TỪ LỜI GỞI CÂY BÔNG VẢI ĐẾN ĐẠI VIỆT THẦN ĐẠO
Trước mặt, Sa Đéc là vùng đất mật ngọt hiền hòa nằm ven thủy lộ chở đầy phù sa bồi đắp cho vùng cây trái sung mãn quanh năm tháng. Không hiểu tại sao trên bờ sông Mỹ Thuận, những lúc vội vã quay về tôi thường mê mẩn cố tình để bắt gặp và lắng nghe âm sắc chiêu hồn của tiếng đàn độc huyền của một nhạc sĩ già mù chìm đắm ánh mắt bạc tròng trong từng âm thanh diệu vợi, chập chờn bay lượn loáng thoáng trên sông nước phù bình, lững thững trôi lặng lẽ giữa cuộc đời.
Sự hóa hiện của khúc nhạc giang hồ phiêu bạt trong cõi nhân gian này, là niềm hy vọng phả hồn vào cảm ngộ của tri âm? Tôi mãi mê không bao giờ quên được, nhiều lúc trôi nổi trên con phà, tiếng độc huyền chợt quay về với nỗi nhớ xa xưa. Trước 1975, tại vùng đất lãng du Sài Gòn này, thỉnh thoảng chợt nghe tiếng sáo hiu hắt trầm bỗng này, thì bỗng nhiên nhớ đến bóng dáng của Mặc Tuyền lặng lẽ thổi dạo trên đường Lê Lợi.
Cứ ghé ngang nhà sách Khai Trí của anh chị Nguyễn Hùng Trương, thế nào cũng bắt gặp Mặc Tuyền vừa từ sơn trại Đạo Đồng Cứu Thế trở về. Còn tiếng đàn độc huyền phà Mỹ Thuận cũng vậy, làm chợt nhớ tới tiếng sáo của sư huynh Trần Tuấn Kiệt và quê hương Sa Đéc đầy rẫy tài hoa, còn thấp thoáng trong nẻo đường đời. (Trần Tuấn Kiệt đa năng đa diện, từng theo học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc, như là một cách bổ sung cho thi ca thêm âm hưởng tuyệt diệu).
Nhà thơ thực ra đã ly hương từ khoảng năm 1960, về phố thị Sài Gòn lập thân lập nghiệp như nhiều bằng hữu văn nghệ tỉnh lẻ khắp nơi. Cái phiêu du của anh, còn nặng nhiều chất kiêu bạt và giang hồ. Oằn vai đeo cả túi thơ, chất chồng theo định mệnh lập dựng một khuynh hướng thi ca mới, vì thế khoảng thời gian này, Trần Tuấn Kiệt đang hòa mình trong tao đàn Bạch Nga, chủ soái là nhà văn Nguyễn Vỹ, gồm nhiều kiện tướng như Minh Đức Hoài Trinh, Tuệ Mai, Bạch Yến…
Trong
giai đoạn đầu, Trần Tuấn Kiệt xem nghề báo như bước tiến đầu tiên để ổn
đinh cuộc sống giúp anh giao tiếp được hầu hết các anh em văn nghệ đồng
song đương thời. Cùng chung một ý hướng khả dĩ thành lập riêng một nhóm
văn nghệ với tư tưởng văn hóa đầy nhiệt huyết. Hình thành một lớp văn
nghệ sĩ đa phong cách như tiếng nói vững chãi cho văn học miền Nam thời
bấy giờ, với Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Trần Đức Uyển, Viên Linh,
Vương Tân…
Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt và các cây viết đồng song trong giai đoạn này là lớp người được xem như tinh túy nhất của văn chương miền Nam, một mặt tiếp nối kế thừa văn nghiệp từ các sĩ phu Bắc hà, gần gũi với lớp tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan, Đinh Hùng…, một mặt lập dựng được tiếng nói nghệ thuật mới kế cận một nền văn học cũ có hậu tại miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Phú Đức… Tất cả sự hoạt hóa cách tân đưa văn học vào một ngõ sáng tạo, kết nối từ những nguồn văn minh văn hóa của phương Đông và phương Tây, đứng trước những đổi mới trên ngôn ngữ, tư tưởng và hình thức sáng hóa.
Một nền văn học miền Nam không thể chối cãi được, đã đưa văn nghệ nơi này đóng góp với khuynh hướng văn nghệ phục vụ của phương Bắc, có thêm tính đa diện và đầy sinh khí.
Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt và các cây viết đồng song trong giai đoạn này là lớp người được xem như tinh túy nhất của văn chương miền Nam, một mặt tiếp nối kế thừa văn nghiệp từ các sĩ phu Bắc hà, gần gũi với lớp tiền chiến như Vũ Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan, Đinh Hùng…, một mặt lập dựng được tiếng nói nghệ thuật mới kế cận một nền văn học cũ có hậu tại miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Phú Đức… Tất cả sự hoạt hóa cách tân đưa văn học vào một ngõ sáng tạo, kết nối từ những nguồn văn minh văn hóa của phương Đông và phương Tây, đứng trước những đổi mới trên ngôn ngữ, tư tưởng và hình thức sáng hóa.
Một nền văn học miền Nam không thể chối cãi được, đã đưa văn nghệ nơi này đóng góp với khuynh hướng văn nghệ phục vụ của phương Bắc, có thêm tính đa diện và đầy sinh khí.
Trong
thời gian 1963 - 1975, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt ấn hành nhiều tác phẩm
quan trọng, có lẽ hơn vài trăm sách in mà anh gom hết sức lực góp mặt
cùng nền văn hóa văn học Việt Nam, phần đông là những cuốn biên khảo và
thi ca. Những thi phẩm nền tảng cho tiếng tăm một Trần Tuấn Kiệt, được
nhắc nhở nhiều như thi tập Nai (1964), Lời Gởi Cây Bông Vải (1969), Niềm
Hoan Lạc Thần Linh Và Ngục Tù (1970), được nhắc nhở và đoạt nhiều giải
văn chương đương thời…
Trên
bình diện nhận xét về thơ, Trần Tuấn Kiệt cho ra đời nhiều tác phẩm
biên khảo, phê bình như Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, Tác Giả Tác Phẩm và
nhiều bộ truyện dài như Mê Cung, Màu Kỷ Niệm, Tiếng Đồng Nội, Sa Mạc Lan
Dần… Cung cách sáng tác của Trần Tuấn Kiệt có chút ít phóng khoáng, hầu
như sử dụng ngọn bút dễ dàng thâm nhập vào mọi hứng khởi, khi bước vào
cuộc hành trình sáng tạo. Nhiều lúc, nhìn cách lập dựng tác phẩm của
anh, với dày đặc bản thảo mang đầy trách nhiệm thừa truyền của một văn
nghệ sĩ, không để bỏ sót khoảng thời gian nào cho từng dòng thơ, ý tưởng
bước qua.
Giai
đoạn năm 1966, tôi có duyên ngộ quen biết tay bắt mặt mừng với Trần
Tuấn Kiệt do một người bạn mê văn nghệ làm việc tại Ty Thông Tin Châu
Đốc giới thiệu. Năm đó, tôi cũng vừa cho ra mắt một thi tập, nên sẵn
đang theo học tập tại Sài Gòn, tôi chuyển tặng tập thơ cho chương trình
truyền thanh của Trần Dạ Từ và ghé tư gia lầu 1 đường Nguyễn Hữu Cầu
(chợ Tân Định) thăm nhà thơ Đinh Hùng đang lâm bệnh nặng.
Người bạn công chức nói trên, lên thăm tôi tai Sài Gòn sẵn dịp hướng dẫn tôi đến địa chỉ của nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, đang cư ngụ tại gần đường Vườn Chuối. Tôi thường dành một khoảng thời gian rỗi rảnh đến thăm anh, mà sự thân mật của một nhà thơ nổi tiếng như Trần Tuấn Kiệt đối với người bạn văn nghệ trẻ cùng xứ sở đã làm thấm đẫm sự cảm kích và ân tình. Khi từ giã, anh trao tôi một bài thơ dài mới sáng tác Ta Lên Miền Biên Giới Hạ Lào (*), góp mặt cho nguyệt san Trình Diện Tuổi Đất sắp ra mắt đầu xuân 1967.
Người bạn công chức nói trên, lên thăm tôi tai Sài Gòn sẵn dịp hướng dẫn tôi đến địa chỉ của nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, đang cư ngụ tại gần đường Vườn Chuối. Tôi thường dành một khoảng thời gian rỗi rảnh đến thăm anh, mà sự thân mật của một nhà thơ nổi tiếng như Trần Tuấn Kiệt đối với người bạn văn nghệ trẻ cùng xứ sở đã làm thấm đẫm sự cảm kích và ân tình. Khi từ giã, anh trao tôi một bài thơ dài mới sáng tác Ta Lên Miền Biên Giới Hạ Lào (*), góp mặt cho nguyệt san Trình Diện Tuổi Đất sắp ra mắt đầu xuân 1967.
Một nhân vật, là viết lách như gió, dễ dàng bất cứ lúc nào, mà không cần phải sáng tác trước hương trầm, hay phải hướng về phương Đông hoặc phải mặc áo the…, nên nhà thơ Trần Tuấn Kiệt là đối tượng giản dị giúp tôi thấy cái hay khi làm thơ viết văn.
Và nhân vật thứ hai, là tính ngăn nắp cẩn thận đầy khoa học trong việc lưu trữ, sắp xếp bản thảo… thì nhà văn Viên Linh có nét tuyệt vời này. Có khi tôi ngồi viết được một bài thơ, trôi nổi theo cảm hứng nhất thời, sự đa dạng của sáng tạo không phải lúc nào cũng là thơ tình, hay thiền thi… nên tôi cũng có nhiều loại sơ mi, chia ra cho từng khuynh hướng.
Chính vậy, có khi tôi hoàn thành một lúc vài ba tác phẩm. Trần Tuấn Kiệt viết nhanh và du hành trên mọi địa hạt văn chương, nên tác phẩm của anh ngoài thơ còn đa dạng trên sưu khảo, nhận định phê bình, tiểu thuyết, luận triết, võ thuật, âm nhạc…
Sau
1975, khoảng 20 năm đầu sự sống còn nhiều khó khăn, anh viết sách võ
thuật, y học, dã sử, hồi ký… Vô hình chung tài sản văn học của Trần Tuấn
Kiệt lên gần ngàn quyển, chia đều và dày đặc trên thư mục lưu trữ.
Nối
tiếp những tập biên khảo nhận định phê bình văn học của những năm chiến
tranh, Trần Tuấn Kiệt xây dựng bộ Tác Giả Tác Phẩm (5 quyển), thực hiện
trên 5000 trang, dù chưa chính thức kết thúc vào tập nào nhưng anh có
tặng tôi 2 quyển đầu của bộ sách này, với một cách nhìn đặc biệt từng
tác giả văn nghệ trước và sau 1975.
Bài Nhận Định Về Thơ Ngô Nguyên Nghiễm được giới thiệu trong tập 1 Tác Giả Tác Phẩm Người Đồng Hành Quanh Tôi, là một trong những bài viết của Trần Tuấn Kiệt in trong tập 2 tác phẩm của anh, cùng với bài nhận định thơ Nguyễn Tôn Nhan, đã được nhiều nơi trích đăng giới thiệu trên nhiều phương tiện truyền thông. Bên cạnh Trần Tuấn Kiệt hoàn thành tập Hồi Ký Cuộc Đời Và Nghệ Thuật, chỉ chờ dịp thuận tiện để giới thiệu với độc giả.
Bài Nhận Định Về Thơ Ngô Nguyên Nghiễm được giới thiệu trong tập 1 Tác Giả Tác Phẩm Người Đồng Hành Quanh Tôi, là một trong những bài viết của Trần Tuấn Kiệt in trong tập 2 tác phẩm của anh, cùng với bài nhận định thơ Nguyễn Tôn Nhan, đã được nhiều nơi trích đăng giới thiệu trên nhiều phương tiện truyền thông. Bên cạnh Trần Tuấn Kiệt hoàn thành tập Hồi Ký Cuộc Đời Và Nghệ Thuật, chỉ chờ dịp thuận tiện để giới thiệu với độc giả.
Thơ
Trần Tuấn Kiệt đã đi vào khung trời riêng, của hơn 50 năm hòa nhập với
thi ca, chất chứa đầy khí lực tạo dựng một vũ trụ thơ của anh. Trần Tuấn
Kiệt mang sắc thái của lão phu bạch sĩ, đang hoài bão chống gậy bước
vào một nền Văn Hóa Dân Tộc Việt, như một sứ giả thuần hành vạch lại
những hào Lạc Thư (theo anh: “Lạc là Lạc Việt. Thư là Sách) cho một nền
Thần Đạo Đại Việt (Thần Minh Đạo) vậy…
Trước
1975, khi đọc bộ sách văn hóa văn minh thần đạo của Kim Định, mà tiêu
biểu là Triết Lý Cái Đình, đã khai màu cho một nhận thức tổ tiên ông bà,
đất đai vương trạch, thần hoàng bổn cảnh, anh hùng dân tộc và nền văn
minh của đình làng đã như một đặc trưng riêng của Việt Nam, không nước
nào có được, dù lập dựng hơn 5000 - 8000 năm văn hóa như Hi Lạp cổ xưa,
Trung Quốc…
Văn
hóa văn minh của Thần Đạo được lập dựng trong 5 loại hình: Vũ trụ,
Huyền sử, Phúc thần sắc phong, Thần vật có công với đất nước, nhất là
các anh hùng hào kiệt giữ nước. Đó là điểm khác biệt với Thần Đạo Nhật
Bản, hay các vị thần lập dựng huyền thoại hóa từ khai thiên lập địa của
Trung Quốc, hay các thần linh tạo lập vũ trụ của truyền thuyết Hy Lạp.
Những cách lập dựng để làm phong phú giả tạo cho nền văn minh văn hóa
đất nước của các quốc gia trên, dĩ nhiên đã tạo dựng một ảo giác, dối
trá đầy vẻ bá đạo. Những ngày tháng cật lực thực hiện bộ sách mang đầy tư tưởng tâm huyết khiến nhiều đêm Trần Tuấn Kiệt soi bóng mình trong những giọt máu chiêu hồn thật bi thống:
Còn chút hơi tàn với bóng đêm
Máu rơi ba giọt dưới chân thềm.
Mấy tháng trước anh có tặng tôi tập 1 Đại Việt Thần Đạo trong bộ sách 15 tập sẽ ấn hành tuần tự theo thời gian và tài chánh. Tôi nghĩ tâm huyết này đã được anh nhân rộng hơn tư tưởng triết lý Thần Đạo của học giả Nguyễn Đăng Thục viết trong Tư Tưởng 1, có thờ chính thống Thần Đồng Cổ từ đời vua Hùng Vương.
Trở về nguồn cội mà nhà thơ - nhà văn hóa Trần Tuấn Kiệt đang bước đi trong cuộc hành trình đầy thử thách: Sức khỏe, lập thuyết, và tài chánh để hoàn thành.
Linh thổ đã bao lần ta đứng lại
Nhìn trăng rằm cổ độ mấy mùa sương
báo hiệu sự mong chờ không phải riêng Trần Tuấn Kiệt, mà còn biểu hiệu canh cánh nỗi lòng của chúng ta, đồng cảm với nhà thơ trước khi chiếc ráng hoàng hôn bay về nẻo không cùng…
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Viết tại Thư trang Quang Hạnh