văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, December 27, 2012

hoànglonghải * Bàn về chữ dâm trong truyện Kiều và luân lý của người Việt.


Phê bình tổng quát nhứt có lẽ là Linh Mục Sảng Đình Nguyễn văn Thích. Ông dẫn chứng ngay trong câu mở đầu của truyện Kiều, và cho rằng đó là truyện phong tình (“Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”) thì không nên cho học trò học (1).
Đi sâu hơn thì có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Kẻ thì cho truyện Kiều là dâm thư, kẻ thì cho truyện Kiều là hay, có đủ triết lý Nho, Phật, Lão thâm sâu mà Kiều là người hiếu nghĩa đủ đường, (“Người sao hiếu nghĩa đủ đường” - Kiều), vậy phải nên dạy cho học trò học. Về phần văn chương bình dân, ta thấy có câu:

Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. (2)

Điều rõ ràng nhứt thì Kiều là người đa tình, ít ai nói nàng Kiều là người đa dâm. Trong Bài Tựa Truyện Kiều Chu Mạnh Trinh (3) viết: “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu, mượn chùm phương thảo, hú vía thuyền quyên” (4). Nòi tình Chu Mạnh Trinh nói ở đây là nòi đa tình vậy.
Nói Kiều đa dâm thì nhiều người không đồng ý, nhưng nói Kiều đa tình thì khó ai phủ nhận. Bàn về vấn đề nầy, trong Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim viết: “Nàng có nặng về đường tình ái thật, nhưng cái tình ấy mà trong sạch thì có điều gì là dở. Những việc Kiều làm khi yêu Kim Trọng như hẹn hò vườn Thúy, cắt tóc thề bồi hay “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, đối với xã hội cũ, việc làm ấy của Kiều thì quá quắt lắm nhưng so với ngày nay thì cũng thường tình”. Phê bình việc nầy, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu cho rằng:
“Theo lễ tục xưa, con gái phải đợi mệnh của cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, để quyền cho cha mẹ kén chọn gả bán. Thế mà Thúy Kiều tự ý sang nhà Kim Trọng trước khi nói với cha mẹ, đó là một điều các cụ cho là trái với lễ tục cổ....
“...... việc làm của Thúy Kiều kể cũng không đáng trách, vì tuy nàng có thề thốt với Kim Trọng nhưng vẫn giữ được sự trong sạch và vẫn đinh ninh dành quyền quyết định cho cha mẹ:

Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”
(Câu 332-334)

Dù đa tình nhưng trong khi yêu đương thì Kiều rất đứng đắn. Chẳng hạn như khi Kim Trọng tỏ vẻ xàm xỡ thì Kiều sửa lưng ngay:

Ra tuồng trên Bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi.

Việc trai gái hẹn hò nhau bên bờ sông Bộc là việc dâm bôn, Kiều cũng biết ngăn ngừa giảng giải cho Kim Trọng rõ, Kiều biết gìn giữ cho bản thân thì ai gọi Kiều là người hư.
Ngày xưa cũng như ngày nay, người xưa thì nói chung chung, người nay thì phân tích theo tâm lý học. Xưa, Nguyễn Công Trứ thì cho rằng:
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai.

Ngày nay, có người - có cả ông Nguyễn Bách Khoa trong đó na chăng? - quả quyết rằng Kiều mượn cớ bán mình chuộc cha để theo Mã Giám Sinh cho thỏa cái tính dâm của nàng. Thật sự đó là một nhận xét không những phiến diện mà còn hồ đồ. Ngoại trừ việc yêu Kim Trọng mà qua mặt cha mẹ thề non hẹn biển, từ đó về sau, chẳng có thể trách cứ việc làm nào của Kiều được. Ngay như việc khuyên Từ Hải ra hàng, Kiều tự chê mình “Giết chồng mà lại lấy chồng” (Kiều) nhưng thật ra vì lòng thương cha nhớ mẹ nên Kiều xui Từ Hải ra hàng, theo ông Doãn Quốc Sĩ (5), người ta nên thông cảm cho Kiều làm việc nông nổi ấy. Dương Quảng Hàm cho đó là hành động vì lòng nhân.
Trách cứ Kiều, có lẽ bài thơ sau đây phê phán một đau đớn nhứt:

“Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran
Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn
Đôi làn nước mắt đôi làn sóng
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan
Tổng đốc ví thương người bạc mệnh
Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan
Trơ trơ nắm đất bờ sông nọ
Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn.

Hồ Tôn Hiến mở tiệc khao quân, bắt Kiều đàn cho Hồ nghe. Kiều đau đớn lắm. Dù tiếng đàn của Kiều như tiếng khóc:

Ve ngâm vượn hót nào tày
Khiến cho Hồ cũng nhăn mày rơi châu

thì cũng khó biện minh cho Kiều hành động ôm cầm nầy. Việc chê trách ấy không phải là cổ hủ đâu. Ngày nay, dù có văn minh đến thế nào đi nữa, một người đàn bà có chồng, nhân khi chồng đi vắng (trường hợp Kiều thì chồng mới chết, cỏ chưa xanh mồ) mà ôm đàn “liên hoan” với một người đàn ông khác, kẻ thù của chồng, cũng như người kỹ nữ già đàn ca với Bạch Cư Dị, (6) một đêm thu trên bến Tầm Dương cũng khó có ai chấp thuận được. Người xưa thề bồi “Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” thì ngày nay, há không giữ lòng chung thủy, giữ cho nhau chút nghĩa tình chồng vợ hay sao?
Tuy nhiên, việc làm nầy của Kiều không phải là dâm. Dâm là chuyện ăn nằm trai gái. Suốt trong cả truyện Kiều chẳng tìm ra được câu nào nói rằng Kiều ưa chuyện ăn nằm với đàn ông cả. Điều nầy rất dễ hiểu vì khi viết truyện Kiều, chủ ý của Nguyễn Du không phải là viết chuyện khiêu dâm để câu độc giả, hoặc viết có tính dâm theo thời thượng như các nhà văn ngày nay. Chủ yếu Nguyễn Du khi viết truyện Kiều là muốn dựa vào câu chuyện của Thanh Tâm Tài Nhân để gởi gắm tâm sự đớn đau của mình. Bàn về điểm nầy, cũng trong cuốn sách nói trên, Trần Trọng Kim viết: “Bạch diện với hồng nhan đã chịu chung một số kiếp, thì quyển truyện Kiều có phải là chỉ để than người bạc mệnh mà thôi, hay là để cho tác giả nhân đó mà tự than mình nữa? Tưởng tiên sinh cũng nghĩ:

“Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Cho nên than người bạc mệnh, tức là than thân mình. Vậy lấy Kiều mà xét tâm sự Tố như tiên sinh thì tưởng không lầm được.”

Không lý Nguyễn Du là người có tư tưởng tam giáo sâu xa, một người có lòng nhân hậu, biết đau xót trước cảnh đời đổi thay ly loạn, vật đổi sao dời mà lại đi ca ngợi một kẻ tà dâm. Nàng Kiều dù là người phải chịu cảnh “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” thì cũng chỉ vì thân phận của người đàn bà trong cảnh giặc giã chứ đâu phải nàng Kiều muốn như vậy. Kiều không phải là người tà dâm và chắc chắn Nguyền Du không muốn vẽ nên một nàng Kiều tà dâm để gởi tâm sự vào mình vào nhân vật ấy. Nguyễn Công Trứ dù có viết “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm” thì như đã nói, chỉ là một sự phán xét hồ đồ.

Vã lại, dâm hay không dâm, điều ấy là sai chăng? Người xưa cũng cho rằng dâm là không có gì sai quấy:

Ai dám nói chữ dâm là chữ bậy
Nếu không dâm sao nảy ra hiền.

Dâm là việc tạo hóa thường tình. Loài vật đã vậy mà loài người cũng vậy. Dâm là ưa sự khoái lạc giữa hai người khác phái mà mục đích của tạo hóa là để lưu truyền giống nòi. Nếu không có cái dâm khoái lạc đó thì thiên nhiên vũ trụ ngày nay chắc đã tiêu ma tất cả rồi.
Ngay như nàng Kiều, lấy chồng, ăn ngủ với chồng thì đó là lẽ tự nhiên của tạo hóa. Dù trong lòng có đau đớn như thế nào đi nữa, Kiều tin là Mã Giám Sinh mua Kiều về làm vợ thì Kiều chịu thất thân với Mã là làm cái công việc, cái bổn phận của người vợ đối với chồng, đâu có gì là sai. Vậy mà Nguyễn Bách Khoa, rồi sau nầy có nhiều nhà văn Cộng Sản hùa theo, cũng như Hoàng Phủ Ngọc Tường khi dạy ở Quốc Học và vài giáo sư Việt Văn ở Huế trước 1975 muốn chứng tỏ ta đây là người tiến bộ, đứng trên quan điểm duy vật biện chứng cho rằng Kiều vì là con nhà giàu có, ăn không ngồi rồi lại đọc sách truyện nhảm nhí sinh ra có tánh dâm mà chịu (hay ưa) bán mình cho Mã Giám Sinh thì đó là một nhận xét hết sức sai lạc, dù có ngụy trang bằng thuyết tính dục của Freud hay bất cứ thuyết nào. Nhận xét của những người nầy đúng ra chỉ là nhận xét của Tú Bà “Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?” Tú Bà sai Mã Giám Sinh đi mua gái về để giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi. Chính Mã là tay gạt tình, cũng như Sở Khanh sau nầy vậy. Kẻ trước người sau cùng một lũ lưu manh như nhau. Còn khi Kiều lấy Thúc Sinh, làm vợ Từ Hải thì Kiều nhận đó là vai trò người vợ. Việc ăn chơi trong thanh lâu là việc Kiều không những bị ép mà còn bị Sở Khanh lường gạt, bị Tú Bà đánh đập buộc Kiều phải làm. Kiều đã từng tự vẫn vì điều nhục nhã nầy. Thậm chí, sau 15 năm lưu lạc, Kiều sum họp với gia đình, mặc dù mối tình của chàng Kim đối với Kiều vẫn còn mặn nồng, mặc dù Thúy Vân muốn nhượng chồng lại cho chị, thì Kiều vẫn gìn giữ Chữ trinh còn một chút nầy.
Nói chung, Kiều là “..... thục nữ chí cao”
“Phải người tối mận sớm đào như ai”

Dương Quảng Hàm cũng không nhứt trí cho rằng Kiều là người tà dâm. Ông viết: “Xem thế thì biết Thúy Kiều là một người giàu về tình ái nhưng không phải là con người đam mê tình dục, thực đúng như lời vãi Giác Duyên đã phán đoán trong câu 2682:

Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm

Phương chi khi Thúy Kiều, sau mười lăm năm lưu lạc, lại gặp tình nhân, nàng tự cho thân mình ô uế, không còn xứng đáng với người yêu xưa, nên dù Kim Trọng nài ép cũng nhứt định xin đổi tình vợ chồng thành tình bè bạn để giữ lấy tấm lòng trong sạch, lấy chữ trinh trong tâm hồn thay cho chữ trinh về thân thể đã mất. Xem thế thì biết Thúy Kiều là một người đàn bà có tính tình cao thượng”. (VNVHSY trang 383)

Bàn về chữ dâm trong Kiều, Trần Trọng Kim viết: “Cứ như thiển kiến của chúng tôi, thì nàng Kiều không phải là người tà dâm; xem như khi tái hồi với Kim Trọng mà khăng khăng giữ một niềm không chịu đem cánh hoa tàn mà đãi người tình chung thì thật là nàng biết trọng sự trinh tiết lắm.”

Then chốt vấn đề là Chính Dâm hay Tà Dâm.
Như tôi đưa ra những ví dụ như trên, việc vợ chồng ăn nằm với nhau là chuyện thường tình, là một phần tự nhiên trong cuộc sống lứa đôi. Việc đó, trước hết là để sinh con đẻ cái, như hầu hết mọi người khi lấy nhau ai cũng muốn có con, - ngoại trừ những trường hợp đặc biệt - thì hành động ân ái với nhau đó gọi là chính dâm. Việc nầy phù hợp với lẽ tạo hóa, đạo vợ chồng, không có gì sai trái cả. Trong luật pháp cũng vậy, nếu người chồng muốn ân ái mà người vợ không muốn thì kết tội chồng về việc khác chứ không thể kết tội hiếp dâm được.
Ngoại trừ trường hợp nầy, tất cả những trường hợp khác thì dù ít dù nhiều cũng bị đánh giá là bậy, là tà dâm. Về khoản nầy, người ta dùng nhiều chữ lắm: dâm tặc, dâm bôn, dâm đảng, dâm dục, tà dâm, hiếp dâm, bạo dâm, khẩu dâm, ý dâm, v.v... tất cả đều là sai cả, dù luật pháp không bỏ tù thì cũng bị người đời chê cười, dư luận lên án.

Truyện Kiều trong chương trình giáo dục
Trước 1945, từ khi có chương trình trung học Pháp Việt, (dành cho Trung kỳ và Bắc kỳ - Nam Kỳ thuộc địa học chương trình Pháp) thì truyện Kiều được đưa vào giáo khoa ở năm thứ nhì ban Trung học Việt Nam (theo Dương Quảng Hàm - Sách nói trên). Việc dạy truyện Kiều ở cấp trung học kéo dài cho tới khi miền Nam sụp đổ (1975).
Khi dạy truyện Kiều, có ba vấn đề then chốt thầy giáo cần giảng giải cho học sinh:
Một là Triết lý (Tam giáo),
Hai là Luân lý (Trung hiếu tiết nghĩa, v.v... ) và
Ba là Văn chương truyện Kiều.
Từ khi có chủ nghĩa Cọng Sản truyền bá vào nước ta thì bỗng có nhiều tác giả đứng trên lập trường Duy Vật Biện Chứng mà phê phán. Đứng đầu là Trương Tửu (Đệ Tứ Cọng Sản, sau theo Việt Minh). Ông nầy lấy bút hiệu khác nữa là Nguyễn Bách Khoa (NBK) viết hai cuốn sách: Thứ nhất là cuốn “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, cuốn thứ hai là “Văn Chương Truyện Kiều”. Luận điệu duy vật của NBK bị giáo sư Tử Vi Lang đã kích phê bình trên Văn Nghệ Tiền Phong (những số đầu tiên - 1956, rất tiếc là không thấy in lại thành sách.
Sau khi Cọng Sản cai trị miền Bắc (1954) và toàn cõi Việt Nam (1975), truyện Kiều không còn được dạy ở trung học mà đưa lên đại học. Ngoài lập trường duy vật biện chứng, họ còn đứng trên lập trường đấu tranh giai cấp để phê phán truyện Kiều và Nguyễn Du. Gia đình Viên ngoại “gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”, sống bằng sự bóc lột giai cấp lao động, tức không phải là bần nông hay cố nông, không phải là giai cấp cơ bản của chủ nghĩa Cọng Sản. Dĩ nhiên, Cọng Sản không đánh giá gia đình Viên ngoại là tốt. Con trai như Vương Quan có học hành, thi đậu và ra làm quan, tức là thuộc từng lớp phong kiến quan liêu. Con gái như hai chị em Kiều thì “êm đềm trướng rũ màn che”, tức là không lao động, lại còn biết đánh đàn, do ảnh hưởng sách vở phong kiến ủy mị, bóc lột hưởng thụ nên mới soạn ra “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, có nghĩa là Kiều cũng thuộc loại nghệ sĩ nhạc vàng là một thứ âm nhạc Cộng Sản cấm ngặt. Do đó, về mặt tâm lý xã hội, truyện Kiều chỉ là một thứ để nghiên cứu, phê phán con người, xã hội, chẳng có giá trị gì để học tập cả.

Vậy thì về mặt luân lý của Kiều có cái gì hay?
Người ta khen Kiều là khen ở luân lý mà luân lý đó là gì?
Nếu cho rằng Kiều là kẻ tà dâm thì nàng Kiều không có luân lý. Về vấn đề nầy, Trần Trọng Kim nhận định: “Có nhiều người chê là truyện (Kiều) tà dâm, nhảm nhí. Những người ấy, một là hạng tính nông nổi, không chịu mất công mà suy nghĩ cho ra lẽ phải trái, một hạng là kẻ giả đạo đức, chỉ ưa luân lý ở cửa miệng. Hạng nầy có lẽ nhiều lắm mà lại hay chê bai hơn cả...”
... ... nàng Kiều trước sau biết nặng về lời nước non, biết lấy hiếu làm trinh, biết nhân, biết nghĩa thì tại sao lại cho là không có luân lý được?”
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du mượn lời Tam Hợp Đạo Cô để khen Kiều: “Người sao hiếu nghĩa đủ đường”. Dương Quảng Hàm trong sách đã dẫn ở trên nhận định rằng “... nàng bán mình chuộc tội cho cha, hy sinh chữ tình để theo trọn chữ hiếu...” Thúy Kiều treo cho ta cái gương một người biết trọng phẩm giá (“Đến điều sống nhục sao bằng thác trong”), biết giữ thủy chung (trung)... ... ... Việc Kiều khuyên Từ Hải ra hàng để cứu nhân dân, là một việc nhân”.
Nhìn chung, theo các nhận định trên thì Kiều là người có Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa.

Cọng Sản phủ nhận tất cả những điểm nầy!
Chỉ ngay trên quan điểm duy vật biện chứng thôi, Cọng Sản cho rằng Kiều là người “Ăn xổi ở thì” (“Phải điều ăn xổi ở thì” - Kiều), ăn không ngồi rồi, sống sung sướng, hưởng thụ trên sự bóc lột người khác thì sinh ra cái tính dâm. Do đó, việc Kiều bán mình chuộc cha, tuyệt tình với Kim Trọng bắt nguồn sâu xa từ trong cái tính dâm đó. Hiếu hay trung chỉ là cái cớ để Kiều che đậy tính dâm của nàng, cội rễ là từ tính dâm đó cả. Đó là kết quả tất nhiên của những người “ngồi mát ăn bát vàng”, những người thuộc gia cấp thống trị, sống bằng sự “bóc lột nhân dân lao động”.

Hơn thế nữa, từ khi Trung Cọng cai trị lục địa Trung Hoa, viện trợ lớn lao cho Cọng Sản Bắc Việt như súng đạn, lương thực, kinh tế và tài chánh, đưa cố vấn qua nắm giữ những chức vụ then chốt, đưa binh lính qua Việt Nam chiến đấu, theo Nayan Chana trong Brother Enemy có khi tổng số cố vấn và binh lính Tàu đỏ, kể cả nhân công xây dựng đường sá, lên tới hơn nửa triệu thì Hồ Chí Minh phải thực hiện ý muốn của Mao Tạch Đông. Theo Vũ Thư Hiên trong sách “Đêm Giữa Ban Ngày” của ông, mặc dù Hồ Chí Minh chưa muốn nhưng do yêu cầu của Mao, Hồ đã phải phát động “Cải Cách Ruộng Đất” từ 1953. Sau đó, cũng do tư tưởng Mao chỉ đạo, Hồ Chí Minh phát động “Đấu Tranh Giai Cấp” trong mọi ngành nghề ở miền Bắc, khiến hàng vạn người bị giết và tù đày. Đến khi Mao phát động cái gọi là Cách Mạng Văn Hóa, thì miền Bắc Cộng Sản cũng không thể đi chệch đường.

Việt Nam, ngay từ thời Triệu Đà đã là một phần lãnh thổ của Trung Hoa. Sau đó, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, học thuật, tư tưởng, tôn giáo và nông nghiệp cũng theo đường lối của Tàu cả. Thậm chí sau khi giành được độc lập rồi (939), thì tổ chức cai trị, quan chế, thi cử, giáo dục cũng theo đường lối của Tàu. Do đó, luân lý của Kiều cũng là luân lý của xã hội ta, lấy Nho Giáo của Khổng Tử làm căn bản. Tam cương, ngũ thường, hiếu trung nhân nghĩa cũng từ đạo Nho mà ra. Điều đó không có gì lạ và cũng không có gì đáng trách bởi vì đạo Nho chính là tinh hoa của văn hóa Trung Hoa. Những tư tưởng của Khổng Tử cũng như những trước tác của ông như Tứ thư, Ngũ Kinh, v.v... hay đẹp đến nỗi ngày nay, người Tây phương đang nghiên cứu và áp dụng trong phương pháp giáo dục mới của họ. Người Trung Hoa và Việt Nam cũng như dân tộc ở các nước chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa kính cẩn gọi Khổng Tử là bậc Vạn thế Sư biểu (Vị thầy của mười ngàn đời). Với người Tây phương, ... theo sử gia lừng danh của Hoa Kỳ Will Durant (1885-1981) trong cuốn The Age of Voltaire của ông thì triết gia Francois Marie Arouet Voltaire (1694-1778) của nước Pháp đã vô cùng ngưỡng mộ hiền triết họ Khổng và đã có công truyền bá nền văn minh Khổng Học vào giới trí thức Pháp quốc thời đó. (Khổng Phu Tử dưới nhãn quan Âu Mỹ - giáo sư Đàm Trung Pháp)... Leibniz cũng nhận xét thêm rằng về khoa học thì Trung Hoa thua Âu Châu, nhưng Trung Hoa đã vượt hẵn mọi nơi về phương diện an dân do vườn hoa Khổng Giáo đem lại. (sách trên đd)... Trong lịch sử cận đại Hoa Kỳ, có lẽ cố Ngoại trưởng John Foster Dulles (1888-1859) là người Mỹ đầu tiên chính thức tỏ lòng ái mộ Khổng Phu Tử. Ông Dulles giữa thập niên 1950 đã khẳng định rằng một trong những mục tiêu ngoại giao của Hoa Kỳ là phải bảo toàn nền văn hóa Trung Hoa mà tinh túy là Khổng Giáo. Lúc đó, ông cũng nói lên manh tâm của chế độ Cọng Sản Mao Trạch Đông muốn hủy diệt Khổng Giáo và thay vào đó bằng giáo điều Mác-Lê (Sđd).
Cách đây 2 ngàn 5 trăm năm, Khổng Tử đã dạy một câu hết sức thâm thúy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” mà ngày nay, các nhà hoạt động trong ngành giáo dục Mỹ vừa khâm phục, vừa kinh ngạc. Mãi đến thế kỷ thứ 18, nước Pháp mới bừng lên sáng chói (French Enlightment) với những tư tưởng tiến bộ như bình đẳng, bác ái, tự do thì ngay hồi sinh thời, Khổng Tử dạy rằng hễ điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình đừng làm cho người khác (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân).
Nhân ái là từ trong tư tưởng nầy đấy: Ví dụ nếu ta không muốn ai gây đau khổ cho ta thì có thể nào ta lại gây đau khổ cho người khác?
Bình đẵng cũng từ trong câu ấy: Ta không gây phiền lụy đau khổ cho người khác tức là tôn trọng người khác. Đó không phải là coi họ cũng như mình hay sao?
Tự do cũng là đây: Không gây khó khăn cho người khác, không gây phiền lụy, đau khổ cho người khác có phải là không xúc phạm đến tự do của họ hay sao?
Từ những nhận định như trên, các nhà thông thái Âu Mỹ không khỏi giật mình vì chính tư tưởng trên của Khổng Phu Tử đã góp phần làm cho xã hội an lạc.

Trong cách mạng văn hóa Trung Hoa, Khổng Tử là đối tượng bị đánh đổ. Am miếu, đền thờ của Khổng Phu Tử bị đập phá, triệt hạ, tượng Khổng Phu Tử bị quẳng ra đường và sách vở Khổng Tử bị đem đốt. - miền Bắc Việt Nam chẳng còn đền miếu, văn thánh nào tồn tại. Tất cả đều bị Cọng Sản phá hủy, san bằng vì cho đó là tàn tích phong kiến.

Ngày nay, người ta không cần phải hiếu với cha mẹ, vợ chồng không cần phải trung nghĩa, anh em không cần phải thuận thảo. Câu nằm lòng nhan nhãn trong trường học bây giờ là “Trung với đảng, Hiếu với dân”. Theo Cọng Sản thì trung với đảng vì đảng đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân (!), (Thật ra, dạy trung với đảng vì sợ bị chống đối, lật đổ), hiếu với dân vì dân làm ra sản phẩm, làm nên cơm gạo cho ta ăn, mặc. Không cần phải hiếu với cha mẹ vì nếu không có nhân dân thì cha mẹ lấy đâu cơm gạo nuôi ta?
Vấn đề không chỉ là cha mẹ. Nếu muốn tiến lên xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, tiến lên thế giới đại đồng thì phải đánh đổ tất cả những gì còn là cục bộ. Gia đình là cục bộ, tổ quốc là cục bộ mà gia đình là cục bộ cản trở lớn nhất của con đường tiến lên Cọng Sản. Cho nên gia đình là mục tiêu cần đánh phá trước nhứt. Chúng nó chưa đánh đổ dân tộc vì còn cần chiêu bài dân tộc để chống tư bản đế quốc. Một khi đã chiến thắng đế quốc tư bản rồi thì cái vỏ bọc ấy cũng bị tiêu diệt nốt, chỉ là Cọng Sản, là thế giới đại đồng mà thôi.
Nếu nàng Kiều có lòng nhân thì Kiều nên góp phần với Từ Hải để đánh phá chế độ phong kiến bóc lột, cớ sao lại khuyên Từ Hải ra hàng. Khuyên Từ Hải ra hàng tức Kiều là công cụ phục vụ cho chế độ bóc lột đó, cái chế độ gia đình Kiều hưởng nhiều đặc lợi. Bản chất bóc lột của Kiều vẫn không thay đổi dù Kiều đã phải trãi qua nhiều gian khổ. Chữ nhân của Kiều như Dương Quảng Hàm nhận xét chỉ là sản phẩm của giai cấp phong kiến thống trị bóc lột, nó không có tính tích cực và triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Xây dựng một xã hội Cọng Sản không có người bóc lột người là chế độ nhân đạo nhứt!
Tất cả những lý luận như trên rõ ràng vừa là không tưởng vừa là ngụy biện. Hậu quả của những tư tưởng rồ dại đó là những cuộc chiến tranh triền miên giữa dân tộc nầy và dân tộc khác hay cuộc nội chiến ở nước ta kéo dài 30 năm vậy, với hàng triệu người bị chết oan, văn hóa đạo đức suy đồi trầm trọng.
Cũng nên nhắc lại rằng nhà cầm quyền Việt Nam Cọng Hòa có nhiều sơ hở trong việc giáo dục rất đáng trách. Những lập luận không tưởng và ngụy biện như tôi nói ở trên được rao giảng một cách tự do trong vùng quốc gia hay miền Nam Việt Nam sau hiệp định Genève 1954. Tôn Thất Dương Kỵ khi dạy sử ở trường Khải Định (sau nầy là trường Quốc học) đã xử dụng rặc một lối ngụy biện như thế, một lập trường duy vật khi dạy học trò cũng như viết sách, như trong cuốn “Việt Sử Khảo Lược” của ông. Nối gót y có Hoàng Phủ Ngọc Tường khi làm giáo sư ở trường nầy, cũng như nhiều giáo sư khác tự cho mình là tiến bộ, là có tư tưởng cao xa, phóng khoáng, xử dụng ngụy biện và đứng trên lập trường duy vật biện chứng, tưởng rằng làm như thế là khác người, hơn người. Nguy hiểm hơn, lối giáo dục như thế đã đẻ ra một đám “học trò mù” - hiện đang sinh sống ở Mỹ - mà cứ tưởng mình là tiến bộ, không ít bọn chúng hiện ở trong nước cũng như hải ngoại đang làm văn, làm thơ, làm nhạc, viết báo, quay lưng phản phúc, chủ trương hợp lưu, trao đổi văn hóa mà thực chất là làm tay sai cho Cọng Sản để kiếm chút hư danh./

Worcester/Mass
hoànglonghải

Chú thích:
(1) Năm 1956, nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Du, Hội Văn Hóa Thành Phố Huế tổ chức một buổi diễn thuyết. Trong dịp nầy, Linh Mục Sảng đình Nguyễn Văn Thích nêu ý kiến cho rằng không nên cho học sinh học truyện Kiều. Ông không gọi Kiều là dâm thư nhưng cho rằng đó là truyện phong tình, dẫn chứng bằng câu thơ trong đoạn mở đầu truyện Kiều “Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”.
(2) Kiều bị chê như đã nói ở trên còn truyện Phan Trần (Họ Phan và họ Trần) thì trong truyện nầy có đoạn Phan sinh tưởng nhớ người yêu sinh ra bệnh tương tư, si tình đến nỗi toan tự vẫn. Đàn ông như thế là nhu nhược, chẳng ra khí phách anh hùng gì cả.
(3) Các nhà phê bình văn học đánh giá Chu Mạnh Trinh là ông tổ của văn chương lãng mạn Việt Nam.
(4) “Giả thử ngay khi trước Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án Viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng; thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười; mà chắc rằng biên thùy một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp. Thì sao còn tỏ được là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Thế mới biết người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn”.
(Phần đầu Bài Tựa Truyện Kiều do Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán văn, Đoàn Quỳ dịch ra văn Nôm)
(5) Bài của ông Doãn Quốc Sĩ đăng trên Bách Khoa.
(6) Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị làm quan bị biếm ra đất Tầm Dương. Một đêm thu tiễn bạn ra bến sông, gặp một kỹ nữ tuổi đã già, người chồng buôn bán đường xa, để nàng cô quạnh trên bến sông. Người kỹ nữ đàn cho BCD nghe và hai người cùng khóc cho số phận hẩm hiu của mình. Tác phẩm nầy có ảnh hưởng lớn trong văn chương Việt Nam, cổ cũng như hiện đại.