dưới mắt Đinh Cường |
Từ lâu người dân Hàng Châu đã được nghe nói về một đám giặc nổi lên ở vùng Sơn Đông, đa phần là dân chài lưới nghèo khổ, dần dần đám giặc mỗi lúc một đông, nhiều nơi dân chúng nổi lên giết quan quân mà theo giặc, thanh thế của chúng làm triều đình lo ngại và danh tiếng tên đầu đảng Từ Hải được nhiều người nhắc đến.
Vì xuất thân làm nghề chài lưới, quen với sông nước biển khơi nên đám giặc cứ men theo bờ biển mà tiến xuống phương Nam. Chẳng mấy chốc quân Từ Hải vượt qua sông Dương Tử chiếm Châu Thường, Vô Tích. Từ Hải đóng bản doanh ở Đại Hoàng cho nhiều cánh quân nhỏ tiến chiếm những phủ huyện chung quanh mở rộng vùng kiểm soát hướng tiến sát thủ phủ Hàng Châu. Trước thế giặc mỗi lúc một mạnh, triều đình sai Tổng đốc Hồ Tôn Hiến lãnh đại quân xuống trấn giữ Hàng Châu và tiễu trừ giặc cướp.
Tổng Đốc Hồ Tôn Hiến tìm hiểu tình hình thấy thế giặc đang mạnh, dân chúng như đang ngóng chờ loạn lạc vì bất bình quan lại ức hiếp bóc lột. Trong khi đó nhìn vào đám quân dưới trướng, Hồ Tôn Hiến không khỏi e ngại: một đội ngũ ô hợp, ít trải qua chinh chiến, thiếu tập luyện, quân số đông nhưng không chắc chắn có thể thắng được giặc. Hồ Tôn Hiến cho dàn quân phòng bị ở những nơi hiểm yếu rồi sai một tên tướng trẻ mang một đội quân tiến sâu vào vùng lãnh địa mà quân Từ Hải đang chiếm giữ nhắm thăm dò sức giặc. Đoàn quân ra đi mới được hơn một ngày thì gặp quân của Từ Hải chặn đánh, quân triều đình chưa giao chiến đã tan rã, một phần buông vũ khí đầu hàng mong được sống sót, phần còn lại cố gắng chạy tháo thân nhưng phần lớn đều bị giết. Phải mấy ngày sau trận chiến mới có năm bảy tàn quân lê lết về được Hàng Châu báo tin cho Hồ Tôn Hiến. Dân chúng Hàng Châu nghe tin quân triều đình bị đánh tan tác thì nhộn nhạo hẳn lên, nhiều người đã thu gom của cải chuẩn bị tìm đường bỏ chạy một khi giặc tới. Hồ Tôn Hiến vội họp bàn với thuộc hạ về kế sách chống giặc. Tướng Tiểu Kích đứng lên nói:
-
Xin Tổng Đốc ra lệnh tấn công tổng lực, chỉ có vậy
mới yên lòng dân, với quân số lớn, chắc chắn quân ta
sẽ chiến thắng. Tiểu tướng xin xung phong đi đầu.
-
Không nên nóng vội
-
Một viên tướng già cắt lời
-
Lúc này giặc đang mạnh, quân ta vừa thất trận, trước
nhất chúng ta phải chỉnh đốn lại hàng ngũ, canh phòng
cẩn mật, chờ cho giặc khinh thường, lúc đó ta tiến
quân cũng không muộn.
-
Tại sao ta không chiêu hàng trước đã?
-
Có nhiều tiếng cười ồ
-
Một viên tướng già dưới trướng Hồ Tôn Hiến tên là
Hổ Kiết Gia nói tiếp
-
Trước hết chiêu hàng là một cách hoãn binh, vừa tỏ
sức mạnh, trong khi chiêu hàng ta hứa phong cho Từ Hải
chức to, ban nhiều ơn huệ, biết đâu giặc không ngả
lòng mà quy thuận. Như thế ta không tốn một viên đạn
mà dẹp yên được giặc, công của chúng ta đối với
triều đình lớn biết chừng nào.
Tổng
đốc họ Hồ nghe nói thì gật gù, đám bộ hạ chụm đầu
vào nhau bàn tán, Hồ Tôn Hiến nhìn Hổ Kiết Gia nói:
-
Vậy Hổ tướng quân có dám sang trại Từ Hải mà dụ
giặc hàng không?
-
Xin tuân lệnh.
Hồ
Tôn Hiến vui mừng ra lệnh chọn ngay mười tên lính khỏe
mạnh, không mang vũ khí, theo Hổ Kiết Gia ngay lập tức
lên đường sang trại giặc.
Từ
Hải đắc chí sau khi đánh tan đạo quân của triều đình
liền tiến quân tủa ra các vùng phụ cận mở rộng tầm
kiểm soát, khoa trương thanh thế nhắm uy hiếp tinh thần
quân triều đình đang trấn giữ Hàng Châu. Một hôm giữa
lúc Từ Hải đang duyệt quân chợt có lính tiền trạm
phi ngựa về báo: có một toán người ngựa đang tiến
tới doanh trại. Từ ra lệnh: hãy bắt trói dẫn chúng về
tiền sảnh. Lúc sau quân hầu dẫn vào một toán chỉ có
mười người, cùng một ông già, tất cả quỳ gối hướng
vào đại sảnh. Từ Hải bước ra rút thanh gươm dài đeo
bên mình dí mũi nhọn lên trán ông già và nói:
-
Ngươi là ai mà dám cả gan tiến vào doanh trại của ta.
Bọn bây được lệnh do thám cho tên Hồ Tôn Hiến phải
không?
-
Bẩm Tướng Quân, tiện dân tên là Hổ Kiết Gia vốn sinh
ra ở đất này và sống dưới sự che chở của Tướng
Quân. Nhân được biết Tổng đốc họ Hồ có ý muốn
mời Tướng Quân về cộng tác nhưng vì oai phong của
Tướng Quân, đám tùy tướng của Tổng Đốc không ai dám
nhận lãnh sứ mạng tới đây để đề đạt cùng Tướng
Quân điều đó. Ai cũng sợ mắc khinh xuất mà phạm lỗi
khiến ra đi mà không còn đầu để trở về. Là con dân
của Tướng Quân, lại được biết Hồ Tổng đốc là
người rất kính trọng Tướng Quân nên tiện dân không
sợ chết mà tới đây để trình bày cùng Tướng Quân
ngu ý của mình: chiến tranh chém giết không phải là điều
tốt. Tướng Quân cùng các nghĩa sỹ vùng lên là để trừ
cái xấu, cứu dân lành khốn khổ ra khỏi lầm than. Tướng
Quân có vui gì khi binh sĩ hai bên chém giết nhau? Có hân
hoan nhìn dân đen la khóc trong cảnh nhà tan cửa nát, người
thân vong mạng? Chắc hẳn là không, vậy tại sao Tướng
Quân không về hợp tác với Hồ Tổng đốc? Lại nữa về
phần cá nhân, Tướng Quân có chắc mũi tên hòn đạn có
mắt để tránh Tướng Quân? Cái chết không ai nói trước
được. Tướng Quân không nghĩ tới vợ con gia đình sao?
Hổ
Kiết Gia ngừng nói. Từ Hải vẻ tư lự bỏ mũi gươm ra
khỏi đầu lão già rồi ra lệnh cho đám người đang quỳ
trước mặt được bình thân.
-
Vậy ra nhà ngươi là kẻ tới đây dụ ta quy thuận triều
đình?
Từ
Hải cười vang:
-
Ta đang một mình một cõi, trên là trời, dưới là đất,
vậy mà ngươi lại dùng những lời hoa mỹ để dụ ta
cúi mình bước vào chốn triều trung giữa đám vua quan
hôi hám là thế nào? Quân sỹ đâu, hãy mang chúng ra ngoài
chém đầu, chỉ bớt lại đứa khỏe mạnh nhất để nó
mang thủ cấp đồng bọn về.
Đám
cận vệ dạ vang, Hổ Kiết Gia và đám tùy tùng kinh hãi
quỳ mọp xuống đất vái lạy xin tha mạng. Chợt từ
trong đại sảnh vợ Từ Hải bước ra, cầm tay chồng:
-
Họ có tội gì mà giết? Hổ Kiết Gia tới đây là vì
lòng nhân trong người hắn, hắn không muốn thấy cảnh
đầu rơi máu chảy, lại thấy triều đình muốn hòa chứ
không muốn chiến. Giết họ chỉ có hại cho uy đức bấy
lâu nay của Tướng quân. Hòa hay chiến là quyết định
của Tướng quân. Lại nữa muốn chiêu hòa thì triều
đình phải cho quan chức tới thương thảo chứ đâu phải
chỉ qua lời một tiện dân mà được. Tha cho họ về là
tỏ cái đức hiếu sinh của Tướng quân và mở lối cho
con đường hòa hiếu nếu Hồ Tôn Hiến thực lòng cầu
hòa. Thiếp xin tướng quân hãy tha chết cho họ.
Từ
Hải quay lại nhìn vợ cười khà khà đắc ý:
-
Lời của vợ ta nói rất hay, ta tha chết cho bọn bay. Bọn
bay về nói rõ cho tên họ Hồ rằng muốn ta khom lưng mà
về quy thuận hãy đợi lúc ta bại trận cùng đường.
Còn bây giờ hãy đợi đấy, mấy ngày nữa ta sẽ đem
quân vào Hàng Châu hỏi tội bọn tham quan ô lại, thiêu
sạch trà đình tửu điếm, nhà thổ…
Từ
Hải quay vào sau khi bảo quân lính đưa mấy người bị
bắt xuống nhà nghỉ đãi đằng rượu thịt rồi thả
cho về.
Hổ
Kiết Gia từ doanh trại Từ Hải về đến Hàng Châu đi
thẳng tới dinh Hồ Tôn Hiến trình tấu sự việc. Tổng
Đốc nghe xong im lặng một lúc mới nói:
-
Thật khó mà chiêu dụ được tên giặc này. Phải lo
chống trả thôi.
Hổ
Kiết Gia nói:
-
Từ Hải nghe lời vợ không chém đầu bọn tôi.
Vợ
hắn còn nói: mở lối cho con đường hòa hiếu. Ta chỉ
mới thăm dò chứ đâu đã thương thảo gì với hắn. Vấn
đề bây giờ là tìm người có thể đi thương thảo. Ta
phải làm sao cho hắn thấy cái lợi khi chịu tuân phục.
Bọn nó làm giặc chỉ vì đói khổ, bị đàn áp bóc lột
chứ làm giặc thì sung sướng gì. Như chúng ta đây thì
có ai lại dại gì mà đi làm giặc?
Hồ
Tôn Hiến nét mặt căng thẳng, đám bầy tôi dưới trướng
lặng im không ai dám bàn tán. Tổng Đốc họ Hồ nói:
-
Những điều Hổ Kiết Gia nói đáng để chúng ta suy nghĩ.
Thái độ không cự tuyệt đủ để chúng ta thăm dò xem
Từ Hải muốn gì? Dụ được Từ Hải tuân phục là điều
đáng làm. Vậy ai là người có thể nhận trọng trách
này?
Trung
quân họ Khổng đứng bật dậy
-
Tiểu tướng xin đi.
Hồ
Tôn Hiến mừng rỡ sai chuẩn bị những vật phẩm quý để
cho Trung quân họ Khổng mang sang tặng Từ Hải gồm: vàng
bạc, lụa là gấm vóc, châu báu. Đặc biệt còn phái qua
một người hầu gái giỏi vốn hầu hạ phu nhân họ Hồ
sang hầu hạ vợ Từ Hải. Trước khi lên đường Tổng
Đốc họ Hồ còn căn dặn Trung Quân:
-
Ở nơi thương thảo với giặc cũng giống như khi đối
mặt nơi chiến trường, tướng cầm quân phải tùy cơ
ứng biến. Từ Hải là tay thiện chiến lại có mưu lược
nhưng dù nhiều năm trận mạc vẫn chưa thấy lộ ý đồ
thực hiện mộng bá vương, trước sau vẫn chỉ là một
đám giặc, như thế ta có thể dùng cái lợi, cái danh để
chiêu dụ. Mặt khác con người tất có tình cảm, Từ Hải
sống với Thúy Kiều, đời sống vợ chồng không thể
nay đây mai đó ở giữa nơi cát bụi, ta phải làm sao cho
nó thấy nếu quy hàng thì vợ phú chồng vinh sống an bình
hạnh phúc, đường đường một bậc quan gia để trở về
quê hương bản quán, mở mày mở mặt với gia đình, họ
tộc. Nghe Hổ Kiết Gia nói về hành xử của Thúy Kiều,
ta nghĩ đó là một nhân tố giúp ta chiêu dụ được Từ
Hải. Người đàn bà chỉ nhìn thấy cái trước mắt, họ
không muốn phải sống giữa cảnh đầu rơi máu chảy,
phải xa cách cha mẹ anh em, nên hơn ai hết nàng sẽ là
người chủ hòa và tất nhiên tác động tới Từ Hải.
Trung
quân vâng lệnh cùng đoàn tùy tùng lên đường mang theo
tặng phẩm thẳng tới doanh trại Từ Hải. Chưa tới nơi
Khổng Trung Quân đã bị lính chặn lại và phi báo về
bản doanh cho Từ Hải biết. Từ Hải nói:
-
Chắc là chúng cử người sang chiêu dụ ta hàng đây.
Từ
Hải cho quân giàn kín trước doanh trại, gươm đao như
rừng rồi ra lệnh cho Khổng Trung quân vào. Chưa kịp xưng
tên thi lễ Trung quân đã giật mình run sợ vì tiếng gươm
đập xuống thư án cùng tiếng quát của Từ Hải:
-
Mày tới đây làm thuyết khách phải không?
Trung
quân vội vàng quỳ xuống thi lễ:
-
Bẩm tâu Tướng Quân, Hồ Tổng Đốc sai tiểu tướng tới
đây trước hết là để tỏ lòng ngưỡng mộ Tướng
Quân dù chưa có dịp diện kiến nhưng oai đức lừng lẫy
của Tướng Quân thì muôn người như một đều khâm
phục, vì thế Hồ Tổng Đốc sai tiện hạ dâng lên Tướng
Quân một chút lễ mọn xin Tướng Quân nhận cho.
Từ
Hải nói:
-
Chưa quen biết mà đã tặng lễ vật nhiều như thế này
là ý làm sao?
-
Hồ Tổng Đốc là người trọng kẻ nghĩa khí và muốn
cùng Tướng Quân giao hiếu, đó là bước đầu. Sau là
xin Tướng Quân nghĩ tới việc hợp tác với triều đình
từ bỏ con đường đối đầu để không còn cảnh thịt
rơi máu chảy, giúp người dân an cư lạc nghiệp.
Từ
Hải giữ yên nét mặt:
-
Hợp tác là đầu hàng chứ gì? Nay ta đang sống ngoài
vòng cương tỏa, tự tung tự tác, sao có thể tự trói
mình mà vào luồn ra cúi nơi cửa quyền? Ta lại vốn là
tên thuyền chài đóng khố nay lại nhận sắc vua phong
tước, mang cân đai bố tử vào ngồi cùng đám văn võ bá
quan, như thế bọn chúng sao chịu nổi và chắc chắn sẽ
mưu hại ta trong cảnh thân cô thế cô.
-
Tiện hạ xin thưa cùng Tướng Quân thế này. Những suy
nghĩ của Tướng Quân rất thực tế. Nhưng nếu triều
đình chỉ muốn Tướng Quân không tấn công vào Hàng
Châu, giúp triều đình ngăn chặn những đám giặc cướp
đang nổi lên, vỗ yên trăm họ cùng với Tổng Đốc
hưởng vinh hoa phú quý thì Đại Vương nghĩ sao?
Từ
Hải im lặng một lúc rồi nói:
-
Những gợi ý của Khổng Trung quân rất hay nhưng Tổng
Đốc có đoan quyết như thế không? Chỉ nói suông với
nhau như thế này thì không được. Phải có minh văn và
ta phải có bàn luận, vậy Trung quân hãy trở về nói rõ
điều chúng ta đã trao đổi với nhau cùng Hồ Tổng Đốc.
Ta sẽ phúc đáp sau khi nhận đươc minh văn.
Khổng
Trung quân liền cùng đoàn tùy tùng thi lễ rồi lên đường
trở lại thủ phủ Hàng Châu. Riêng Từ Hải quay vào
trong, Thúy Kiều đang ngồi ở đó. Từ Hải nói:
-
Chắc phu nhân đã nghe rõ câu chuyện, ý phu nhân thế nào?
-
Thiếp nghĩ chúng ta không thể làm giặc mãi được. Tuy
nhiên mọi điều là ở Tướng quân thấy được cái hay
cái dở để quyết định. Hết chinh chiến chúng ta được
sống bên nhau nhiều hơn. Sẽ được đoàn tụ với gia
đình, chỉ nghĩ đến điều này thiếp đã thấy vui.
Khổng
Trung quân về tới Hàng Châu, Hồ Tôn Hiến vội cho triệu
tập thuộc hạ thân cận dưới trướng họp bàn. Sau khi
nghe Trung quân tường trình mọi việc và những điều Từ
Hải muốn triều đình cam kết khi hắn về tuân phục. Hồ
Tôn Hiến nghiêm nét mặt nói:
-
Không được, nói là quy thuận nhưng vẫn là anh hùng một
cõi, về sau trở mặt thì sao? Việc này phải đình lại
để xem xét và tâu lên triều đình đã.
Không
khí buổi họp bàn trở nên căng thẳng. Nhiều ý kiến
khác nhau là hòa hay chiến, từ đó lộ ra một sự thật:
đa phần đều lo sợ sức mạnh của quân giặc.
Trung
quân với giọng mạnh mẽ:
-
Ta đã thương thảo cùng giặc, nay nó đồng ý quy thuận
ta lại không cho. Điều này chắc làm cho Từ Hải tức
giận vì việc chiêu dụ chỉ là để lung lạc tinh thần
đối phương chứ không thực tình. Với lực lượng lớn
mạnh và tinh thần hăng say liều mạng của giặc liệu ta
có giữ được Hàng Châu hay không?
Câu
hỏi đặt ra làm cho cuộc họp rơi vào không khí căng
thẳng. Một người ngồi gần Hồ Tôn Hiến đứng lên –
đó là Tiết Dũng, một viên tướng già ở dưới trướng
họ Hồ từ lâu:
-
Tiểu tướng xin dâng một kế sách: ta dụ cho cọp ra khỏi
hang rồi giết đi là xong.
-
Nói thì dễ nhưng thực hiện như thế nào?
Tiết
Dũng lên tiếng:
-
Đây là kế sách của tôi – Tiết Dũng nói tiếp – Ta
viết minh văn nêu rõ những điều chúng ta cam kết rồi
để Trung quân mang sang thương thảo một lần nữa, làm
cho chúng tưởng ta thiết tha với việc hòa hiếu. Nếu
giặc đồng ý sẽ định ngày mang quân sang đón giặc quy
hàng. Lúc ấy ta loan tin này một cách rộng rãi cho dân
chúng và quân giặc để tạo không khí tin cậy. Trước
ngày lễ quy thuận ta cho chở sang trại giặc thật nhiều
rượu ngon, thịt béo để giặc khao quân. Ta bố trí lại
quân, rút đi vài đơn vị đóng gần trại giặc. Tất cả
là để cho giặc tin vào minh ước mà không đề phòng.
Trong khi đó chúng ta bố trí một đơn vị nhỏ tinh nhuệ
dàn chào chờ khi Từ Hải tới thì nổi trống chiêng như
chào đón nhưng thực chất là mệnh lệnh sát thủ, cùng
lúc quân ở tiền tuyến cũng tiến công ra uy ngăn
chặnkhông cho giặc tiếp cứu. Tiểu tướng thiển nghĩ
nếu không bắt sống được Từ Hải thì cũng giết được
nó. Chủ tướng đã chết tất nhiên quân giặc tan rã.
Hồ
Tôn Hiến vui mừng reo lên:
-
Thật là diệu kế.
Liền
đó Hồ Tôn Hiến cắt đặt công việc cho từng người,
từng đơn vị thực hiện kế sách của Tiết Dũng.
Từ
Hải sau khi đưa yêu sách cho Hồ Tôn Hiến ngồi chờ phúc
đáp với vẻ bồn chồn nôn nóng, tư tưởng cầu an như
đã chế ngự con người trước đây chỉ biết dọc ngang
vùng vẫy. Bỗng có tin báo: Khổng Trung quân cùng đoàn
tùy tùng tới. Từ Hải ra nghênh đón với vẻ vui mừng,
sau khi mọi người cùng nhau thi lễ, Khổng Trung quân trình
cho Từ Hải tờ minh văn. Thấy Từ Hải đã đọc xong,
Trung quân liền nói:
-
Như vậy còn có điều gì mà Tướng quân chưa hài lòng?
Từ
Hải cười lớn:
-
Chỉ cần một điều cho ta chọn lựa: muốn làm quan thì
vào triều đình, nếu muốn cầm quân trấn nhậm ở nơi
hiểm yếu triều đình cũng thuận. Ta vốn sống tự do đã
quen, nay được làm lá chắn cho vùng trận địa thì còn
gì bằng. Điều này thuận ý ta mà cũng rất lợi cho
triều đình: giặc nghe tới tên Từ Hải là đã tan hàng
chứ cần gì đợi giao tranh.
Từ Hải cười vang vẻ đắc trí và lập tức sai quân dọn tiệc khoản đãi Khổng Trung quân và đoàn tùy tùng trước khi đoàn trở về thủ phủ Hàng Châu. Liền sau đóTừ Hải họp bộ hạ báo tin việc tuân phục triều đình và sửa soạn hội khao quân vào ngày làm lễ quy thuận. Quân lính reo hò nhảy múa. Quân thám báo của Từ Hải phái đi xem tình hình quân địch trở về báo cho Từ Hải về việc một đội quân của triều đình đã rút đi, dân chúng trong thủ phủ Hàng Châu được lệnh treo đèn kết hoa mở hội ăn mừng hòa bình. Từ Hải nghe tường trình càng thêm yên tâm, không nghĩ tới những bất trắc có thể xẩy ra để phòng bị mà còn giao khoán việc quân cho thuộc cấp còn mình thì mải mê bên vợ với rượu ngon, đàn hát, chẳng hay biết gì về cái bẫy đang giăng ra chờ đợi.
Từ Hải cười vang vẻ đắc trí và lập tức sai quân dọn tiệc khoản đãi Khổng Trung quân và đoàn tùy tùng trước khi đoàn trở về thủ phủ Hàng Châu. Liền sau đóTừ Hải họp bộ hạ báo tin việc tuân phục triều đình và sửa soạn hội khao quân vào ngày làm lễ quy thuận. Quân lính reo hò nhảy múa. Quân thám báo của Từ Hải phái đi xem tình hình quân địch trở về báo cho Từ Hải về việc một đội quân của triều đình đã rút đi, dân chúng trong thủ phủ Hàng Châu được lệnh treo đèn kết hoa mở hội ăn mừng hòa bình. Từ Hải nghe tường trình càng thêm yên tâm, không nghĩ tới những bất trắc có thể xẩy ra để phòng bị mà còn giao khoán việc quân cho thuộc cấp còn mình thì mải mê bên vợ với rượu ngon, đàn hát, chẳng hay biết gì về cái bẫy đang giăng ra chờ đợi.
Tại
thủ phủ Hàng Châu, cáo thị của quan Tổng đốc kêu gọi
dân chúng tham gia làm sạch đường xá, trang trí nhà cửa
để chào mừng ngày Từ Hải mang quân về quy thuận triều
đình, trong dịp này tù nhân sẽ được ân xá, triều
đình mở kho lương thực phát chẩn cho người nghèo. Dân
chúng bu lại trước những tấm cáo thị bàn tán râm ran
với vẻ hào hứng khác thường. Có kẻ nói: vậy là
không phải chạy loạn nữa, thoát cảnh giặc pha nhà
cháy. Có người nói: khó tin, Từ Hải mới đây kéo quân
xuống Lâm Truy cho vợ báo ân trả oán vang động cả một
góc trời, đi tới đâu thắng tới đó, bao nhiêu quan chức
quyền thế và bọn nhà giàu toi mạng, sao bỗng nhiên hạ
khí giới quy hàng, khó tin. Có người giọng khôi hài:
chắc làm giặc mãi cũng chán nên đổi sang làm quan, thời
nay làm quan cũng là làm giặc thôi. Có người nói: chuyện
này chắc có mưu mẹo gì đây cũng không chừng. Có kẻ
nói: chán quá, tưởng có đổi đời, hôm nay vẫn như
ngày hôm qua thôi. Có người giọng tức giận: cái thằng
Từ Hải chết tiệt này sao không làm giặc nữa cho mình
được nhờ. Người nói thế này người nói thế khác
nhưng rõ ràng trên khuôn mặt họ bớt đi vẻ lo âu của
những ngày trước đó.
Ngày
lễ quy thuận của Từ Hải đã đến. Lễ đài được
dựng lên. Lá cờ vàng có bốn chữ “Đại Thiên Chiêu
Phủ” đã tung bay trên kỳ đài. Vào nửa đêm trước
khi bước sang ngày Từ Hải đem quân về hàng, Tổng Đốc
Hồ Tôn Hiến cho triệu khẩn Khổng Trung quân tới bản
doanh nhận lệnh. Khổng Trung quân tức tốc vào ngay bản
doanh trình diện. Hồ Tổng đốc đang ngồi một mình thấy
mặt Trung quân, họ Hồ đứng ngay dậy và nói:
-
Ta đã nghĩ lại và không thi hành kế sách của Tiết Dũng
nữa. Tướng quân hãy rút ngay đội quân đã bố trí ra
khỏi lễ đài.
Trung
quân há hốc mồm đầy kinh ngạc:
-
Đã ra lệnh giết nay lại ra lệnh thôi. Tiện hạ thật
không hiểu nổi.
-
Từ Hải xin tuân phục, ta đã viết minh văn, nay ta phục
binh chém được đầu nó thì ta mất lòng dân. Sau này làm
sao chúng ta chiêu dụ được những đám giặc khác? Giết
hắn vô tình ta đã phong anh hùng cho nó. Có khi giết được
Từ Hải này lại mọc Từ Hải khác, như vậy lợi bất
cập hại. Tại sao ta lại không dùng giặc lớn giết giặc
nhỏ? Trung quân hãy cầm cờ lệnh này đi bố trí lại
các đơn vị cho lễ quy hàng của Từ Hải vào ngày mai.
Trung
quân nhận cờ lệnh vội vàng đi ngay vì thấy thời gian
không còn nhiều.
Sáng
hôm sau cả thủ phủ Hàng Châu tràn sắc cờ hoa, tiếng
chiêng trống rộn rã, nhiều người dân kéo tới chung
quanh khu lễ đài chờ coi Từ Hải mang quân về quy hàng.
Người ta thấy từ xa Từ Hải cưỡi ngựa đi tới, hai
bên có tùy tướng. Theo sau là một đoàn quân. Tiếng kèn
đồng vang lên, Từ Hải dừng lại, một tiểu tướng của
triều đình bước tới thi lễ, Từ Hải xuống ngựa, cởi
bỏ giáp trụ, khí giới cá nhân rồi theo sự hướng dẫn
bước tới lễ đài nơi Hồ Tổng Đốc đã đứng đợi.
Tiếng chiêng trống vang trời, Từ Hải và Hồ Tôn Hiến
giao bái rồi cùng nhau tiến hành lễ giao kết và vọng
bái Hoàng Đế. Nghi lễ đã xong, Hồ Tôn Hiến dẫn Từ
Hải vào trong đại sảnh dự đại tiệc. Hồ Tổng Đốc
sai quân hầu rót hai chén rượu đầy cho mình và cho Từ
Hải, hai tay nâng chén rượu lên cao rồi nói lớn:
-
Hoàng Đế vạn tuế, vạn vạn tuế, thống nhất sơn hà,
muôn năm trường trị.
Tiếng
hô vang dội tưởng có thể sụp đổ cả sảnh đường.
Từ Hải vòng tay hơi cúi mình trước Tổng đốc họ Hồ
và nói:
-
Thật là đại phúc cho Từ Hải này được Tổng đốc mở
cho con đường sống. Kẻ hèn này nguyện mang hết sức
bình sinh ra lập công trạng để đền đáp ơn cứu sinh
của Tổng đốc.
Hồ
Tôn Hiến hơi cúi mình nói:
-
Nhờ sự sáng suốt, lòng nhân ái với nhân dân của Tướng
quân mà chúng ta mới có ngày hôm nay, xin cạn chén chúc
mừng ngày chúng ta được sống chung dưới một mái nhà.
Sau
đại tiệc, Hồ Tôn Hiến họp với bộ hạ dưới trướng
thấy ai cũng hoan hỷ về thành công dụ được Từ Hải
quy hàng. Riêng Từ Hải trở về doanh trại xuống lệnh
cho quân lính tiếp tục vui chơi, còn phần mình thì hết
bình rượu này tới bình rượu khác với Thúy Kiều trong
vòng tay, tiếng đàn tiếng hát vây bọc, hình như chưa có
chiến thắng nào trong quá khứ đưa đến cho Từ Hải sự
hân hoan như tiệc rượu ngày quy hàng. Có phải vì từ
nay không còn chinh chiến?
Việc
Từ Hải quy hàng cất đi một gánh nặng trước mắt đối
với Hồ Tôn Hiến. Nhưng với số quân giặc đông đảo
vốn thiện chiến áp sát thủ phủ Hàng Châu là một mối
lo của Hồ Tôn Hiến. Ngay từ những ngày đầu họ Hồ
đã cho quân thám sát đám hàng quân phòng bất trắc và
toan tính việc bố trí lại quân của Từ Hải. Nhưng để
yên lòng giặc nên Hồ Tôn Hiến đã không có ngay bất cứ
một hành động nào có thể gây nghi ngờ cho Từ Hải
trong những ngày hòa bình đầu tiên.
Hồ
Tôn Hiến đãi ngộ Từ Hải với một vẻ ân cần nhưng
vẫn xa cách. Khi tham dự vào sinh hoạt nơi cửa quyền Từ
Hải không thể hòa nhập được với các quan chức, thiếu
hẳn những kết thân và trong giao tiếp có hàm chứa sự
nghi kỵ. Ngôi dinh thự, tiêu chuẩn của một chức sắc
cấp cao của vợ chồng Từ Hải cũng chỉ có những thuộc
cấp lui tới. Thúy Kiều khi bước chân vào ngôi dinh thự
nàng thấy như một giấc mơ, nàng háo hức với những
thay đổi. Nàng tự hỏi: có phải cuộc sống trôi nổi
nay đây mai đó cùng với vó ngụa giang hồ không biết
tới ngày mai nay đã là quá khứ? Nàng có một niềm an ủi
nhỏ bên mình đó là Lôi Mộc, người lính già đã đi
theo Từ Hải từ Việt Đông, và A Hoàn ở lầu xanh mà
nàng đã mang theo khi về sống với Từ Hải. Những ngày
vui của cuộc sống mới không kéo dài, Thúy Kiều dần
dần cảm thấy nhịp sống bình yên nhưng sao tẻ nhạt.
Nhiều lúc nỗi nhớ nhà lại dâng lên.
Sau
những ngày nghỉ ngơi Từ Hải họp bộ hạ, khi điểm
mặt thuộc cấp nắm các cánh quân chính Từ Hải ngạc
nhiên không thấy tướng Châu Bá, một chỉ huy trận mạc
can đảm và tài giỏi. Từ Hải ra lệnh cho quân cận vệ
hỏa tốc đi triệu. Lúc sau quân cận vệ về báo: doanh
trại bỏ trống, không một bóng người. Từ Hải đầy
vẻ kinh ngạc. Một tiểu tướng đứng dậy nói:
-
Hồi quá nửa đêm hôm qua quân tuần tiễu đơn vị của
tiểu tướng có thông báo: đơn vị bạn đang đổi địa
điểm đóng quân. Tiểu tướng có ra khỏi trại định
hỏi nhưng nghĩ lại thấy việc binh là cơ mật nên thôi.
Trước khi đoàn quân rời doanh trại đèn đuốc đã được
tắt hết, các toán quân nhỏ rời đi trong trật tự và
im lặng, chỉ trong chốc lát đoàn quân đã mất hút trong
đêm tối.
Từ
Hải hỏi:
-
Bọn nó đi về hướng nào?
-
Họ đi theo hướng đông nam, nếu đi thẳng sẽ tới vùng
biên địa hiểm trở Châu Thai. Vậy đoàn quân ấy di
chuyển không có lệnh của Tướng quân?
Từ
Hải không trả lời và lập tức ra lệnh cho một toán kỵ
binh theo dấu vết của đoàn quân bỏ trốn đuổi theo.
Sau đó Từ Hải ra lệnh cho chỉ huy các đơn vị trở về
doanh trại, chỉnh đốn quân chờ tổng thao dượt. Tới
cuối ngày toán kỵ binh trở về mang theo hai binh sỹ què
chân của đơn vị đã trốn. Hai binh sỹ được dẫn tới
trước mặt Từ Hải. Từ Hải quát lớn:
-
Bọn nó đi đâu hai đứa biết không?
-
Bẩm Tướng quân, nghe nói đi kết nghĩa với quân ở Châu
Thai, đường xa, hai chúng con thì què nên họ bỏ lại dọc
đường.
-
Tại sao bỏ đi?
-
Dạ dạ vì ở đây suốt ngày chỉ tập võ, chạy nhảy
ăn ngủ, chẳng có đánh đấm gì cả làm cuồng chân
cuồng tay. Các huynh đệ đi cả mình ở lại với ai?
Từ
Hải đứng yên nhìn bầu trời thở dài. Một đơn vị bỏ
đi, rồi hai đơn vị và khi quân lính bỏ đi hết thì
điều gì sẽ đến? Từ Hải bần thần nhìn hai chiến
binh từng phục vụ trong đoàn quân của mình đang ngồi
bệt dưới đất, mặt cúi gằm, thân hình tiều tụy,
quần áo rách rưới bẩn thỉu, chân què không đứng lên
được. Từ Hải thấy mủi lòng và nghĩ tới những ngày
tháng đã qua trong cuộc trường chinh: bao nhiêu con người
đã đến với mình, đã gian khổ cùng mình, có người đã
chết vì mình, và chợt một câu thơ cổ mà ai đó đã
đọc cho nghe vang lên trong trí nhớ Từ Hải: nhất tướng
công thành vạn cốt khô. Một lúc sau Từ ra lệnh cho đám
cận vệ lo chăm sóc cho hai chiến binh. Từ Hải lặng lẽ
cầm lấy bình rượu bước ra ngoài vừa đi vừa uống.
Từ
sáng sớm binh lính đã chỉnh tề hàng ngũ. Từ Hải lên
ngựa cùng các tùy tướng lần lượt đi kiểm tra từng
đơn vị một. Việc biến mất đoàn quân tinh nhuệ dưới
quyền tiểu tướng Châu Bá làm Từ Hải lo âu. Nay kiểm
tra thực tế Từ Hải còn nhận ra sự thiếu hụt quân số
trong các đơn vị và nguy hiểm hơn nữa quân lính tỏ ra
mệt mỏi không còn bừng bừng tinh thần chiến đấu như
những ngày tháng cũ. Khi họp các tướng dưới quyền,
một tùy tướng nói:
-
Những ngày qua trong quân có nhiều binh lính đã bỏ trốn,
có kẻ bị bắt lại hỏi nguyên nhân trốn đi thì đứa
nào cũng nói: nhớ nhà muốn về thăm gia đình. Vì nhàn
rỗi còn sinh ra cờ bạc, rượu chè, gây lộn.
Bỗng
có lính canh chạy vào phi báo có Hồ Tổng đốc tới. Từ
Hải vừa bước ra thì Hồ Tôn Hiến cũng đang xuống ngựa
ngoài sân trại. Hai người thi lễ rồi cùng bước vào
đại sảnh nơi đang có mặt những thuộc cấp của Từ
Hải. Hồ Tôn Hiến nói:
-
Được tin Tướng quân thao dượt binh mã nên tới, ai ngờ
còn được gặp mặt các tướng tài ở đây.
Sau
khi chào hỏi mọi người an tọa, Từ Hải nói:
-
Sau khi kiểm tra các đơn vị, anh em chúng tôi thấy có vài
vấn đề phải trao đổi, như sinh hoạt và quân kỷ.
-
Đúng rồi, trong lúc nghỉ ngơi thường nảy sinh tình
trạng vô kỷ luật điều này khắc phục cũng dễ, ngoài
ra còn có vấn đề nào khác không?
-
Một số quân sỹ đã xin được trở về nhà, không cho
đi cũng trốn trại, lệnh cấm quân đã được thi hành,
hình phạt nặng đã được ban bố.
Hồ
Tôn Hiến hơi mỉm cười đưa tay khoác khoác nói:
-
Ồ thế thì không nên, phải nhìn rõ vấn đề. Quân lính
sau nhiều năm chinh chiến muốn về nhà là nguyện vọng
chính đáng, nay ta dùng kỷ luật giữ lại e họ bất mãn
và mất tinh thần chiến đấu. Binh sỹ dưới trướng của
Tướng quân nay cũng là quân của triều đình. Việc chỉnh
đốn binh mã của Tướng quân là rất cần thiết. Ở
cương vị Tổng đốc tôi tự thấy có thiếu sót: các
chiến binh về với triều đình chưa được tưởng
thưởng. Tôi đề xuất với Tướng quân thế này: tưởng
thưởng cho những ai tình nguyện ở lại trong quân ngũ,
giúp lương thực, phương tiện cho những ai muốn trở về
nhà, điều này phù hơp với chính sách an dân của triều
đình. Bước sau đó là kiện toàn các đơn vị, việc
thiếu quân số sẽ được bổ xung từ những đơn vị
khác hoặc mở hội tuyển quân mới. Tướng quân thấy
thế nào?
Từ
Hải ngẩn người đứng nghe bỗng giật mình với câu hỏi
của Hồ Tôn Hiến. Từ Hải vòng tay đầu hơi cúi xuống:
-
Đa tạ Tổng đốc, thuộc cấp sẽ thực hiện ngay những
đề xuất của Tổng đốc.
Sau
một hồi trò chuyện Hồ Tôn Hiến lên ngựa ra về với
vẻ mặt tươi vui khác thường. Khổng Trung quân đi sát
bên hỏi:
-
Tiểu tướng chưa từng thấy khi nào Tổng đốc vui như
ngày hôm nay?
-
Cả một gánh lo âu đè nặng trên vai đã được cất bỏ.
Giặc Từ Hải thực tế đã tự tan rã, như thế không
vui sao được!
Hồ
Tôn Hiến vừa nói vừa gật gù, thả lỏng cương ngựa
trở về dinh.
Sau
khi đề xuất của Hồ Tôn Hiến được Từ Hải cho thực
hiện số quân cũ không còn bao nhiêu, nó đã tan loãng vào
quân của triều đình và những tân binh mới được tuyển
bổ xung. Binh lính dưới quyền Từ Hải nay không còn là
những nghĩa sỹ trừ gian diệt bạo, lấy của người
giàu chia cho người nghèo, nay họ là những binh sỹ bảo
vệ triều đình, chống những ai nổi dậy đe dọa uy
quyền của triều đình. Không phải tất cả những cựu
binh của Từ Hải được giải ngũ đều trở về nhà mà
một số túa vào Hàng Châu kiếm ăn bằng nhiều cách: kẻ
khỏe mạnh có võ nghệ được các cao lâu, tửu điếm,
nhà chứa thuê canh gác, kẻ thì làm phu phen, kẻ đi ăn
trộm ăn cắp. Và có cả những kẻ lê lết ăn xin trên
đường. Một số khác đi nhập bọn với những đám giặc
mới nổi lên.
Quân
số đã đủ, hàng ngũ đã ổn định là lúc Hồ Tôn Hiến
cho Từ Hải bố trí lại các địa điểm đóng quân. Các
đơn vị tiền phương được đưa đến những nơi hiểm
yếu, đơn vị chỉ huy của Từ Hải đóng ở trung tâm
nhưng lùi lại phía sau, tất cả đều ở xa thủ phủ
Hàng Châu, khiến cho Từ Hải thường xuyên phải xa nhà
và Thúy Kiều thì một mình một bóng. Từ Hải muốn vợ
ở gần mình nhưng phân vân chưa quyết. Những đe dọa đã
xuất hiện ở phía trước, nhiều ổ giặc đang lớn
mạnh, có ổ giặc đã mở rộng vùng kiểm soát làm dân
chúng phải bỏ chạy. Thủ phủ Hàng Châu cũng không yên
ổn với làn sóng người nghèo từ các vùng nông thôn
chạy lên kiếm sống vì mất mùa, vì trộm cướp, vì
quan lại địa phương bóc lột áp bức. Không có nghề,
để sống họ làm phu phen, bán hàng rong, nhiều cô gái bị
dụ vào các nhà thổ, tăng thêm đội quân ăn cắp, cướp
giật, ăn xin, có kẻ cạo trọc đầu vào chùa kiếm ăn.
Một
buổi sáng trong khi Thúy Kiều đang ở trong phòng thì một
lính gác vào báo có khách xin gặp, Thúy Kiều ngạc nhiên
tự hỏi ai vậy? Tìm gặp mình hay gặp chồng? Người lạ
hay người quen? Thúy Kiều ra lệnh mời khách vào. Nàng
bước ra cửa nhìn thấy ba người đang bước qua cổng
vào sân. Đi trước là một phụ nữ, đi sau có người
đàn ông mặc áo nâu vác trên vai một hòm gỗ nhỏ, người
thanh niên đi sau xách một chiếc giỏ đan bằng tre, Thúy
Kiều bước ra hiên, ba người khách đứng lại, người
đàn bà cúi lạy, hai người đi sau cũng làm theo. Thúy
Kiều cúi đầu chào lại hỏi:
-
Bà là ai? Gặp tôi có việc gì?
Người
đàn bà tươi cười, hai bàn tay mở ra trước mặt với
vẻ hớn hở:
-
Phu nhân không nhận ra con sao? Con từng hầu hạ phu nhân ở
nhà bà Hoạn Thư.
Thúy
Kiều sững người khi nghe hai tiếng Hoạn Thư và trong trí
nhớ bỗng hiện ra những ngày hoảng loạn khi bị bắt
cóc đưa tới một tòa dinh thự, nàng cố nhớ lại những
người chung quanh, nàng không thể nhớ được bất cứ
một khuôn mặt nào trừ người đàn bà cay độc mà sau
đó nàng đã ra lệnh cho quân lính hành hạ. Thúy Kiều ra
dấu cho người đàn bà bước vào nhà. Thúy Kiều ngồi
xuống ghế lấy lại bình tĩnh. Người đàn bà bước qua
cửa ngồi xệp ngay xuống nền gạch, bảo hai người đi
theo để thùng gỗ và chiếc giỏ trước mặt Thúy Kiều
rồi ra ngoài, người đàn bà nói:
-
Phu nhân không nhớ con nhưng con nhớ Phu nhân. Từ đó đến
nay đã lâu mà thấy phu nhân không hề đổi khác. Con xin
chúc mừng phu nhân.
-
Bà nói ngay đi: bà tới gặp tôi có việc gì?
-
Con vâng lệnh Hoạn Tiểu Thư mang tặng phẩm tới đây
trước hết để chúc mừng Phu nhân nay đã là một phu
nhân có phẩm trật trong triều đình và sau là để tạ
ơn Phu nhân ngày xưa đã tha chết cho mình. Hiện nay Thúc
Lang cũng đã ra làm quan ở Lâm Truy, Tiểu thư nói rất
mong có dịp được đón tiếp Phu nhân.
Thúy
Kiều đầu óc rối loạn sau khi nghe người đàn bà nói.
Sao lại chúc mừng rồi tặng phẩm. Thấy Thúy Kiều im
lặng lắng nghe, người đàn bà kể tiếp:
-
Sau hồi hoạn nạn bà Hoạn cho xây một am thờ Phật,
hàng ngày đọc kinh. Một hôm có người ở Hàng Châu
xuống kể chuyện Tướng quân Từ Hải đã tuân phục
triều đình, nghe vậy bà Hoạn hỏi tin tức của phu nhân,
người ấy còn nói: bây giờ Tướng quân đã thuộc hàng
nhất phẩm triều đình và phu nhân đang sống trong một
dinh thự lớn có lính gác, có kẻ hầu người hạ, câu
chuyện hình như làm bà Hoạn có phần nghĩ ngợi. Ít lâu
sau Thúc Lang ra làm quan. Thúc Lang mới đầu không chịu
bảo: đi buôn có tiền nhiều là đủ sung sướng rồi,
làm quan vắt họng dân lấy tiền tiêu bất nhân lắm, còn
thanh liêm thì vừa nghèo vừa dễ đi tù. Bà Hoạn bảo:
mình có thế lực của cha chỉ cần lót một ít vàng đủ
để chàng làm quan lớn. Mình không cần vắt tiền nhỏ
của dân, mình dùng thế lực để đi buôn, thu lợi lớn
ta chia bớt cho bọn ở trên cùng bọn ở dưới, như thế
còn đứa nào dám động vào ta. Làm quan là để đi buôn
mau giàu thôi. Có tiền bạc mua gì cũng được, nghe thiếp,
mình muốn bao nhiêu nàng hầu thiếp cũng chiều, nay thiếp
đi tu không cần chồng nữa.
Thúy
Kiều đứng lên khỏi ghế:
-
Thôi tôi không muốn nghe những chuyện trần ai của chị
nữa. Chị cũng mang ngay những quà tặng này đi, tôi không
nhận.
Người
đàn bà khóc rống lên, vừa chắp tay lạy vừa kêu than:
-
Trăm lạy Phu nhân, xin Phu nhân nhận cho nếu không con sẽ
bị đuổi ra khỏi nhà họ Hoạn biết làm gì mà sống,
lạy Phu nhân con xin đi.
Người
đàn bà tất tưởi đứng lên đi giật lùi hết hiên nhà
rồi mới quay người để đi ra phía cổng. Thúy Kiều
bước ra hiên đứng nhìn theo. Bỗng người đàn bà dừng
lại quay nhìn vào hiên, tần ngần một lúc rồi chạy
nhanh tới bên nàng Kiều và nói với giọng nhỏ đi:
-
Con thương Phu nhân đã từng đau khổ nên con phải nói
điều này với Phu nhân: bà Hoạn trong khi thuyết phục
chồng ra làm quan còn nói: thiếp biết chàng vẫn còn
thương nhớ Thúy Kiều, cứ đợi đấy, thiếp sẽ cho
khiêng vàng lên thủ đô tìm cách làm cho Từ Hải nếu
chưa phơi thây nơi chiến địa mà còn sống thì cũng thân
bại danh liệt và lúc đó thiếp đưa Thúy Kiều về hầu
hạ chàng. Hãy tin thiếp đi, có tiền mua gì cũng được
– người đàn bà ngừng lại một chút – xin Phu nhân
hãy giữ mình.
Hết
lời, người đà bà chạy nhanh ra khỏi cổng dinh. Thúy
Kiều trở vào phòng vật mình xuống giường mà khóc. Có
thể tin vào những lời của người đàn bà kia không?
Kiều cảm thấy như một tấm lưới tối đen đang chụp
xuống vây phủ lấy nàng.
Những
ngày đêm lo âu không có Từ Hải ở bên càng làm cho Thúy
Kiều heo hắt. Cả một chuỗi những ngày tháng cũ trở
về trong trí nhớ: lúc rời Bắc Kinh ra đi khởi đầu
những đau khổ, những vùi dập bởi những kẻ xa lạ,
ngày nào ẩn mình nơi cửa Phật và Từ Hải như thần
cứu mạng mang nàng ra khỏi những ngày tháng đen tối.
Nhưng thực tế đã không như nàng mơ tưởng, Từ Hải đã
không thể rời khỏi cuộc đời chinh chiến và những bất
trắc lúc nào cũng đang chờ đợi ở phía trước. Làm
sao để thoát ra? Làm sao để sống? Không có câu trả lời
và nàng nghĩ tới gia đình. Cha mẹ anh em mình bây giờ ra
sao?
Giữa
lúc Thúy Kiều đang buồn nản bỗng quân tiền trạm báo
tin: Từ Tướng quân đang trên đường trở về. Một niềm
vui ào đến khi nghe tiếng vó ngựa dừng lại, Thúy Kiều
chạy ra hiên, Từ Hải vào sân, bước lên hiên cầm lấy
tay vợ.
Trong
những giây phút đầm ấm bên nhau Thúy Kiều không nhắc
đến quà tặng từ Lâm Truy đưa tới, nàng nói lại nhiều
lần một câu ngắn ngủi và tầm thường: thiếp chỉ
mong lúc nào cũng ở bên chàng. Rời khỏi doanh trại quấn
quýt bên vợ Từ Hải thấy thời gian trôi quá nhanh. Một
buổi chiều đang đi dạo trong vườn chợt có một tùy
tướng đi tới trình tờ lệnh của Hồ Tổng đốc: giặc
tấn công vào cánh quân tiền phương. Tướng quân hãy trở
lại mặt trận ngay. Từ Hải cùng đoàn tùy tướng lập
tức lên đường ngay trong đêm. Lúc chia tay Thúy Kiều
nghẹn ngào chỉ nói được một câu ngắn ngủi: Tướng
quân hãy bảo trọng.
Vừa
tới mặt trận Từ Hải đã phải chứng kiến ngay cảnh
những thương binh đang được đưa về phía sau. Vào bộ
chỉ huy, Từ Hải được báo cáo về tình hình, một tiểu
tướng cho biết: giặc có tính toán trong trận đánh vừa
qua vào cánh quân phía nam: chúng lặng lẽ tiến quân hai
mặt áp sát quân ta rồi mới nổi trống tấn công bất
ngờ, quân ta không kịp chống trả và bỏ chạy, giặc
không đuổi theo mà rút đi mất dạng nhanh chóng. Ở phía
bắc chúng cho một đoàn kỵ binh tiến sát vào đơn vị
của ta, chúng chỉ chạy qua la thét dương oai mà không tấn
công rồi quay đầu rút về phía sau, hình như chủ yếu
chúng muốn lung lạc tinh thần quân ta và thăm dò trận
địa. Từ Hải lắng nghe rồi hỏi ý các tùy tướng,
người nói phải chủ động tiến công, người nói hãy
giữ vững trận tuyến.
Từ
tuyến đầu báo tin khẩn cấp: giặc đã tiến nhanh vào
sâu phía bắc và đang tiến lên giao chiến ở mạn nam.
Cùng lúc một đạo quân hùng hậu đang tiến thẳng vào
giữa mặt trận. Từ Hải ra lệnh tiến quân nghênh giặc.
Tổng lực quân triều đình tiến lên không mấy chốc đã
chạm mặt quân giặc dàn ngang phía trước. Từ Hải ra
dấu cho đoàn quân tiên phong dừng lại rồi đứng lên
lưng ngựa quan sát phía trước, Từ Hải giật mình vì
lực lượng đông đảo của giặc, phía trên cùng là một
tên cưỡi ngựa có dáng vẻ một tên chỉ huy, ngay phía
sau vượt lên cao có một lá cờ lớn màu vàng trên có
viết hai chữ ĐẠI NGHĨA tung bay trong gió. Từ Hải từ
phía sau phóng ngựa lên phía trước đối mặt với địch
quân. Bỗng từ phía giặc tiếng trống trận vang lên,
đoàn quân cất bước như bức tường thành di động. Từ
Hải cố gắng giữ chắc cương ngựa. Bỗng tướng giặc
dơ tay lên cao, tiếng trống ngừng bặt, quân lính đứng
yên. Từ Hải thúc ngựa vượt lên đứng đối diện với
tên tướng giặc:
-
Mày có biết ta là ai không mà giám mang quân tới đây đối
địch?
Tướng
giặc cười lớn vẻ ngạo mạn:
-
Xin chào Minh Sơn tướng quân.
Từ
Hải cầm thanh đao chỉ vào mặt tên tướng trẻ:
-
Có phải xưa kia mày từng theo ta chinh chiến?
-
Phải, xưa kia tôi ở dưới trướng của Từ Minh Sơn.
-
Vậy sao nay lại làm giặc?
-
Tôi đi theo con đường ngày xưa của Minh Sơn.
-
Con đường nào?
-
Con đường làm giặc. Từ Hải thừ người im lặng, không
gian câm nín, hình như gió đã ngừng thổi, những kẻ thù
địch nhau đều bất động. Từ Hải la lớn:
-
Mày muốn làm giặc suốt đời sao?
-
Tôi không đi làm giặc để rồi làm nô tài. Kẻ cầm
quyền dùng bạo lực để thống trị và bóc lột dân
đen. Bọn nó dùng rượu ngon thịt béo để mua rẻ lương
tâm những kẻ chống đối và biến họ thành những nô
tài. Họ chấp nhận làm nô tài chỉ vì miếng đỉnh
chung. Từ Hải hãy đừng làm nô tài nữa, hãy trở lại
làm giặc đi.
-
Nhà ngươi không thể suốt đời làm giặc, hãy theo ta về
quy thuận triều đình. Ta bảo đảm: nếu nhà ngươi tuân
phục sẽ được phong tước, sẽ có cuộc sống sung
sướng, hãy đi theo con đường ta đã lựa chọn.
-
Không, không bao giờ ta đi theo con đường của nhà ngươi.
Minh Sơn đã bị chặt đầu từ khi nhận làm nô tài cho
Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết mà không có cơ hội như
những kẻ bị chặt đầu khác mà trước khi đầu lìa
khỏi cổ còn có thể gào lên cho những kẻ bu quanh nghe
một câu nói truyền thống của kẻ bị hành hình: hai
mươi năm sau sẽ có một tay anh hùng hảo hớn … Lời
cuối cùng của ta: Muốn sống thì hãy trở lại làm giặc.
Từ
Hải nhìn đám giặc cuồng nhiệt trước mặt đang hô
vang: giết nó đi, giết nó đi. Đoàn quân của triều đình
xao động. Tiếng trống trận vang dội, tên tướng trẻ
xông lên miệng la lớn:
-
Tao hóa kiếp cho mày
Nhanh
như chớp viên tướng trẻ đã xông lên, quay ngang ngọn
thương đâm vào ngực Từ Hải. Quá bất ngờ khiến Từ
Hải trở tay không kịp ngã lăn xuống ngựa không một
tiếng kêu. Quân triều đình thấy Từ Hải bị hạ thì
tan vỡ trong hoảng loạn cố gắng trống trả và tìm
đường thoát thân. Quân giặc thừa thế xông lên như
thác lũ, Từ Hải nát thây dưới hàng hàng lớp lớp
những gót chân người ngựa dày xéo vượt lên phía
trước.
Tin
quân giặc đang tiến vào Hàng Châu theo gót ngựa phi đến
nhanh tới dân chúng. Nỗi kinh hoàng ập xuống, những nét
mặt thất thần, những bước chạy cuống quýt, những
tiếng la thất thanh và chẳng mấy chốc náo động mỗi
lúc một tăng, mọi người tất bật vội vàng thu xếp và
tìm đường bỏ chạy. Ngọn lửa đã vươn cao tứ phía,
tiếng kêu cứu hình như không còn ai nghe. Tiếng gọi
nhau, tiếng la khóc, tiếng ngựa hí như khuấy động những
đám khói đen trên bầu trời Hàng Châu.
Nghe
tin dữ Thúy Kiều bàng hoàng đi ra đi vào.
Người
lính già Lôi Mộc chạy vào báo:
-
Quân giặc đang tiến tới, quân triều đình đã tan vỡ,
không có tin tức gì của Từ Tướng quân, chúng ta phải
rời khỏi Hàng Châu ngay.
Thúy
Kiều như người mất hồn chỉ còn biết làm theo người
lính hầu trung thành Lôi Mộc với sự giúp đỡ của A
Hoàn: cải trang làm một thường dân, bôi nhem mặt, một
cái khăn lớn trùm lên đầu và không quên lấy đi tư
trang và vàng bạc bỏ vào trong một cái bị đeo lên vai.
Ra khỏi dinh được một quãng Thúy Kiều gặp một đám
đông hò hét đi ngược lại, họ xông vào ngôi dinh thự
nàng vừa bước ra khỏi và ngay sau đó thấy ngọn lửa
đã bốc lên ngùn ngụt. Thúy Kiều một tay giữ chặt lấy
tay A Hoàn, tay kia bám vào vai Lôi Mộc cố gắng bước
theo đám người tháo chạy ra khỏi cửa thành Hàng Châu
đang bốc cháy.
* Ở dưới câu truyện này trong sách TRƯỜNG DẠ KÝ của HOÀI ĐIỆP NHÂN có ghi những dòng sau đây: Trong thời gian ở Kinh đô ta vào thư ốc đọc sách thấy có tập Sưu Tặc Ký đã rách nát không có tên tác giả. Tập sách cả ngàn trang chỉ viết về những kẻ làm giặc. Ta thấy Từ Hải Ngoại Truyện không giống những truyện ta đã đọc trong những sách khác nên chép lấy không thêm bớt gì. Nhân vật Từ Hải có mặt trong nhiều sách truyện khác nhau, có truyện mấy trăm trang, có truyện chỉ vài trang. Từ Hải chỉ có một nhưng ở mỗi cuốn sách lại là một Từ Hải khác. Trong sách Sưu Tặc Ký ngoài Từ Hải còn có nhiều tên giặc khác đều nổi lên ở Sơn Đông men theo bờ biển tới tận Nam Bình, những đám giặc này đều xuất thân từ dân chài lưới. Điều này khiến ta thực hiện một chuyến nhàn du vùng đất giặc.
* Ở dưới câu truyện này trong sách TRƯỜNG DẠ KÝ của HOÀI ĐIỆP NHÂN có ghi những dòng sau đây: Trong thời gian ở Kinh đô ta vào thư ốc đọc sách thấy có tập Sưu Tặc Ký đã rách nát không có tên tác giả. Tập sách cả ngàn trang chỉ viết về những kẻ làm giặc. Ta thấy Từ Hải Ngoại Truyện không giống những truyện ta đã đọc trong những sách khác nên chép lấy không thêm bớt gì. Nhân vật Từ Hải có mặt trong nhiều sách truyện khác nhau, có truyện mấy trăm trang, có truyện chỉ vài trang. Từ Hải chỉ có một nhưng ở mỗi cuốn sách lại là một Từ Hải khác. Trong sách Sưu Tặc Ký ngoài Từ Hải còn có nhiều tên giặc khác đều nổi lên ở Sơn Đông men theo bờ biển tới tận Nam Bình, những đám giặc này đều xuất thân từ dân chài lưới. Điều này khiến ta thực hiện một chuyến nhàn du vùng đất giặc.
Từ
đầu chuyến đi tới đâu ta cũng gặp người già cả để
hỏi về tung tích những anh hùng hảo hán trong vùng, cụ
thể như Tướng quân Từ Hải. Sau câu hỏi ai cũng lắc
đầu và bảo: chả có anh hùng hảo hán nào ở đây cả.
Khi gặp những nơi thờ tự ta đều ghé lại chỉ thấy
các am thờ các vị thần như thần Đất, thần Sấm, thần
Mưa, thần Gió… Có am thờ một con chó đá. Không thấy
có nơi nào thờ nhân thần hay thánh nhân. Đặc biệt ở
ven biển Hoàng Vị có một ngôi miếu thờ Cá Ông nằm
trên một gò đất cao, trong miếu có xác một bộ xương
cá để trong chiếc hòm dài. Một bô lão cho biết: miếu
thờ có từ xa xưa, theo các cụ truyền lại thì Cá Ông
rất nhân đức đã từng cứu những thuyền gặp nạn
ngoài khơi đưa vào bờ. Sau này gặp những Cá Ông chết
giạt vào bãi biển người dân đều làm lễ mai táng ở
sau miếu. Hàng năm dân chúng còn mở hội cúng Cá Ông để
cầu yên cho nghề biển. Ta đi khắp nơi không thấy có
lăng mộ và nghĩa địa nên thắc mắc. Một cụ già chỉ
ra biển: chúng tôi sống nhờ biển nên chết về biển.
Những kẻ đi xa chết ở đâu thì nằm ở đó không được
đưa về. Trong chuyến đi ta có thấy dấu vết một ngôi
nhà đã đổ nát nhưng còn một tấm bia ghi ba chữ Văn
Thánh Miếu. Theo như lời kể: xưa kia có một người sinh
ra ở đây tới khi trưởng thành bỏ quê ra đi sau đó trở
về dựng ngôi nhà này và làm thầy dạy chữ cho trẻ
nhỏ. Mới đầu có dăm mười đứa, sau dần chẳng còn
đứa nào vì chúng phải đi theo bố mẹ kiếm ăn. Ông
thầy bỏ đi, ngôi nhà hoang phế sụp đổ và gió mưa hủy
hoại còn chăng mấy tảng đá cũng đang mòn dần theo thời
gian.
Trước
phế tích của ngôi Văn Thánh Miếu ta chợt nhớ tới một
giai thoại kể chuyện Khổng Tử trên đường du thuyết
qua các nước. Một hôm thầy Khổng ngồi xe đi trên đường
thì thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng
cho dừng xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ
con gầy còm nhếch nhác vây quanh. Ông lão nói: nghe thiên
hạ nói ngài có nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng
Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận
tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm nghía rồi lật những
trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đưa trả
thầy Khổng và nói: tôi không biết dùng cái này để làm
gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ phía một người
trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì
đối với những người không có cơm ăn và mù chữ. Ông
hãy bước chân xuống ruộng đi cày, trồng lúa rồi lấy
thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó
không cho biết hành xử của thầy Khổng ra sao.
Trong
Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc thường xuất
thân là dân thuyền chài, kẻ cày ruộng, người chăn
trâu, kẻ đốn củi. Tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào
từng đậu tiến sỹ, trạng nguyên. Không tên giặc nào
có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan, làm thầy giáo
mà đi làm giặc. Những kẻ biết chữ bất mãn với triều
đình không chọn con đường làm giặc nên không thấy nói
đến trong Sưu Tặc Ký. Ở những sách khác có viết về
những kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ
tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca sưu
cao thuế nặng khiến dân đen chết đói, khi kêu oan cho
lương dân bị chết chém… Những lá sớ lâm ly thảm
thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ
nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm
phó thường dân mà vẫn ung dung tại vị hưởng bổng lộc
của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có chút tự
trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường
làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký. Trong Sưu Tặc
Ký cũng không có truyện nào nói về trường hợp những
tên giặc sau đó đã xưng đế hiệu.
Từ
những trang sách tới thực tế của chuyến đi làm ta hoài
nghi những ghi chép của người xưa. Cả một vùng đất
giặc mà không tìm ra được tung tích một anh hùng hảo
hán nào, thế là làm sao? Nhưng nghĩ lại thấy ta vô lý.
Tác giả Sưu Tặc Ký đã viết Từ Hải Ngoại Truyện chứ
đâu phải Từ Hải Chính Truyện. Nhiều sách truyện đã
để cho Từ Hải chết đứng giữa trận tiền và phải
đợi cho Thúy Kiều kêu khóc thảm thiết xác chết mới
chịu ngã xuống. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng.
Anh hùng phải chết giữa trận tiền bởi gươm đao, chết
chém giữa chợ bởi quân đao phủ chứ không thể để
anh hùng chết trên giường ngủ. Trong ngoại truyện Từ
Hải đã bỏ con đường làm giặc mà tuân phục triều
đình sau đó bị giặc giết. Cuối cùng Từ Hải đã chết
nhưng chết một cách khác, không phải cách chết đứng
giữa trận tiền. Nhiều sách tạo ra những anh hùng như
mô tả một kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy
thân mình bịt họng súng thần công, ôm bom lao vào quân
giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng trong sách đó
chẳng bao giờ người ta có thể tìm ra tung tích.
Suốt
một chuyến đi dài tới vùng đất giặc cuối cùng chỉ
có mỗi chuyện bộ xương Cá Ông trong ngôi miếu thờ là
đáng ghi lại mà thôi.
Dương
Nghiễm Mậu