, còn như truyện ngủ mê…”
(Đường vào tình sử)
Toàn
tập hầu như thế cả, nguyên lý không gây được ấn
tượng sâu đậm nào ở trong tâm thức người đọc
như Mê hồn ca. Sở dĩ như vậy vì tập Đường
vào tỉnh sử là sự góp nhặt nhiều bài thơ ở
nhiều thời kỳ đã đăng tải rải rác trong các tạp
chí văn học. Nhưng dù sao, vẫn có trong đó cái “chất”
Đinh Hùng, cái “chất” đã đưa Đinh Hùng vào
ngôi vị xứng đáng của nền thi ca Việt Nam.
Đinh
Hùng chịu ảnh hưởng rất nhiều ở dòng thơ Tượng
Trưng Pháp với các thi hào Baudelaire và Mallarmé của
thế kỷ XIX. Nhất là Baudelaire nhà phù thuỷ ngôn ngữ
trong thi ca Pháp, người đã dịch truyện của văn hào
Mỹ Edgar Poe và có tập Fleurs du Mal (Ác hoa) đã
gây sôi nổi dư luận quần chúng Pháp vì những tư
tưởng táo bạo trong thơ.
***
Khởi
hành từ trạng thái đớn đau trong tình yêu với sự
dằn vặt đoạ đày ở mỗi không-gian-cuộc-sống, Đinh
Hùng nhìn chòng chọc vào nó như thách đố và coi nhẹ
hệ luỵ đến đỗi tưởng rằng chỉ có thế giới
linh hồn là thực, kỳ dư đều mộng ảo.
Có
những đêm đông Hà Nội, tôi đến thăm Hùng tại căn
nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa Ô Cầu Rền,
chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Bước chân dò
từng phiến gạch gồ ghề trơn trợt dưới lớp bùn
quánh đặc. Đi qua chiếc sân đất rộng đầy cây cảnh
hiện sừng sững với hình thể đục, nặng vì thiếu
ánh sáng. Hương nha phiến thoáng ngát. Tôi bước lên
thềm cao, căn nhà trống trải âm u dưới ngọn đèn
dầu cháy leo lét ở một góc, chỉ vừa đủ soi sáng
một khoảng nhỏ. Tiếng kêu vo vo của nhựa thuốc
thiêu trên ngọn lửa làm tôi thấy nôn nao. Đã nhiều
đêm tôi ngồi bên để nhìn các bạn vui, nhưng sao mỗi
lần gặp tôi, tôi vẫn mang cảm giác rờn rợn như gặp
yêu nữ.
Tôi
đứng yên ở dưới mái hiên nhìn vào. Trước mắt
tôi, dưới làn khói mỏng như tơ, Đinh Hùng nằm nhỏ
nhoi tựa đứa bé. Mái tóc nặng nề lẩn vào bóng tối.
Đôi mắt tinh anh, mở nửa vời dài dại. Tôi biết
Đinh Hùng đang nhập mộng. Chừng một phút sau, Đinh
Hùng nhỏm dậy, cầm ấm trà màu gạch cua rót vào
chiếc chén hạt mít trắng muốt đưa lên môi. Tôi nhẹ
nhàng đi về phía giường. Mùi ẩm mốc quyện vào dầu
lạc làm khó thở. Biết tính, Đinh Hùng không bảo tôi
nằm xuống như bao nhiêu bạn khác mà chỉ mời ngồi,
rồi lại thản nhiên nằm nghiêng đối diện với ngọn
đèn đỏ khè ngọn bấc.
Ở
khoảng thời gian đó, Đinh Hùng đang đi vào Chiêu Niệm
với sự nuối tiếc một hình ảnh hoang sơ man dại từ
khi trái đất mới hình thành mà tất cả vạn vật đều
trở thành thần tượng với vóc dáng thiên nhiên in hằn
trong tâm tưởng. Vật chất đôi khi làm cho thi sĩ đớn
đau nhớ tiếc khôn cùng. Tiếng khóc thê lương đòi về
đáy mộ. Tấm hình hài nào đó với đường nét thanh
tao, với nụ cười tắt nửa chừng, với đôi mắt lưu
ly soi thấu vô cùng vũ trụ, và âm dương đòi tái hợp
cuồng mê tâm tưởng! Ôi! Niềm giao ước hung tàn giữa
kẻ chết, người sống, giữa cõi nhân gian và đáy mộ
vực đen, giữa tiếc thương và hy vọng não nề. Đinh
Hùng đi tìm tử thần bên cửa huyệt, hay “Trong
giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ”. Đinh Hùng
phóng hồn mình vào cõi bi thương với lời van xin ứ
nghẹn. Hùng cầu nguyện với tấm lòng trinh bạch như
kẻ ngoan đạo nguyện cầu dưới chân đức Thích Ca
hay Đức Jésus xin dâng hiến máu, tim mình cho nguồn
sống thiêng liêng cao cả mà chẳng đòi nhận về ân
tưởng. Trong cõi Mê cung, Hùng lạc vào với từng
bước đắm say giữa “Nghìn yêu ma chung bước cõi
luân hồi” với khúc hát Vong tình bay chót
vót trên núi non mở hội oan hồn.
Trong
không gian ấm mốc, giữa vùng mê hoặc của hương nha
phiến, Đinh Hùng cất tiếng ngâm bài “Tìm bóng tử
thần”. Giọng của Đinh Hùng sang sảng. Ánh đèn le
lói với hoa bấc rung rinh. Tiếng thơ đã làm tôi rúng
động và tôi đâu ngờ, 10 năm sau, tiếng ngâm thơ đó
còn vang trên làn sóng điện, tạo niềm cảm thông sâu
xa giữa Thơ và cuộc sống qua hội Tao Đàn.
Tôi
thường đến thăm Đinh Hùng như thế, đôi khi với
nhiều bạn khác. Hùng đã tạo cho mình một vị trí,
vị trí đó, Hùng làm chủ suý với các người làm thơ
tiến bộ tụ họp, trong số ấy có Trần Dần, Phùng
Quán, Lê Văn Thanh, Bích Câu v.v…
Vì
dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa
hạt phức tạp đầy dẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt
cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc mà
còn ở men rượu và sênh phách. Đinh Hùng huỷ hoại
hoa niên trong những đêm dài Dạ Lạc qua các cửa Ô,
cũng như đắm chìm vào đáy ly nồng đắng. Ở tuổi
hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng
chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng
Đinh Hùng có thể uống hai lít đế, không cần đồ
nhắm. Vì thế, Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà
hằng nửa ngày trời.
Trong
tháng ngày kháng chiến lênh đênh, chúng tôi gặp nhau ở
chợ Đại thuộc Khu 3. Tôi và Hùng ngồi trong một quán
nước. Hôm đó, không nhằm phiên chợ nên thật vắng
vẻ. Những con đường bùn lầy, hố “tăng xê” ngập
nước ở hai lối đi. Những mái lá cũ kỹ nằm trên
hàng cột tre già láng bóng. Hùng cao giọng đọc thơ,
những vần thơ mà kháng chiến không chấp nhận. Tôi
gọi hai cút rượu uống cho ấm lòng. Chúng tôi
vừa uống vừa thảo luận về thơ và nhắc đến Hà
Nội mến thương cách trở. Chúng tôi gọi tên từng
người bạn với u hoài kỷ niệm. Hùng kêu rượu nữa,
rồi cho tay vào túi áo lấy một gói nhỏ. Hùng nhẹ
nhàng mở ra, dốc dúm bột màu nâu sẫm vào lòng chén.
Tôi nhìn Hùng mỉm cười. Hùng lạnh lùng rót rượu,
lấy ngón tay trỏ khuấy nhẹ rồi ngửa mặt nuốt ực
một hơi.
Sau
chén rượu bất ngờ đó, tôi và Hùng chia tay. Nhưng
bài thơ “Sông núi giao thần” của Hùng vẫn còn âm
vang trong tôi như lời cầu nguyện:
“Trăng
ơi đừng bỏ Kinh thành Hồn Cố đô vẫn
thanh bình như xưa Nhỡn tiên chợt sáng Thiên
cơ Biết chăng ảo phố, mê đồ là đâu?..."
Sau
thời gian lang thang khắp núi rừng Việt Bắc, bệnh sốt
rét đã làm tôi phải trở về Khu 3 để tiếp nối
những ngày vô định. Những con người văn nghệ thuở
kháng chiến như những cánh chim trời bay lạc loài khắp
nẻo. Gặp nhau đấy rồi xa nhau ngay, nên mỗi lần gặp,
mỗi lần thương nhớ chẳng rời.
Nhân
có cuộc họp văn nghệ, tôi và Hùng gặp lại nhau và
cùng đi Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình. Lần này đi
thêm hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người hoạ có dáng điệu
khù khờ với bộ râu đỏ hoe mọc lởm chởm trên màu
da trắng muốt. Tôi nhớ buổi chiều hôm đó trời mưa
bụi, chúng tôi lại ngồi uống rượu chờ tối để
xuống đò. Mặt Hùng xanh mướt, một phần tại lạnh,
một phần vì cơ cực. Chiếc trấn thủ màu cỏ già
lem luốc, rộng thênh thang không làm ấm mảnh thân gầy
phủ lên bộ quần áo nâu dính bùn bạc phếch. Ba chúng
tôi khề khà cho đến lúc không gian mờ đục khuất
chìm vào bóng đêm. Từng đốm lửa vàng hoe cháy hiu
hắt đó đây. Hùng nhìn ánh đèn với nét mặt đăm
chiêu.
Qua
một đêm trắng nằm đò, chúng tôi lên bến Gián
Khuất, đi Đống Năm, lướt qua bao nhiêu làng mạc, bao
nhiêu cánh đồng và từng con đê dài thăm thẳm. Trong
suốt cuộc hành trình Hùng nói rất nhiều về đủ mọi
loại chuyện vui buồn. Hùng đọc thơ Baudelaire và rất
thích cuộc sống của thi nhân này. Bài thơ mừng cô vợ
da đen chết, Baudelaire lại được tự do, có thể lang
thang uống rượu khắp nơi và ngủ ngon lành ở lề
đường như con chó, làm Hùng cười sảng khoái. Sau ba
ngày đêm chung vui, chúng tôi lại nắm tay nhau giã từ.
Hùng ở lại Đống Năm với Vũ Hoàng Chương để dạy
học.
Vào năm 1949, áp lực chiến tranh mỗi ngày mỗi
đè nặng vào vùng đất Liên khu 3. Những con chim trời
bay tản mác khắp ngả để tìm nơi an lành trú ẩn.
Thời gian trôi đi theo tiếng bom đạn cày nát quê hương
đau khổ!
Đến
cuối năm 50, Hùng trở về Hà Nội. Cuộc sống của
Hùng có thay đổi, Hùng đã lập gia đình như lập
trường thi ca vẫn y nguyên. Gánh nặng áo cơm và nguồn
đam mê đến chết-không-rời quấn chặt lấy thân phận
nhỏ nhoi đó mà hành hạ. Thiếu thốn thường xuyên
nhưng Hùng vẫn giữ nguyên phong độ của kẻ sĩ. Hùng
được một số bạn thương giúp đỡ nhưng sự giúp
đỡ này chỉ như những gáo nước nhỏ tưới vào một
vùng hạn hán trường kỳ. Cứ như thế, như thế, Hùng
sống cho đến ngày di cư vào Nam với thi phẩm Mê
hồn ca làm vốn liếng và hành lý.
Kể
từ đó cuộc đời đối với Hùng đã phần nào đỡ
khe khắt. Hùng cố gắng bằng đủ mọi cách như viết
truyện dã sử dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang,
làm thơ trào phúng ký Thần Đăng, phụ trách mục Tao
Đàn v.v… Cuối cùng Hùng đã ngã xuống với tiếc
thương đòi đoạn và vĩnh viễn đi vào Cơn-mê-trường-dạ.
Đường vào tình sử còn dài lắm, Hùng đành
bỏ dở, và có mái tóc nào buồn lênh đênh cho thuyền
hồn thi nhân thả mộng?...
“Khi
anh chết các Em về đây nhé Vị chút tình lưu
luyến với nhau xưa Anh muốn thấy các em cùng
nhỏ lệ Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ…”
("Cung đàn tưởng niệm", Đường vào
tình sử)
Nói
đến Đinh Hùng là nói đến cô đơn, là nói đến khát
vọng. Nỗi cô đơn và niềm khát vọng đó in hằn
trong kích thước thi ca mà Hùng đã dấn thân như người
lính cảm tử. Hùng đã sống trọn vẹn và chung thuỷ
đến lúc lìa đời với hướng đi tự nguyện. Bao
nhiêu đau khổ, bao nhiêu mật đắng do cuộc đời trao
tặng, Hùng đem thiêu trên đầu ngọn lửa và nuốt
trọn vào tim phổi mình với nguồn vui ảo giác. Hùng
rất mực đa tình nhưng mối tình đầu oan trái với
người em họ đã thui chột nụ hoa tình ái và biến
Hùng thành cuồng bạo trong mỗi suy nghĩ về tình yêu.
Nói
đến Đinh Hùng, không phải nói đến cái gì mới lạ,
vì thi ca Việt Nam bây giờ đã vượt thoát khỏi trạng
thái ước lệ, nó đi vào cõi mông mênh của Vô Thức.
Từ Vô Thức nó trình bày Ý Thức Mới không hẳn là
cố định nhưng, nó là thời đại chúng ta đang góp
mặt. Nói về Đinh Hùng là nhắc đến một không gian
cũ, là nói tới khoảng cách – ở đó – từ hiện
tại trở lui về quá khứ, chúng ta vẫn nhìn rõ ánh
sáng của ngọn Thần Đăng chói loà hào quang kỳ ảo.
Tạ
Tỵ
|