Kỳ Liên Sơn |
Con
đường tơ lụa từ Trường An đến Địa đầu vùng
Trung Á có tổng số chiều dài đến 7.000 km thì hành
lang Hà Tây chiếm gần hết 3.000 km. Đó là một dãy dài
hẹp có màu xanh, trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa
mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ. Nhiều thành thị nằm
dọc hành lang này như Thiên Thủy, Cam Châu, Túc Châu, Đôn
Hoàng (Sa Châu)… nhờ sự thông thương của con đường
tơ lụa mà trở thành những trung tâm giao lưu kinh tế văn
hóa rất phồn thịnh.
Dọc
hành lang cũng có nhiều vùng khí hậu tương đối tốt,
cỏ nước phong phú giúp cho nông nghiệp và chăn nuôi phát
triển khá sớm. Những khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà
Hoàng… có nhiều địa thế hiểm yếu, là tiền đồn
bảo vệ Trung Nguyên từ thời Hán Đường và đã trở
thành vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử Trung
Quốc.
1. KHU
VỰC ÂM SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY
Ra
khỏi Hàm Dương, theo con đường tơ lụa đi về hướng
Tây Bắc khoảng 50km (một km tương đương với hai dặm
ngày xưa), sẽ đến Thể Tuyền (ngày nay đổi tên thành
Lễ Tuyền). Ở đây có lăng mộ của Đường Thái Tông
(Chiêu Lăng). Tiếp tục đi về phía Tây thêm 30km nữa đến
Phụng Thiên (nay là huyện Càn tỉnh Thiểm Tây), ở đây
có lăng mộ của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên (Càn
Lăng). Cả hai nơi đều là những điểm du lịch nổi
tiếng ngày nay.
Rời
Phụng Thiên, đi về hướng Tây Bắc khoảng 120km sẽ đến
Châu Trị An Định Đô Kinh Châu. Sau đó có thể vượt ải
Tiêu Quan để đi qua Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến
Lương Châu, một trọng trấn trên con đường tơ lụa. Đó
là con đường lớn độc nhất thông giữa Trường An với
Tây Vực mà từ thời Tần Hán còn được mệnh danh là
“Hồi Trung Đạo”. Kinh Châu là thành phố chủ yếu của
“Hồi Trung Đạo”.
Khoảng
giữa Kinh Châu và Nguyên Châu (nay là Cố Nguyên Ninh Hạ),
là tòa quan ải trọng yếu trên con đường giao thông Đông
– Tây: Tiêu Quan (tại phía Bắc Nguyên Châu và phía Nam
huyện Hồi Nhạc cũng có huyện Tiêu Quan. Hai nơi này chỉ
trùng địa danh chứ không cùng địa phương). Tất cả
những bài thơ Biên Tái nổi danh có đề cập đến Tiêu
Quan là đều nói về tòa quan ải này. Hành nhân khi đến
Tiêu Quan, đưa mắt về hướng Tây, một bầu trời cảnh
sắc biên tái đập vào mắt. Không chỉ có khí hậu địa
vật thay đổi mà cả đến phong tục tập quán cũng trái
ngược hẳn Trung Nguyên. Những trận cuồng phong nối
tiếp, cát bay mù mịt, cát đập vào mình ngựa. Khí hậu
khô kiệt và lạnh giá, thảo mộc không thể sinh sôi,
thậm chí những ngôi chùa cũng không có bóng tre trúc. Nhà
nhà đều treo cung đao trên vách, sĩ binh không rời áo
giáp để kịp thời chiến đấu khi có địch xâm nhập.
Ở đây hoàn toàn không thấy hình bóng khách nhàn du. Cảnh
tượng như vậy trải dài tận ngoài tầm mắt từ Tiêu
Quan vọng hướng Lâm Thao.
Tại
phía Bắc, lộ tuyến Bắc của con đường tơ lụa là một
vị trí chiến lược tối quan trọng mà binh gia của các
phe đều muốn làm chủ được tình hình. Đó là khu vực
Âm Sơn và Hạ Lan Sơn. Phía Đông Hạ Lang Sơn là thành
Diêm Châu, đời Đường còn có tên Ngũ Nguyên, (hiện nay
khu tự trị nội Mông Cổ gần Aâm Sơn cũng có tên Ngũ
Nguyên nhưng không phải thành Ngũ Nguyên đời Đường).
Thành Ngũ Nguyên (Diêm Châu) từ xưa đến nay vốn thuộc
huyện Định Biên, nằm về Bắc bộ tỉnh Thiểm Tây.
Thành Diêm Châu do Hoàng Đế hạ lệnh xây dựng vào năm
Trinh Nguyên thứ nhất Đường Đức Tông, nhằm củng cố
biên phòng và đã đem lại hiệu quả rất lớn. Từ ngày
hoàn tất thành Diêm Châu cho đến nhiều thập kỷ sau,
quân Thổ Phồn không dám dòm ngó Trung Nguyên, ngay cả các
sắc dân du mục khi săn bắt hoặc chăn thả súc vật cũng
phải cách xa chân thành 100 km.
Ngũ
Nguyên (tức Diêm Châu) có vị trí địa lý thiên Bắc.
Khí hậu khô khan lạnh lẽo, mùa xuân đến rất chậm và
tồn tại rất ngắn. Nhà thơ Trương Kính Trung đời
Đường có viết bài thất tuyệt “Biên Từ” mô tả
hiện tượng này.
遍詞張敬忠
五原春色舊來遅
二月垂楊未挂絲
卽今河畔冰開日
正是長安花落時
Âm:
BIÊN
TỪ (Trương Kính Trung)
Ngũ
Nguyên xuân sắc cựu lai trì
Nhị
nguyệt thùy dương vị quải ti
Tức
kim hà bạn băng khai nhật
Chính
thị Trường An hoa lại thì.
Dịch:
LỜI
BIÊN TÁI
Ngũ
Nguyên xuân muộn từ xưa
Tháng
hai tơ liễu còn chưa buông mành
Ở
đây tuyết bắt đầu tan
Trong
khi hoa đất Trường An rụng đầy.
Ý
thơ: mùa xuân ở Ngũ Nguyên đến rất trễ, đã tháng hai
rồi (chỉ âm lịch) mà dương liễu chưa rũ tơ, những
dòng sông băng mới bắt đầu tan chậm, nếu là đất
Trường An thì hoa xuân đã tàn tạ. Bài thơ ngoài nghệ
thuật cao, còn có cả giá trị khoa học tự nhiên, ghi
nhận được hiện tượng của “Vật Hậu học”. Những
ghi chép này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu những
biến thiên của khí hậu.
Nhà
thơ Lý Ích (một trong Đại Lịch thập tài tử) là người
Lương Châu, sinh năm Thiên Bảo thứ 7 Đường Huyền Tông
(CN 748). Năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 764)
ông 17 tuổi. Lúc đó Thổ Phồn công hãm Lương Châu, ông
cùng gia đình lánh nạn đến Lạc Dương (nay thuộc tỉnh
Hà Nam). Năm Đại Lịch thứ tư Đường Đại Tông (CN
769), họ Lý đậu tiến sĩ. Bấy giờ quân Thổ Phồn tràn
xuống Trung Nguyên đánh phá khắp nơi, thậm chí kinh đô
Trường An cũng bị chiếm lĩnh. Năm Đại Lịch thứ 9 (CN
774), đại tướng Đường triều Quách Tử Nghi kiến nghị
tiến hành đại qui mô quân sự đối phó quân Thổ Phồn.
Lý Ích tòng quân gia nhập Mạc phủ Vị Bắc Tiết Độ
Sứ Tàng Hy Nhượng. Ông đã đến Trường An theo đoàn
quân Bắc tiến đi qua Ngũ Nguyên, Hạ Châu, vượt sa mạc
Phá Nột Sa đến ba tòa Đông, Trung, Tây của Thụ Hàng
thành. Trên đường hành quân, họ Lý đã viết nhiều bài
thơ Biên Tái độc đáo được truyền tụng rất rộng.
Như bài “Tống Liêu Dương Sứ Hoàn Quân” được vẽ
thành đồ họa, bài “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn
địch” được soạn thành ca khúc. Những bài này sẽ đề
cập sau, khi nói về những địa danh có liên quan đến
con đường tơ lụa.
Khi Lý
Ích đi qua Du Lâm thuộc khu vực Âm Sơn của hành lang Hà
Tây, có viết bài thất tuyệt “Thính Hiểu Giác”, mô
tả tiếng còi sừng buồn thảm của buổi sớm nơi đây:
聴曉角
李益
遍霜昨夜墜關楡
吹角當城漢月孤
無限塞鴻飛不度
秋風卷入小單于
Âm:
THÍNH
HIỂU GIÁC (Lý Ích)
Biên
sương tạc dạ trụy Quan Du
Xuy
Giác đương thành Hán Nguyệt cô
Vô
hạn tái Hồng phi bất bộ
Thu
phong quyển nhập tiểu Thiền Vu.
Dịch:
NGHE
TIẾNG CÒI SỪNG BUỔI SỚM
Đêm
qua sương phủ khắp Du lâm
Còi
sừng thành lặng bóng trăng tàn.
Quan
tái nhạn hồng bay khó vượt
Vẳng
nghe hồ khúc buồn xé gan.
Bài
thơ diễn đạt những màn sương thu biên tái đã rơi
xuống vùng Du Lâm. Mảnh trăng tàn vẫn còn treo lơ lững,
tiếng còi sừng trên thành bỗng trỗi lên khúc nhạc Hồ
(Hung Nô) buồn thảm, làm cho đàn nhạn từ Nam lên Bắc
cũng không dám vượt quan san.
Hai
chữ “Quan Du” trong câu đầu đã làm cho nhiều người
tưởng là cây du bên quan tái, vì nhầm lẫn với bài
“Tòng quân hành” cũng của Lý Ích “Quan thành du diệp
tảo sơ hoàng. Nhật mộ sa vân cổ chiến trường” (Lá
du trở vàng trên quan ải. Chiều hôm mây cát chiến trường
xưa”. Còn một cách giải dịch khác, “Quan Du” là “Du
quan”, tức Du Lâm Quan (nay là khu Mông Cổ tự trị Chuẩn
Cách Nhĩ Kỳ). Cho nên câu đầu của bài “Thính Hiểu
Giác” phải dịch là “Sương đêm của miền biên tái
đã rơi xuống Du Lâm Quan”.
Phía
Đông Ngũ Nguyên (phụ cận vùng Du Lâm tỉnh Thiểm Tây)
có một con sông tên Vô Định Hà. Sông này phát nguyên từ
khu Mông Cổ tự trị Ngạc Nhĩ Đa Tư, chảy về hướng
Đông Nam qua Du Lâm, huyện Mễ Chi, huyện Thanh Giản (thuộc
tỉnh Thiểm Tây) rồi nhập vào Hoàng Hà. Đây là con sông
nước chảy rất siết đem theo nhiều bùn cát, sâu cạn
khó dò và thường khi thay đổi dòng chảy nên mới có
tên Vô Định Hà. Vô Định Hà là con sông nhỏ không có
trong bản đồ, nhưng là khu biên tái quan trọng thời Hán
Đường. Thời Hán quân Hung Nô thường theo ngã này xâm
nhập và đánh phá Trung Nguyên, cho nên hai bờ sông thường
xảy ra những trận chiến khốc liệt. Cho tới đời
Đường, nhà thơ Trần Đào khi qua đây, vẫn còn chứng
kiến những bãi xương khô phơi trắng hai bờ. Ông cảm
xúc hình dung những trận đánh ác liệt trên chiến trường
xưa và viết bài thất tuyệt “Lũng Tây Hành”. Nhờ đó
mà con sông Vô Định trở nên nổi danh.
隴西行陳陶
誓掃匈奴不顧身
五千貂錦喪胡塵
可憐無定河遍骨
猶是春閨夢里人
Âm:
LŨNG
TÂY HÀNH (Trần Đào)
Thệ
tảo Hung Nô bất cố thân
Ngũ
thiên điêu cẩm táng Hồ Trần.
Khả
liên Vô Định hà biên cốt
Do thị
xuân khuê mộng lý nhân.
Dịch:
BÀI
HÀNH QUA ĐẤT LŨNG TÂY
Liều
thân phá giặc biên thùy
Năm
ngàn tướng sĩ vùi thây đất Hồ.
Bờ
Vô Định bãi xương khô
Mà
phòng khuê vẫn mộng chờ chinh nhân.
Bài
thơ diễn tả lòng quyết tâm tiêu diệt Hung Nô không kể
gì mạng sống. Trong trận chiến này, hàng mặc áo Điêu
Cừu của Vũ Lâm quân cũng bỏ xác thê thảm đến năm
ngàn người. Tội nghiệp cho những bãi xương khô hai bên
bờ sông Vô Định, trong khi những thiếu phụ nơi phòng
khuê quê nhà vẫn mộng nhớ người thân.
Phía
Đông Diêm Châu và phía Bắc Hạ Châu là sa mạc Phá Nột
Sa, còn gọi là sa mạc Phổ Nột Sa (nay là Khố Bố Tề
sa mạc). Phía bắc Phá Nột Sa là Phong Châu, một địa
điểm trọng yếu của khu vực Âm Sơn, ngay từ thời cổ
đại, đây là nơi tụ cư của một dân tộc du mục
phương Bắc. Một vùng thảo nguyên bao la, cỏ nước phong
phú, bò dê béo tốt. Cuộc sống con người, dù là du mục,
rất sung túc yên vui. Vào thời Bắc Tề (CN 550-577) có một
nhà thơ vô danh sáng tác bài “Sắc Lặc ca”, một bài
dân ca mô tả xuất sắc phong cảnh và cuộc sống dưới
chân núi Âm Sơn.
敕勒歌
(北齊)無名氏
敕勒川,陰山下
天似穹廬,籠盖四野.
天蒼蒼,野茫茫,
風吹草低見牛羊.
Âm:
SẮC
LẶC CA (Bắc Tề) Vô Danh thị
Sắc
Lặc xuyên, Âm Sơn hạ
Thiên
tự khung lư, lung cái tứ dã.
Thiên
thương thương, dã mang mang,
Phong
xuy thảo để kiến ngưu dương.
Dịch:
BÀI
CA CỦA NGƯỜI SẮC LẶC
Dòng
sông Sắc Lặc, chảy dưới núi Âm Sơn.
Trời
như mái lớn, che khắp thảo nguyên.
Trời
xanh xanh, đất bao la
Gió
đùa cỏ rạp thấy dê bò.
“Sắc
Lặc ca” đã trở thành bài thơ trứ danh trong lịch sử
thi ca Trung Quốc. “Sắc Lặc” là một dân tộc du mục
thời Bắc Tề tụ cư tại Sóc Châu (nay là Bắc bộ tỉnh
Sơn Tây). Ý thơ, người Sắc Lặc chúng ta quê hương tại
chân núi Âm Sơn. Trời như chiếc màn lớn (Mông Cổ bào)
che khắp vùng thảo nguyên rộng lớn. Trời xanh bao la, đất
mênh mông không bờ bến. Một trận gió lướt qua đè rạp
đồng cỏ, để lộ những đàn bò dê béo tốt.
Theo
lịch sử ghi chép, “Sắc Lặc ca” vốn là tiếng Tiên
Ti. Vì người Tiên Ti lúc đó chưa có văn tự, cho nên tác
phẩm được sáng tác bằng xuất khẩu và phổ biến qua
truyền khẩu. Mãi tới thời Nam Bắc triều mới được
người Bắc Tề ghi thành Hán ngữ, từ đó trở đi bài
thơ được lưu truyền bằng chữ Hán, do đó mà những
câu thơ dài ngắn không đồng đều.
Tộc
Tiên Ti vào thời Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều là một dân
tộc hùng mạnh phương Bắc, đã từng dựng nên những
nước Tiền Yên, Hậu Yên, Bắc Ngụy, Bắc Chu. Ngay cả
nước Bắc Tề cũng do người Tiên Ti xây dựng trên cơ
sở văn hóa Hán.
Theo
ghi chép trong sách “Nhạc phủ quảng đề”: Tướng Cao
Hoan của Bắc Tề đem quân công thành Ngọc Bích của Bắc
Chu. Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, sĩ binh của Bắc Tề
cơ hồ thương vong quá nửa mà vẫn chưa hạ được
thành, tướng Cao Hoan lo sợ ngã bệnh. Vua Bắc Chu hạ
lệnh: “Cao Hoan chỉ là con chuột già, dám ngang nhiên
công thành Ngọc Bích. Ta chỉ cần ra quân đánh một trận
nhẹ, bọn chúng sẽ không có đất chôn.” Cao Hoan nghe
được, hốt nhiên vùng dậy triệu tập bộ tướng, an ủi
sĩ binh và ra lệnh tất cả cùng hát bài “Sắc Lặc ca”,
Cao Hoan cũng cất tiếng hát theo. Tiếng hát vang dội cả
đồi núi thảo nguyên, sĩ binh phấn chấn tinh thần và
công hạ thành Ngọc Bích. Câu chuyện tuy có vẻ giai thoại
nhưng tự thân nó nói lên được sức mạnh kinh thiên
động địa phát ra từ một bài dân ca giản đơn bình
thường.
Bài
“Sắc Lặc ca” mô tả cảnh sắc cực kỳ chân thật,
cho người đọc (và cả người nghe) hình dung được toàn
cảnh phong quang miền biên tái, một thảo nguyên rộng lớn
dồi dào sức sống. Từ đó bài thơ trở thành (gần như)
kinh nhật tụng, và nhất là câu cuối bài, đã trở nên
thành ngữ cho bao nhiêu người, bao nhiêu thế hệ của dân
tộc Sắc Lặc tụ cư dưới chân núi Âm Sơn (Phong xuy
thảo để kiến ngưu dương).
Chân
núi Âm Sơn hằng năm còn là địa điểm trao đổi ngựa
và vàng lụa giữa Hồi Cốt (Hồi Hột) với vương triều
Đường. Mỗi năm cứ đến hẹn kỳ, người Hồi Cốt từ
phía Tây Bắc lùa ngựa, theo Con đường Tơ lụa, đến
chân núi Âm Sơn. Vương triều Đường cũng chuyển tải
vàng lụa, theo Con đường Tơ lụa đến đó. Giá mỗi con
ngựa qui định 10 tấm lụa (sau này tăng lên 40 tấm), và
ngựa què ngựa ốm chết Đường triều cũng phải nhận.
Những vùng cỏ nước dồi dào dọc chân núi Âm Sơn hằng
năm, đoàn ngựa của Hồi Cốt đi qua, ăn hết cỏ uống
cạn nước mà số ngựa què quặt, ốm chết vẫn không
giảm. Vì muốn thu vào số lượng ngựa quá lớn nên
triều đình không những vắt kiệt công của trong dân
chúng mà còn phải trút vàng bạc trong kho lẫm để trợ
giá cho khoản tơ lụa thiếu chất lượng và số lượng.
Vì
quan điểm ngựa là phương tiện tối ưu trong chiến tranh
(thời cổ) nên Đường Hiến Tông có ý đồ thu hết
nguồn ngựa để bẻ gãy khả năng chiến tranh của Hồi
Cốt. Nhưng cuối cùng phải đối diện 3 hậu quả nghiêm
trọng không còn thuốc chữa: Thứ nhất, ôm về số ngựa
vô dụng quá lớn, đã trở thành gánh nặng không biết
trút vào đâu. Thứ hai, tài vật trong dân chúng đã kiệt
quệ mà kho lẫm triều đình cũng trống rỗng. Thứ ba,
người Hồi Cốt chỉ trao cho Đường triều số ngựa què
quặt, ốm chết, trong khi vẫn bảo tồn chiến mã cho
chiến tranh. Trong loạn An Sử (đời Đường Huyền Tông),
triều đình có mượn quân Hồi Cốt để dẹp loạn.
Người Hồi Cốt cậy công nên tỏ ra kiêu ngạo, thái độ
bắt ép điều kiện vô lý trong mậu dịch ngựa cũng phát
xuất từ lòng kiêu căng đó. Trong khi Đường Hiến Tông
cứ tưởng lầm mình có thể tương kế tựu kế trong
lòng tham này của đối phương.
Vào
khoảng niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 11 đến năm thứ
15, Đường Huyền Tông, nhà thơ Vương Xương Linh đã theo
quân đến vùng biên tái. họ Vương đã đến Tiêu Quan,
Lâm Thao, Ngọc Môn Quan và đến cả Toái Diệp thành của
vùng trung Á Tế Á. Thời gian sống trong quân lữ, ông đã
thực sự cảm thụ được từ phong quang đến nếp sinh
hoạt vùng biên tái. Từ đó, nhà thơ đã viết nhiều bài
về biên tái rất nổi danh, mô tả sống động từ cảnh
vật đến nếp sống trên những khu vực biên cương dọc
theo Con đường Tơ lụa, trong đó, trứ danh nhất là bài
thất tuyệt “Xuất Tái”:
出塞王昌齡
秦時明月漢時關
萬里長征人未還
但使龍城飛将在
不敎胡馬度蔭山
Âm:
XUẤT
TÁI (Vương Xương Linh)
Tần
thời minh nguyệt Hán thời quan,
Vạn
lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đản
sử Long Thành Phi tướng tại,
Bất
giao Hồ mã độ Âm San.
Dịch:
RA
QUAN ẢI
Trăng
Tần ải Hán nhiêu khê,
Chinh
nhân vạn dặm ngày về chưa hay.
Cầm
bằng Lý trướng còn đây,
Thì
Âm San đã vùi thây ngựa Hồ.
“Xuất
Tái” là một cựu đề trong Nhạc Phủ. Ý thơ, vầng
trăng và quan ải hôm nay đều là cổ vật của Tần Hán.
Những đoàn quân chiến đấu ngoài quan ải nhiều năm
chưa trở về. Nếu còn danh tướng Lý Quảng của Tây Hán
trấn thủ Long Thành bảo vệ biên cương thì, tuyệt đối
không cho phép kỵ binh của người Hồ vượt núi Âm Sơn
vào đánh phá Trung Nguyên.
Nhà
thơ Trung Đường Đái Thúc Luân khi đi qua Âm Sơn cũng có
viết bài “Tái Thượng khúc”, một bài thất tuyệt
(mượn Hán chỉ Đường) mô tả hào tâm tráng chí của
binh tướng Đường triều chiến đấu bảo vệ Âm Sơn:
塞上曲
戴叔倫
漢家旗幟满陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長报國
何須生入玉門關
Âm:
TÁI
THƯỢNG KHÚC (Đái Thúc Luân)
Hán
gia kỳ xí mãn Âm San
Bất
khiến Hồ nhi thất mã hoàn,
Nguyện
đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu
sinh nhập Ngọc Môn Quan.
Dịch:
KHÚC
HÁT TRÊN QUAN TÁI
Quân
Đường vây kín cả Âm San
Không
để ngựa Hồ thoát lưới ngăn.
Nguyện
đem thân sống đền ơn nước
Mong
gì trở lại Ngọc Môn Quan.
Bài
thơ diễn đạt khí thế quân Đường (mượn Hán chỉ
Đường) cờ xí rợp trời vây kín núi Âm Sơn, quyết
không để cho một kỵ binh Hồ nào lọt lưới đào thoát.
Chí nguyện thà chết vĩnh viễn bảo vệ quốc gia chứ
không cầu sống sót trở lại Ngọc Môn Quan để hồi
hương. Câu cuối bài có vận dụng một cố sự đời
Hán, nói về nhân vật anh hùng Ban Siêu. Thời trai trẻ họ
Ban đã ném bút tòng quân đến trấn thủ nhiều thập kỷ
tại Tây Vực và đã lập nhiều chiến công hiển hách.
Những năm về già, Ban Siêu vì nhớ quê, đã thỉnh nguyện
triều đình xin được trở lại Ngọc Môn Quan để về
cố hương. Trong bài thơ của Đái Thúc Luân có phản ý,
binh tướng Đường triều hạ quyết tâm thà chết, vĩnh
viễn bảo vệ Âm Sơn phòng thủ cho Trung Nguyên, chứ
không xin trở lại Ngọc Môn Quan như Ban Siêu đời Hán.
Nhà
thơ Lý Ích khi hành quân đến ba tòa Đông, Trung Tây Thụ
Hàng thành của khu vực Âm Sơn có viết một bài thất
tuyệt “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch”, mô tả
cảnh tượng về đêm nơi vùng biên tái này:
夜上受降城聞笛
李益
回樂烽前沙似雪
受降城外月如霜
不知何處吹蘆管
一夜征人盡望鄉
Âm:
DẠ
THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH (Lý Ích)
Hồi
Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ
Hàng Thành ngoại nguyệt như sương.
Bất
tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất
dạ chinh nhân tận vọng hương.
Dịch:
ĐÊM
LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO
Cát
trước non Hồi trông tựa tuyết
Trăng
ngoài thành Thụ ngó như sương.
Ai hay
sáo thổi nơi nào nhỉ?
Đêm
ấy người xa nhớ cố hương.
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Khu
vực Âm Sơn vào đời Đường có ba tòa Đông, Trung Tây
Thụ Hàng thành, do Sóc Phương quân tổng quản Trương
Nhân Nguyện xây dựng vào niên hiệu Cảnh Vân Võ Tắc
Thiên. Mục đích chế ngự quân Đột Quyết xâm nhập.
Đông Thụ Hàng thành tại Nội Mông Thác Khắc Thác Nam.
Trung Thụ Hàng thành ở phía Tây thành phố Bao Đầu ngày
nay. Tây Thụ Hàng thành ở Hàng Tích Hậu Kỳ (bờ Bắc
sông Ngũ Gia Hà). Lý Ích hành quân tới đây vào thời kỳ
quân Thổ Phồn thường từ phía Tây xâm nhập, nhằm
giành quyền kiểm soát huyết mạch Đông-Tây của Con
đường Tơ lụa. Cho nên Tây Thụ Hàng thành vào thời kỳ
này là tiền đồn quan trọng nhất của khu vực Âm Sơn.
Phong Hỏa Đài trên núi Hồi Nhạc nằm về Tây Thụ Hàng
thành. Ở phía Bắc Nguyên Châu cũng có huyện Hồi Nhạc
và Phong Hỏa Đài, nhưng chỉ trùng địa danh chứ không
liên quan tới Hồi Nhạc phong của Thụ Hàng thành.
“Dạ
thướng Thụ Hàng thành văn địch” vẽ ra những bãi cát
trước núi Hồi Nhạc sáng lên như màu tuyết, ánh trăng
ngoài thành Thụ Hàng mờ ảo như sương. Tiếng sáo, không
biết từ đâu, trỗi lên những khúc nhạc bi sầu, làm
thức dậy lòng nhớ quê của chinh khách.
Ba tòa
Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành là tuyến đầu của Âm
Sơn. Âm Sơn là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây,
sau khi ra khỏi Hàm Dương, men theo lộ tuyến Bắc của
“Con đường Tơ lụa”.
2. KHU
VỰC LŨNG SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY
Rời
Hàm Dương, men theo lộ tuyến Nam của Con đường Tơ lụa,
đi về hướng Tây khoảng 20km là đến huyện Hưng Bình
(thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Phía Đông Bắc Hưng
Bình là Mậu Lăng (lăng mộ của Hán Vũ Đế). Vào thời
Tây Hán ở đây đã từng có huyện Mậu Lăng, nhưng qua
hơn 2.000 năm biến thiên, Mậu Lăng chỉ còn để lại dấu
tích. Phía Tây huyện Hưng Bình là trạm Mã Ngôi, nơi mỹ
nhân đời Đường Dương Quí Phi đã bị bức tử trên
đường chạy vào Thục, trong loạn An Sử. Hiện tại, nơi
đây vẫn còn mộ Dương Quí Phi. Tiếp tục đi về hướng
Tây sẽ đến huyện Vũ Công, bên ngoài huyện trấn Vũ
Công là phần mộ của một nhân vật nổi danh thời Tây
Hán: Tô Vũ.
Từ
Vũ Công theo Con đường Tơ lụa tiếp tục về hướng
Tây, sau khi vượt Lũng Sơn, hành nhân bước vào vùng Đông
Nam Bộ của Lũng Hữu đạo. Địa giới của Lũng Hữu
đạo bao quát từ Lũng Sơn Cam Túc đổ về phía Tây, từ
Ô Lỗ Mộc Tề Tân Cương đổ về phía Đông, thẳng tới
Đông Bắc bộ tỉnh Thanh Hải, thủ phủ đóng tại Thiền
Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải). Thời cổ
đại lấy hướng Tây làm mé phải, cho nên phía Tây Lũng
Sơn được gọi “Lũng Hữu”. Từ Tây Hán trở đi, Lũng
Hữu là vùng biên tái không bao giờ gián đoạn chiến
tranh. Lữ khách rời Trường An theo Con đường Tơ lụa,
sau khi đến Lũng Hữu, sẽ đối diện một bầu cảnh sắc
cực kỳ biến hóa từ khí hậu đến địa vật. Đó là
cảnh tượng mà Vương Nhai, nhà thơ đời Đường, khi qua
đây đã mô tả trong một bài ngũ tuyệt: “Lũng Thượng
hành”
隴上行
王涯
負羽到遍州
鳴笳度隴頭
黄云知塞近
草白見遍秋
Âm:
LŨNG
THƯỢNG HÀNH (Vương Nhai)
Phụ
vũ đáo biên châu
Minh
già độ Lũng Đầu
Hoàng
vân tri tái cận
Thảo
bạch kiến biên thu
Dịch:
ĐI
TRÊN LŨNG SƠN
Cung
nỏ đến biên cương
Nghe
kèn qua Lũng Sơn
Mây
vàng soi biên tái
Cỏ
trắng báo thu sang
Bài
thơ vẽ hình ảnh người chiến sĩ vai đeo cung tên tiến
ra biên ải. Khi vượt Lũng Sơn hốt nhiên nghe khúc nhạc
bi lương vẳng lên từ tiếng kèn lá của người Hồ. Mây
vàng soi gần biên tái và những đám cỏ trắng báo hiệu
thu về. Cỏ trắng là loại cỏ có tên Cập Cập, chỉ
sinh trưởng ở vùng Lũng Sơn đổ về phía Tây. Mỗi độ
vào thu, mọi nguồn nước cạn kiệt, cỏ bị chết khô
hóa màu trắng.
Sau
khi vào đất Lũng Hữu, hành nhân sẽ dẫm lên Tần Châu,
một thành trấn lớn của khu vực Lũng Sơn (nay là thành
phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc). Trong loạn An Sử, nhà thơ
Đỗ Phủ đã từng lánh cư xứ này, ông có viết đề
tài “Tần Châu tạp thi” với 20 bài ngũ tuyệt. Từ Tần
Châu, tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến Lan Châu (đời
Đường còn có tên Kim Thành), rồi đến Thiền Châu. Đó
là khu vực bao quát những trọng trấn quân sự Lâm Thao,
Hà Tây Cửu khúc (nay là Hồ Thanh Hải) và Mân Sơn. Những
vùng này, vào thời Sơ Đường, là lãnh địa của tiểu
vương quốc Thồ Cốc Hồn. Vào niên hiệu Long Sóc Đường
Cao Tông, Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn (Tây Tạng) tiêu
diệt, phải chạy qua nương nhờ Vương triều Đường. Do
vậy mà những vùng đất vừa kể, có một thời, là
chiến trường kinh thiên động địa giữa Đường triều
và Thổ Phồn.
Lũng
Sơn tức đoạn phía Nam của Đại bàng Sơn (cũng còn có
những tên Lũng Pha, Lũng Để, Lũng Thủ). Lũng Sơn ngày
nay là biên cảnh giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, có
chiều dài từ Nam lên Bắc khoảng 100 km, cũng là phân
giới giữa bình nguyên Vị Hà và cao nguyên Lũng Tây.
Thời
cổ đại giao thông rất khó khăn, đi lại vất vả. Những
đoàn quân Tây chinh, những thương đội hoặc những quan
viên công cán Tây Vực, sau khi rời những đô thị phồn
hoa như Trường An, Hàm Dương, theo Con đường Tơ lụa về
hướng Tây. Sau khi vượt Lũng Sơn, suốt tầm mắt là một
không gian biên tái dị dạng, đơn điệu. Khí hậu khô
kiệt giá buốt gợi cho lữ khách lòng nhớ quê da diết.
Dân ca nhạc phủ thời Bắc triều có đề tài “Lũng Đầu
ca từ” (3 bài) mô tả xuất sắc lòng nhớ quê của lữ
khách khi bước chân tới Lũng Sơn:
隴頭歌辞
(北朝)樂府民歌
一
隴頭流水
流离山下
念吾一身
飄然曠野
二
朝發欣城
暮宿隴頭
寒不能語
舌卷入喉
三
隴頭流水
鳴聲鳴咽
遥望秦川
心肝斷絕
Âm:
LŨNG
ĐẦU CA TỪ
(Bắc
Triều) Nhạc Phủ Dân Ca
(Bài
1)
Lũng
Đầu lưu thủy
Lưu
ly sơn hạ
Niệm
ngô nhất thân
Phiêu
phiêu khoáng dã
(Bài
2)
Triêu
phát Hân thành
Mộ
túc Lũng Đầu
Hàn
bất năng ngữ
Thiệt
quyển nhập hầu
(Bài
3)
Lũng
Đầu lưu thủy
Minh
thanh minh yết
Diêu
vọng Tần Xuyên
Tâm
can đoạn tuyệt
Dịch:
NHỮNG
BÀI HÁT VỀ LŨNG ĐẦU (Lũng Sơn)
(Bài
1)
Nước
tự Lũng Đầu
Đổ
về chân núi
Một
thân phiêu diêu
Gởi
theo cỏ nội
(Bài
2)
Hân
thành buổi sớm
Chiều
tới Lũng Đầu
Lạnh
không hớ miệng
Lưỡi
cuộn yết hầu.
(Bài
3)
Lũng
Đầu nước xung
Âm
vang bất tuyệt
Vọng
về Quan Trung
Ruột
gan đứt hết
Bài
1:
Nước
tự Lũng Đầu (Lũng Sơn) đổ tứ tán về chân núi. Còn
một thân lênh đênh phiêu bạt của ta, cũng chỉ biết
phó mặc cho thảo nguyên không bờ bến.
Bài
2: Một sớm rời Hân thành, chiều tối đến Lũng Sơn.
Trời lạnh tới độ không thể mở miệng nói, tưởng
chừng như lưỡi đã bị cuộn cứng vào cổ họng.
Bài
3: Những khe nước từ Lũng Sơn tuôn xuống, vang vọng
những âm thanh bi lương. Ta đứng trên đầu núi ngóng về
cố hương Tần Xuyên (nay là Quan Trung tỉnh Thiểm Tây),
tưởng chừng ruột gan đứt đoạn.
Những
bài dân ca “Lũng Đầu lưu thủy” này khi lưu truyền,
gần như đã hóa ra thành ngữ của bi lương, nhớ quê,
sầu khổ. Trải qua nhiều triều đại, “Lũng Đầu lưu
thủy” đã trở thành đề tài trong sáng tác của nhiều
thi nhân.
Sầm
Tham, nhà thơ nổi danh thời Thịnh Đường, xuất thân từ
một gia đình quan lại, đậu tiến sĩ năm 30 tuổi, có
giữ một chức quan nhỏ tại Trường An. Đường Huyền
Tông năm Thiên Bảo thứ 8 (CN 749), An Tây Tiết Độ Sứ
Cao Tiên Chi về triều, thỉnh cầu Hoàng Đế cử Sầm
Tham đến giữ chức thư ký trong mạc phủ Tiết Độ Sứ
của ông ta, lúc đó Sầm Tham 35 tuổi. Một ngày mùa Đông
năm đó Sầm Tham lần thứ nhất đến Tây Vực. Từ
Trường An, họ Sầm theo Con đường Tơ lụa, đi về phía
Tây qua khỏi Đôn Hoàng, đến An Tây Đại Đô Hộ Phủ
(lúc đó đặt tại thành Khưu Từ, nay là vùng Khố Xa
tỉnh Tân Cương)). Sầm Tham giữ chức thư ký ở đó 2
năm, đến năm Thiên Bảo thứ 10 (CN 751) được triệu hồi
về Trường An.
Khoảng
giữa mùa Hạ và mùa Thu, từ năm Thiên Bảo thứ 13 Đường
Huyền Tông đến năm Chí Đức thứ 2 Đường Túc Tông
(CN 754-757), Sầm Tham lần thứ hai được cử đến Tây
Vực, nhận chức Phán quan tại mạc phủ An Tây Tiết Độ
sứ Phong Thường Thanh. Lần thứ nhất đến Tây Vực vì
chưa quen với phong cảnh dị dạng, khí hậu khắc nghiệt
và sinh hoạt gian khổ nơi quan ải, nên thơ họ Sầm chỉ
có tình điệu nhớ nhung sầu thảm. Lầân này đến Tây
Vực nhà thơ đã quen thuộc mọi thứ và có nhiều kinh
nghiệm sinh hoạt nơi biên cương, nên thơ ông bật lên
được tinh thần hào tráng, vẽ lên được những hình
ảnh vừa hào hùng vừa bi tráng trên tuyến đầu đất
nước. Ngay cả những bài thơ nhớ nhà của họ Sầm cũng
không hề biểu lộ tình điệu sầu thảm, như bài thất
tuyệt “Phó Bắc Đình độ Lũng tư gia” dưới đây:
赴北庭度隴思家
岑参
西向輪臺萬里餘
也知鄉信日應疏
隴山鸚鵡能言語
爲報家人數寄書
Âm:
PHÓ
BẮC ĐÌNH ĐỘ LŨNG TƯ GIA (Sầm Tham)
Tây
hướng Luân Đài vạn lý dư
Dã
tri hương tín nhật ưng sơ
Lũng
Sơn Anh Vũ năng ngôn ngữ
Vị
báo gia nhân số ký thư
Dịch:
NHỚ
NHÀ KHI QUA LŨNG SƠN, TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN BẮC ĐÌNH
Tây
cách Luân Đài hơn vạn dặm
Tin
quê mỗi bước một thưa xa
Lũng
Sơn Anh Vũ chừng biết nói
Thay
giúp tin thư gởi quê nhà
Bài
thơ mô tả hình ảnh lữ khách đi về hướng Tây, còn
cách Luân Đài hơn vạn dặm. Tin tức quê nhà càng lúc
càng xa theo mỗi bước chân. Tiếng hót chim Anh Vũ trên
đầu núi Lũng hình như nói lên được lòng người, hãy
thay ta đưa tin về quê.
Vùng
Lũng Sơn có loài chim Anh Vũ màu lông rất đẹp, các quan
chức triều đình rất thích chơi loài chim này nên lệnh
cho địa phương hàng năm phải tiến cống. Việc bắt
chim Anh Vũ (chim Két) là một tai họa kinh khủng cho bá
tánh Lũng Sơn và cả quan sai địa phương. Anh Vũ ở Lũng
Sơn làm tổ trên sườn núi cheo leo, cách mặt đất từ
100m trở lên. Người dân nơi đây phải dùng dây leo, treo
người lơ lững trên không vào lúc nửa đêm, rình bắt
chim. Công việc hết sức nguy hiểm, 10 người leo núi may
ra chỉ còn 1 người sống sót đem chim về. Trong khi các
tướng lãnh trấn thủ biên cương cũng học đòi chơi
chim Anh Vũ. Họ lệnh cho sĩ tốt phải làm những chiếc
lồng đẹp, hằng ngày còn phải hầu rượu cho các tướng
lãnh thưởng ngoạn chim, việc phòng thủ biên ải nhiều
khi lơi lỏng.
“Con
đường Tơ lụa” sau khi vượt Lũng Sơn, đi về phía Tây
khoảng 100 km sẽ đến Tần Châu. Thủ phủ Tần Châu là
Thiên Thủy (nay là thành phố Thiên Thủy tỉnh Cam Túc).
Địa danh Thiên Thủy có từ năm Nguyên Đỉnh thứ 2 đời
Hán Vũ Đế (114CN), có trước cả địa danh Tần Châu
thời Tam Quốc. Phía Tây ngoại thành Thiên Thủy có một
hồ nước. Theo nói lại thì nước hồ này mùa Hạ không
tăng Đông không giảm, mưa không đầy nắng không vơi.
Truyền thuyết, có một con sông từ trời chảy xuống hồ
nên mới có tên “Thiên Tủy” (nước trời). Truyền
thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết, tất cả những hiện
tượng đó ngày nay không tồn tại.
Có
một điều, chính sử không phủ nhận, Thiên Thủy từ
viễn cổ tới đời Đường là vùng đất “Địa linh
nhân kiệt”, là quê hương của nhiều nhân vật lừng
danh trong lịch sử. Thượng cổ có Hoàng Đế Nữ Oa (nhân
vật luyện đá vá trời và lập ra chế độ hôn nhân).
Hoàng Đế Phục Hy (nhân vật vạch ra 8 quẻ bát quái làm
nền tảng cho kinh Dịch). Đời Hán có Lý Quảng (danh
tướng uy trấn Hung Nô). Tam quốc có Gia Cát Lượng, Triệu
Xung Quốc, Khương Duy. Cả hai vị Hoàng Đế khai quốc nhà
Đường Lý Uyên và Lý Thế Dân, đều là những nhân vật
sinh trưởng tại Thiên Thủy.
Năm
Càn Nguyên thứ nhất Đường Túc Tông (CN 758), nhà thơ Đỗ
Phủ bị biếm quan ở Hoa Châu (nay là huyện Hoa tỉnh
Thiểm Tây), ông đưa gia đình, theo Con đường Tơ lụa,
vượt Lũng Sơn đến Tần Châu. Gặp lúc cuộc sống ở
đây chật vật, mọi sinh hoạt khó khăn lại thêm Tần
Châu đang bị quân Thổ Phồn uy hiếp, nên ông chỉ lưu
lại một thời gian ngắn rồi rời Tần Châu đến Đồng
Cốc (nay là huyện Thành tỉnh Cam Túc). Cuộc sống ở
Đồng Cốc chẳng khả quan gì hơn Tần Châu, nên cũng chỉ
một thời gian ngắn, ông đưa gia đình thẳng vào Thành
Đô (đất Thục).
Thời
gian lưu lại Tần Châu tuy ngắn ngủi (3 tháng) nhưng lại
là thời kỳ sáng tác thịnh nhất của Đỗ Phủ, ở đây
ông đã viết hơn 90 bài thơ (trung bình mỗi ngày 1 bài)
mô tả xuất sắc từ núi sông, con người đến cả hình
thể đất nước trên một vùng đất trọng yếu của Con
đường Tơ lụa. Nổi bật nhất là 20 bài “Tần Châu
tạp thi” mà trong khuôn khổ chương sách này, chúng tôi
chỉ tạm trích 2 bài.
秦州雜诗
杜甫
二
秦州城北寺
胜迹隗囂宮
苔藓山門古
丹青野殿空
月明垂葉露
雲逐度溪風
清渭無情極
愁時獨向東
七
莽莽萬重山
孤城山谷間
無風雲出塞
不夜月臨關
属國歸何晚
楼蘭斬未還
烟塵獨長望
衰颯正摧顏
Âm:
TẦN
CHÂU TẠP THI (Đỗ Phủ)
(Bài
2)
Tần
Châu thành Bắc tự
Thắng
tích Ngỗi Hiêu cung.
Đài
tiểán sơn môn cổ
Đan
thanh dã điện không
Nguyệt
minh thùy diệp lộ
Vân
trục độ khê phong
Thanh
vị vô tình cực
Sầu
thị độc hướng Đông.
(Bài
7)
Mãng
mãng vạn trùng san
Cô
thành sơn cốc nhàn.
Vô
phong vân xuất tái
Bất
dạ nguyệt lâm quan.
Thuộc
quốc qui hà vãn?
Lâu
Lan trảm vị hoàn!
Yên
trần độc trường vọng
Suy
táp chính tồi nhan.
Dịch:
THƠ
VẶT LÀM Ở TẦN CHÂU
Bài 2
Tần
Châu chùa cõi Bắc
Ấy
chốn Ngỗi Hiêu xưa.
Cửa
núi làn rêu cũ
Đền
hoang nét vẽ thưa.
Trăng
soi sương lá giọt,
Mây
dục gió khe đưa.
Thanh
vị thờ ơ thế,
Về
Đông buồn quạnh chưa!
Bài
7:
Lớp
lớp núi muôn hòn,
Nếp
thành giữa lũng con.
Mây
biên đùn gió lặng,
Chiều
ải ló trăng non.
Thuộc
quốc sao về muộn?
Lâu
Lan chắc vẫn còn!
Ngóng
hoài trong khói bụi,
Vẽ
mặt luống thon von.
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Trong
suốt 20 bài của “Tần Châu tạp thi”, Đỗ Phủ đã mô
tả sống động từ lộ trình dọc Con đường Tơ lụa
đến Tần Châu và cả bức tranh toàn cảnh Tần Châu. Ông
đã đi qua suối Ngư Long, núi Điểu Thử (suối Ngư Long
phát nguyên từ Tây Bắc huyện Lũng, chảy về Nam nhập
vào Khai Thủy. Suối này sản sinh một giống cá ngũ sắc
tương truyền là giống Rồng, mới có tên Ngư Long. Núi
Điểu Thử thuộc huyện Vị Nguyên tỉnh Cam Túc ngày
nay).
Bài 2
trong “Tần Châu tạp thi” nói về những biến thiên của
một thắng tích. Trên đầu núi phía Đông Bắc Tần Châu
có ngôi chùa Sùng Ninh, vốn là nền cung điện xưa của
Ngỗi Hiêu. Cuối thời Tây Hán Ngỗi Hiêu cát cứ toàn bộ
vùng Cam Châu và Túc Châu (nay là tỉnh Cam Túc), tự xưng
là Tây Châu đại tướng quân. Sau này bị nhà Đông Hán
đánh bại nhiều lần, Ngỗi Hiêu lo buồn sinh bệnh mà
chết. Di tích Ngỗi Hiêu cung tại đầu núi phía Bắc
thành phố Thiên Thủy ngày nay, tục gọi Hoàng Thành. nay
chỉ còn lại cảnh hoang tàn của những mẫu tường sụp
đổ. Cửa chùa Sùng Ninh cũng mọc đầy rong rêu cỏ dại.
Bên trong không một bóng người, ánh trăng chiếu qua những
giọt sương trên lá, mây bên dòng suối bị gió chiều
cuộn trôi.
Bài
7: Tả cảnh Tần Châu nằm giữa sơn cốc với núi non
trùng điệp. Trời không gió, mây vẫn cứ tự trôi qua
ải. Đêm chưa xuống hẳn mà ánh trăng đã rải khắp
biên cương. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ sao vẫn chưa trở
về? Hay là chưa chịu đáp ứng yêu sách của vua Lâu Lan?
(Vua Lâu Lan chỉ Thiền Vu Hung Nô. Điển Thuộc Quốc Tô
Vũ lãnh mệnh Hán triều đi sứ Hung Nô, bị bắt đày đi
chăn dê 19 năm nơi biên tái. Ý thơ mượn điển cố Hán
để chỉ sứ giả Đường triều). Hai câu cuối, Đỗ Phủ
nhân cảnh chạnh tình, nghĩ về tuổi già long đong và
dung nhan tiều tụy của mình.
“Con
đường Tơ lụa”, từ Tần Châu, có một đại đạo
thông thẳng qua sa mạc, ở đây có hàng ngàn lán trại
của người Hồ (đã qui phục triều đình), dân cư có
đến 10 ngàn hộ, tuấn mã chạy khắp sa mạc rớt xuống
những giọt mồ hôi đỏ như huyết. Đó là Tộc Bạch Đề
của người Hồ (người dân tộc này thích dùng phấn
trắng bôi lên trán nên tự xưng là “Bạch Đề Tộc”).
Lúc
Đỗ Phủ đến Tần Châu thì nơi đây đã là biên quan
của Đường Triều. Trong loạn An Sử triều đình đã
điều hết quân tinh nhuệ phòng thủ biên tái về nội
địa dẹp loạn, kết quả tuyến đầu bỏ trống. Ngoại
tộc thừa cơ bắt đầu xâm nhập, nghiêm trọng nhất là
Thổ Phồn (Tây Tạng). Thổ Phồn liên tục đánh chiếm
Hà Tây, Lũng Hữu, cuối cùng công hãm cả kinh đô Trường
An.
Tại
một tòa núi phía Nam ngoại thành Tần Châu là chùa Nam
Quách. Trong chùa có một dòng suối gọi Bắc Lưu Tuyền
chảy về hướng Tần Châu. Những ngày lưu lại Tần
Châu, Đỗ Phủ đã từng du lãm qua chùa Nam Quách (vị trí
ngày nay nằm giữa eo núi Nam Sơn, cách phía Nam Thiên Thủy
khoảng 3 km). Trước chùa có hai cây Hòe lớn xưng là Hán
Hòe. Tại một viện nhỏ phía Đông chùa có một giếng
đá (nằm trong dòng chảy của Bắc Lưu Tuyền). Giếng này
không những nước rất tốt mà đặc biệt mùa hạn nước
nhiều hơn mùa mưa. Trước chánh điện chùa có hai cây
bách rất xưa mà trong thơ Đỗ Phủ gọi “Lão thụ”,
ít nhất cũng có hơn ngàn năm tuổi, mỗi cành đều có
một bia đá. Một trong hai cây bách thân nứt làm đôi,
chính giữa mọc lên cây hòe, làm thành hiện tượng kỳ
lạ “Bách Bao Hòe”. Tương truyền, danh tướng khai quốc
công thần Đường triều Uất Trì Kính Đức đã từng
cưỡi ngựa trên hai cây bách này. Nói chung, những di tích
cổ xưa của chùa Nam Quách vẫn còn bảo tồn đầy đủ.
Đông
thiền viện chùa Nam Quách có miếu Đỗ Phủ (Đỗ Công
Từ). Theo ghi chép thì ở Đông Kha Cốc Tần Châu (nay là
Công xã Liễu Gia Hà Thôn), thuộc huyện Thiên Thủy, Cam
Túc) Đỗ Phủ đã từng ngụ tại nhà người cháu Đỗ
Tả. Nơi đây có Đỗ Công Bộ thảo đường, một kiến
trúc kỷ niệm Đỗ Phủ, niên hiệu Đồng Trị đời
Thanh đã bị chiến tranh phá hủy. Sau này Đông thiền
viện chùa Nam Quách được đổi tên “Đỗ Công Từ”.
Ngày nay trong miếu vẫn còn tượng Đỗ Phủ và hai tiểu
đồng đứng hầu sách (nhiều tư liệu cho đó là hai con
trai của nhà thơ, Đỗ Tôn Văn và Đỗ Tôn Võ).
Phía
Đông Nam Tần Châu khoảng 40 km, là vị trí của một tòa
núi có đỉnh giống hình một đống lúa Mạch, nên có
tên Mạch Tích Sơn, một thắng cảnh trứ danh nằm trên
Hành Lang Hà Tây của Con đường Tơ lụa (khu vực Lũng
Sơn). Khoảng sau nhà Tần (CN 384-417), Mạch Tích Sơn bắt
đầu được khai quật, kéo dài đến thế kỷ 19, bảo
tồn được gần 200 hang động. Bên trong có một số lớn
tượng Phật bằng đá và hơn 1000m2 bích họa. Những hang
đá trên núi cao hơn 140m, theo những phương pháp nghiên
cứu hiện đại, người xưa đã đắp đất từ chân núi
lên đến hiên nhai rồi theo những bậc đất, lên đó đục
hang động, khắc tượng Phật, khi làm xong dời đất đi.
Người sau muốn lên tham quan hang động phải thiết kế
cầu treo mới lên được. Trải mấy ngàn năm biến thiên,
Mạch Tích Sơn vẫn được bảo tồn hoàn hảo. Ngày nay
đã trở thành thắng cảnh du lịch trên Con đường Tơ
lụa.
Năm
Quảng Đức thứ nhất Đường Đại Tông (CN 763), quân
Thổ Phồn tiến chiếm kinh đô Trường An, 13 ngày sau bị
danh tướng Quách Tử Nghi đem quân đẩy lui. Tới năm
Quảng Đức thứ hai (CN 764), Thổ Phồn liên kết với Hồi
Hột đem hơn 10 vạn quân, lần thứ hai công chiếm Trường
An, nhưng cũng bị quân Quách Tử Nghi bẻ gãy. Vùng Đông
Bộ biên cảnh Thổ Phồn là Đường Kiếm Nam Tiết Độ
Sứ do Nghiêm Vũ quản hạt, cũng nhiều lần bị quân Thổ
Phồn nhập xâm đánh phá. Năm Quảng Đức thứ
hai, Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xuất quân tấn công đại
qui mô, tiêu diệt hơn 7 vạn binh mã Thổ Phồn. Tiết Độ
Sứ Nghiêm Vũ xua quân chiếm luôn Câu Thành (nay là khu A
Bá tự trị tỉnh Tứ Xuyên), sau đó tiến chiếm Diêm
Xuyên Thành (nay thuộc Tây Bắc huyện Chương tỉnh Cam
Túc). Cả hai nơi đều nằm phụ cận Lâm Thao. Cuộc chiến
kéo dài từ mùa Thu đến mùa Đông mới kết thúc.
Trấn
Lâm Thao nằm ở chân núi Mân Sơn (nay là huyện Mân tỉnh
Cam Túc, không phải huyện Lâm Thao đời Đường) là một
trọng trấn quân sự biên tái mà Con đường Tơ lụa bắt
buộc phải đi qua, và cũng được nhiều nhà thơ nhắc
tới. Nhà thơ Thịnh Đường Vương Xương Linh khi hành
quân qua đây đã viết bài ngũ luật “Tái Hạ Khúc”
塞下曲
王昌齡
飲馬渡秋水
水寒風似刀
平沙日未沒
黯黯見臨滔
昔日長城戰
咸言意氣高
黄塵足今古
白骨亂蓬蒿
Âm:
TÁI
HẠ KHÚC (Vương Xương Linh)
Ẩm
mã độ thu thủy
Thủy
hàn phong tự đao.
Bình
sa nhật vị một,
Ảm
ảm kiến Lân Thao
Tích
nhật trường thành chiến,
Hàm
ngôn ý khí cao.
Hoàng
trần súc kim cổ,
Bạch
cốt loạn Bồng hao.
Dịch:
BÀI
HÁT DƯỚI
Qua
sông ngựa uống nước,
Nước
lạnh, gió như dao.
Nắng
tà vùng cát phẳng,
Thấp
thoáng thấy Lâm Thao.
Trận
Trường Thành thuở trước,
Cùng
bảo khí quân cao.
Bụi
vàng đầy kim cổ,
Xương
trắng lẫn Bồng hao.
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Qua
bài “Tái Hạ Khúc”, Vương Xương Linh diễn đạt tâm
tư đối cảnh chạnh tình của một chiến binh già trấn
đóng nơi biên tái. Buổi chiều mùa Thu, vì cho ngựa uống
nước phải lội qua dòng sông nhỏ, nước sông giá lạnh,
gió quét vào mặt như dao cắt. Màu trời hôn ám, bóng
chiều tà còn vướng trên sa mạc mênh mông. Nhìn về
hướng Lâm Thao xa xa, chạnh nhớ những trận ác chiến
dưới chân Trường Thành thuở trước, ngày đó sĩ khí
rất cao nhưng tự cổ chí kim, tất cả mọi cuộc chiến
tranh đều chỉ để lại những bãi cát vàng, xương người
ngổn ngang lẫn lộn vào cỏ dại.
Vị
Hà là chi lưu chủ yếu của Hoàng Hà, chảy qua trung tâm
đế quốc Đường Triều (vùng Quan Trung Thiểm Tây), tích
tụ phù sa cho những cánh đồng vùng Quan Trung, giúp cho
nông nghiệp phát triển mạnh, tăng cường hùng hậu cho
nhà Đường.
Khoảng
giữa Tần Châu và Kim Thành (nay là Lan Châu Cam Túc) có
huyện Vị Nguyên (còn có tên Tư Nghĩa), là đầu nguồn
của Vị Hà, nơi Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi
qua.
Vị
Hà phát nguyên từ Điểu Thử Sơn phía Tây Nam huyện Vị
Nguyên. Điểu Thử Sơn (núi Chim Chuột) là một hiện
tượng tự nhiên kỳ lạ, ở đó chim và chuột sống
chung một hang động. Hơn hai ngàn năm trước, thiên Vũ
công sách “Thượng Thư” đã ghi “Hiện tượng Chim và
Chuột sống cùng hang động”.
Vị
Hà còn có một chi lưu là Khai Thủy, phát nguyên từ huyện
Lũng tỉnh Thiểm Tây. Đoạn đầu nguồn sông này có tên
Long Ngư xuyên (sông cá Rồng). Tương truyền nơi đây sản
sinh một giống cá ngũ sắc có nòi Rồng. Dân cư quanh
vùng đều cho là thần vật không ai dám bắt.
Thao
Thuỷ (tức Thao Hà) phát nguyên từ ranh giới hai tỉnh
Thanh Hải và Cam Túc, chảy về hướng Đông, đến huyện
Mân tỉnh Cam Túc thì quặt hướng Bắc, chảy qua phía Tây
Điểu Thử Sơn trước khi nhập vào Hoàng Hà.
Tại
Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương đều có những ghi chép
về huyệt động Chim Chuột trên núi, trên thảo nguyên
hoặc hoang mạc. Người đời Thanh là Từ Tùng đã từng
ghi chép hiện tượng huyệt động Chim Chuột khi đi qua
vùng Y Lê tỉnh Tân Cương: “Chuột như chuột thường.
Chim có lông đuôi dài màu xanh lục, nhỏ hơn chim Tước.
Lúc rạng đông chim bay ra khỏi hang trước, một lúc sau
chuột mới ra. Chim đứng trên lưng chuột để chuột mặc
tình chạy nhảy chim vẫn không rớt”.
Tại
Điểu Thử Sơn đầu nguồn Vị Hà, chuột già đào hang
động, chim nhỏ đi tìm lương thực về dự trữ. Những
ngày Đông tạnh ráo, chuột già ra khỏi hang tắm nắng,
chim nhỏ đứng hót líu lo trên lưng chuột. Mùa Hạ nước
sông lên cao, chuột già bơi qua sông, chim nhỏ cũng qua
sông bằng cách đứng trên lưng chuột.
Do đâu
mà có hiện tượng chim chuột ở cùng huyệt kỳ lạ này?
Giới Động vật học giải thích: nhiệt độ tại vùng
hoang mạc giữa Đông và Hạ, giữa ngày và đêm có mức
sai biệt rất lớn, nhưng trong hang động thì Đông ấm Hạ
mát, nếu có sai biệt thì mức độ cũng rất nhỏ. Vì
thế các loài động vật sống chung rất hạnh phúc trong
hang động, qua nhiều ngàn năm đã trở thành một thứ
truyền thống bất dịch. Một số người cho rằng, vùng
này khí hậu khắc nghiệt, cây cỏ không mọc được,
chim chóc không có cây làm tổ nên phải sống chung với
chuột trong hang động. Nhưng theo kết luận của nhiều
đoàn khảo sát thì, Điểu Thử Sơn là vùng có nhiều
rừng rậm cỏ cây um tùm. Làm sao có chuyện chim không cây
làm tổ. Lý do sống chung hòa bình của chim và chuột chỉ
còn tồn tại ở khí hậu ôn hòa dễ chịu của hang động.
Đó
là những nét đặc trưng của vùng Lâm Thao. Từ Lâm Thao,
theo Con đường Tơ lụa đi về hướng Tây Bắc đến Kim
Thành (tức Lan Châu), rồi đến Thiền Châu (nay là huyện
Lạc Đô, Thanh Hải). Phía Tây Thiền Châu là vùng Hà Tây
Cửu Khúc (nay thuộc tỉnh Thanh Hải), từng là chiến
trường đẩm máu giữa Đường triều và Thổ Phồn. Sau
đó thẳng tới Tây Hải (nay là hồ Thanh Hải).
Vùng
Tây Nam Thiền Châu Kim Thành nguyên là địa bàn của nước
Thồ Cốc Hồn, do họ Mộ Dung của tộc Tiên Ty kiến lập.
Vào đời Tùy, Thồ Cốc Hồn bị nhà Tùy diệt vong, biến
thành quận huyện của Tùy. Cuối đời Tùy, Trung Quốc
đại loạn, Phục Duẫn Khả Hãn của Thồ Cốc Hồn thừa
cơ thu phục những vùng đất đã mất tái lập quốc gia.
Vào thời Sơ Đường, Phục Duẫn Khả Hãn thường đem
quân cướp bóc quậy phá biên cảnh Đường triều. Năm
Trinh Quán thứ 9 (CN 635), Đường Thái Tông mệnh cho hai
tướng Lý Tịnh và Hầu Quân Tập đưa 6 lộ quân tiến
công Thồ Cốc Hồn, Phục Duẫn Khả Hãn đại bại tự
sát. Đường triều lập con y là Mộ Dung Thuận làm Khả
Hãn Thồ Cốc Hồn.
Thời
Thịnh Đường, nhà thơ Vương Xương Linh khi hành quân qua
Thiền Châu Kim Thành, hình dung lại chiến trường xưa, có
viết đề tài “Tòng quân hành” gồm một số bài thất
tuyệt, trong đó, bài thứ 5 mô tả lại trận chiến với
Thồ Cốc Hồn.
從軍行
王昌齡
大漠風塵日色昏
紅旗半卷出轅門
前軍夜戰滔河北
已報生擒吐谷渾
Âm:
TÒNG
QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài
5)
Đại
mạc phong trần nhật sắc hôn,
Hồng
kỳ bán quyển xuất Viên môn.
Tiền
quân dạ chiến Thao Hà Bắc,
Dĩ
báo sanh cầm Thồ Cốc Hồn.
Dịch:
BÀI
HÁT THEO QUÂN
Gió
bụi trời chiều qua sa mạc,
Quân
uy cờ cuốn dục lên đường.
Thao
Hà đêm ấy vừa giao chiến,
Đã
bắt sống vua Thồ Cốc Hồn.
Ý
thơ, gió cát chiều tà trên sa mạc mênh mông. Đoàn quân
hùng hậu cuốn cờ thẳng tiến về biên tái phía Tây.
Ngay đêm giao chiến đầu tiên tại Thao Hà Bắc, đã có
tin báo về, bắt sống được thủ lĩnh Thồ Cốc Hồn.
Từ
khi Thồ Cốc Hồn đại bại trước Đường triều, mối
quan hệ giữa hai nước được cải thiện ngày càng tốt.
Đến đời cháu của Phục Duẫn, Nặc Hạt Bát kế vị
ngôi Khả Hãn, được Đường Thái Tông phong “Hà Nguyên
quận vương”. Năm Trinh Quán thứ 13 (CN 639), Nặc Hạt
Bát đích thân đến Trường An triều kiến Hoàng Đế và
thỉnh hôn. Năm sau, Đường Thái Tông phong con gái của
Hoài Dương Vương Lý Đạo Minh là Hoằng Hóa Công Chúa,
gã cho Nặc Hạt Bát làm “Khả Đôn” (vợ chính của
Khả Hãn). Cuộc hôn nhân này giúp cho mối quan hệ giữa
hai nước ngày càng được củng cố vững chắc. Khi Đường
Thái Tông qua đời, Đường triều còn tạc một tượng
đá của Nặc Hạt Bát, đặt ngay dưới chân Chiêu Lăng
(lăng mộ Đường Thái Tông). Vào thời kỳ đó, đây là
vinh dự rất lớn đối với lãnh tụ một dân tộc miền
quan ngoại.
Năm
Trinh Quán thứ 15 (CN 641), vua Thổ Phồn là Tùng Tán Can Bố
phái sứ giả đến Trường An cầu hôn. Đường Thái Tông
quyết định gã Công Chúa Văn Thành. Lộ trình đưa dâu
có đi qua Thổ Cốc Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải). Khả Hãn
Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa rất nhiệt tình đón
tiếp và đích thân tiễn đưa Công Chúa Văn Thành đến
tận biên cảnh Thổ Phồn. Do mối quan hệ tốt đẹp giữa
Đường triều và Thồ Cốc Hồn mà Con đường Tơ lụa
(đoạn từ Kim Thành đến Hà Tây Tẩu Lang) được thông
suốt không còn trở ngại.
Năm
thứ 2 sau khi Đường Thái Tông băng (CN 650), Tùng Tán Can
Bố cũng qua đời. Người kế nhiệm của ông từng bước
một, bành trướng thế lực ra ngoài biên cảnh, đã nhiều
lần đem quân tấn công Thồ Cốc Hồn. Năm Long Sóc thứ
2 Đường Cao Tông (CN 663), Thổ Phồn lại xua đại quân
tấn công Thổ Cốc Hồn. Khả Hãn Nặc Hạt Bát và Hoằng
Hóa Công Chúa chỉ đưa được vài ngàn dân và súc vật,
theo bờ Đông Bắc Thanh Hải, vượt Kỳ Liên Sơn đến
lánh nạn tại Lương Châu (lãnh thổ Đường triều, nay
là huyện Vũ Uy Cam Túc). Thồ Cốc Hồn từ đó diệt
vong. Sau này Đường Cao Tông phái Đại tướng Tiết Nhân
Quí đem hơn 10 vạn quân thu phục lãnh địa của Thồ Cốc
Hồn nhưng thất bại. Con đường Tơ lụa cũng bị tắt
nghẽn dưới sự khống chế của Thổ Phồn.
Năm
Thánh Lịch thứ nhất Đường Võ Tắc Thiên (CN 698), Hoằng
Hóa Công Chúa qua đời, an táng tại Dương Hồn Cốc Dã
thành (nay là Nam Doanh Công Xã, huyện Võ Uy tỉnh Cam Túc).
Đó là thôn Bắc núi Chủy Tử, nghĩa trang của họ Mộ
Dung tộc Tiên Ty. Mộ của Công Chúa cao 10 thước còn bảo
tồn tới ngày nay. Bài thất tuyệt thứ nhất của Vương
Xương Linh trong đề tài “Tòng quân hành” nhằm mô tả
nền xưa của lãnh địa Thồ Cốc Hồn, một tiểu vương
quốc từng có quá khứ huy hoàng, giờ còn để lại bên
này biên cảnh, hình ảnh những sĩ binh Đường Triều
trấn giữ biên cương, ôm lòng nhớ quê da diết:
從軍行
王昌齡
烽火城西百尺摟
黄昬獨坐海風秋
更吹羌笛關山月
無那金閨萬里愁
Âm:
TÒNG
QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài
1)
Phong
hỏa thành Tây bách xích lâu,
Hoàng
hôn độc tọa Hải phong thu.
Cánh
xuy Khương địch “Quan san nguyệt”
Vô ná
kim khuê vạn lý sầu.
Dịch:
BÀI
HÁT THEO QUÂN
“Phong
Hỏa” thành Tây trăm thước lầu,
Quanh
đây biển gió một chiều Thu.
Sáo
Khương trỗi khúc “Quan san nguyệt”,
Vạn
dặm phòng khuê vô hạn sầu.
Bài
thơ diễn đạt tâm tư những sĩ binh trấn thủ biên
cương, hằng ngày nhìn qua nền xưa của một tiểu vương
quốc đã bị Thổ Phồn chiếm lĩnh. Từ sau khi Thồ Cốc
Hồn bị Thổ Phồn diệt vong, Đường quân xây một
“Phong hỏa đài” trên lầu cao trăm thước để quan sát
địch tình. Hằng ngày sĩ binh ngồi trên Phong Hỏa đài,
đón những làn gió chiều Thu từ hồ Thanh Hải thổi tới,
cộng thêm tiếng sáo rợ Khương trỗi lên khúc nhạc thảm
sầu “Quan San Nguyệt”, người lính biên cương không
cầm được lòng nhớ quê. Bài thơ cũng không quên đề
cập nỗi buồn vô hạn của những chinh phụ nơi khuê
phòng, thương nhớ chinh nhân nơi biên tái.
Đời
Đường Cao Tông (sau khi Thổ Phồn chiếm lĩnh Thồ Cốc
Hồn làm thuộc địa), thế lực Thổ Phồn rất mạnh, uy
hiếp nặng nề tuyến đường giao thông giữa Đường
triều và Tây Vực, qua vùng Hà Tây Tẩu Lang (tức từ
Lương Châu qua Cam Châu, Túc Châu tới Đôn Hoàng). Vì muốn
bảo vệ biên cương và sự thông thương của Con đường
Tơ lụa, khoảng giữa niên hiệu Khai Nguyên và Thiên Bảo,
Đường triều đã cho thành lập Hà Tây Tiết Độ sứ
tại Lương Châu với quân số 7 vạn 3 ngàn, và Lũng Hữu
Tiết Độ sứ tại Thiền Châu với quân số 7 vạn 5
ngàn. Tất cả đều nhằm vào mục đích phòng bị quân
Thổ Phồn nhập xâm.
Năm
Thiên Bảo thứ 12 (CN 753), Lũng Hữu Tiết Độ sứ kiêm
Hà Tây Tiết Độ sứ Ca Thư Hàn đã xuất đại quân tấn
công Thổ Phồn tại Hà Tây Cửu Khúc (phía Đông Hồ
Thanh Hải). Những trận tiến công quân sự đại qui mô
kéo dài rất nhiều ngày, Ca Thư Hàn cũng công phá được
một vài thành nhỏ, nhưng tổn thất của quân Đường
lại quá nặng nề. Thời Đường Huyền Tông, Hoàng Đế
cũng đã từng lệnh cho Tướng Ca Thư Hàn đem quân tấn
công Thạch Bảo Thành của Thổ Phồn (nay ở phía Tây Nam
Tây Ninh tỉnh Thanh Hải). Trận đó quân Đường tiêu vong
gần hết mới chiếm được thành, trong khi chỉ bắt được
vỏn vẹn 400 quân địch. Nói chung từ Đường Võ Tắc
Thiên đến Đường Cao Tông rồi Đường Huyền Tông, quân
Đường chỉ cầm chân được Thổ Phồn ở vùng Phong Hỏa
Đài tuyến đầu Thanh Hải, chứ không thu phục được
lãnh địa Thổ Cốc Hồn.
Kim
Thành (Lan Châu), Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh
Thanh Hải) và Tây Hải (nay là Hồ Thanh Hải) đều là
tuyến đầu trọng yếu của khu vực Lũng Sơn. Lũng Sơn
cũng là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi
ra khỏi Hàm Dương, theo Lộ tuyến Nam của “Con đường
Tơ lụa” đi về hướng Tây.