văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Monday, April 15, 2013

Trần Yên Thảo & Lâm Hoàng Lân * Chương III - HÀNH LANG HÀ TÂY TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Kỳ Liên Sơn


Con đường tơ lụa từ Trường An đến Địa đầu vùng Trung Á có tổng số chiều dài đến 7.000 km thì hành lang Hà Tây chiếm gần hết 3.000 km. Đó là một dãy dài hẹp có màu xanh, trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ. Nhiều thành thị nằm dọc hành lang này như Thiên Thủy, Cam Châu, Túc Châu, Đôn Hoàng (Sa Châu)… nhờ sự thông thương của con đường tơ lụa mà trở thành những trung tâm giao lưu kinh tế văn hóa rất phồn thịnh.
Dọc hành lang cũng có nhiều vùng khí hậu tương đối tốt, cỏ nước phong phú giúp cho nông nghiệp và chăn nuôi phát triển khá sớm. Những khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Hoàng… có nhiều địa thế hiểm yếu, là tiền đồn bảo vệ Trung Nguyên từ thời Hán Đường và đã trở thành vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.

1. KHU VỰC ÂM SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

Ra khỏi Hàm Dương, theo con đường tơ lụa đi về hướng Tây Bắc khoảng 50km (một km tương đương với hai dặm ngày xưa), sẽ đến Thể Tuyền (ngày nay đổi tên thành Lễ Tuyền). Ở đây có lăng mộ của Đường Thái Tông (Chiêu Lăng). Tiếp tục đi về phía Tây thêm 30km nữa đến Phụng Thiên (nay là huyện Càn tỉnh Thiểm Tây), ở đây có lăng mộ của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên (Càn Lăng). Cả hai nơi đều là những điểm du lịch nổi tiếng ngày nay.
Rời Phụng Thiên, đi về hướng Tây Bắc khoảng 120km sẽ đến Châu Trị An Định Đô Kinh Châu. Sau đó có thể vượt ải Tiêu Quan để đi qua Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến Lương Châu, một trọng trấn trên con đường tơ lụa. Đó là con đường lớn độc nhất thông giữa Trường An với Tây Vực mà từ thời Tần Hán còn được mệnh danh là “Hồi Trung Đạo”. Kinh Châu là thành phố chủ yếu của “Hồi Trung Đạo”.
Khoảng giữa Kinh Châu và Nguyên Châu (nay là Cố Nguyên Ninh Hạ), là tòa quan ải trọng yếu trên con đường giao thông Đông – Tây: Tiêu Quan (tại phía Bắc Nguyên Châu và phía Nam huyện Hồi Nhạc cũng có huyện Tiêu Quan. Hai nơi này chỉ trùng địa danh chứ không cùng địa phương). Tất cả những bài thơ Biên Tái nổi danh có đề cập đến Tiêu Quan là đều nói về tòa quan ải này. Hành nhân khi đến Tiêu Quan, đưa mắt về hướng Tây, một bầu trời cảnh sắc biên tái đập vào mắt. Không chỉ có khí hậu địa vật thay đổi mà cả đến phong tục tập quán cũng trái ngược hẳn Trung Nguyên. Những trận cuồng phong nối tiếp, cát bay mù mịt, cát đập vào mình ngựa. Khí hậu khô kiệt và lạnh giá, thảo mộc không thể sinh sôi, thậm chí những ngôi chùa cũng không có bóng tre trúc. Nhà nhà đều treo cung đao trên vách, sĩ binh không rời áo giáp để kịp thời chiến đấu khi có địch xâm nhập. Ở đây hoàn toàn không thấy hình bóng khách nhàn du. Cảnh tượng như vậy trải dài tận ngoài tầm mắt từ Tiêu Quan vọng hướng Lâm Thao.
Tại phía Bắc, lộ tuyến Bắc của con đường tơ lụa là một vị trí chiến lược tối quan trọng mà binh gia của các phe đều muốn làm chủ được tình hình. Đó là khu vực Âm Sơn và Hạ Lan Sơn. Phía Đông Hạ Lang Sơn là thành Diêm Châu, đời Đường còn có tên Ngũ Nguyên, (hiện nay khu tự trị nội Mông Cổ gần Aâm Sơn cũng có tên Ngũ Nguyên nhưng không phải thành Ngũ Nguyên đời Đường). Thành Ngũ Nguyên (Diêm Châu) từ xưa đến nay vốn thuộc huyện Định Biên, nằm về Bắc bộ tỉnh Thiểm Tây. Thành Diêm Châu do Hoàng Đế hạ lệnh xây dựng vào năm Trinh Nguyên thứ nhất Đường Đức Tông, nhằm củng cố biên phòng và đã đem lại hiệu quả rất lớn. Từ ngày hoàn tất thành Diêm Châu cho đến nhiều thập kỷ sau, quân Thổ Phồn không dám dòm ngó Trung Nguyên, ngay cả các sắc dân du mục khi săn bắt hoặc chăn thả súc vật cũng phải cách xa chân thành 100 km.
Ngũ Nguyên (tức Diêm Châu) có vị trí địa lý thiên Bắc. Khí hậu khô khan lạnh lẽo, mùa xuân đến rất chậm và tồn tại rất ngắn. Nhà thơ Trương Kính Trung đời Đường có viết bài thất tuyệt “Biên Từ” mô tả hiện tượng này.
遍詞張敬忠
五原春色舊來遅
二月垂楊未挂絲
卽今河畔冰開日
正是長安花落時
Âm:
BIÊN TỪ (Trương Kính Trung)
Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti
Tức kim hà bạn băng khai nhật
Chính thị Trường An hoa lại thì.
Dịch:
LỜI BIÊN TÁI
Ngũ Nguyên xuân muộn từ xưa
Tháng hai tơ liễu còn chưa buông mành
Ở đây tuyết bắt đầu tan
Trong khi hoa đất Trường An rụng đầy.
Ý thơ: mùa xuân ở Ngũ Nguyên đến rất trễ, đã tháng hai rồi (chỉ âm lịch) mà dương liễu chưa rũ tơ, những dòng sông băng mới bắt đầu tan chậm, nếu là đất Trường An thì hoa xuân đã tàn tạ. Bài thơ ngoài nghệ thuật cao, còn có cả giá trị khoa học tự nhiên, ghi nhận được hiện tượng của “Vật Hậu học”. Những ghi chép này rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu những biến thiên của khí hậu.
Nhà thơ Lý Ích (một trong Đại Lịch thập tài tử) là người Lương Châu, sinh năm Thiên Bảo thứ 7 Đường Huyền Tông (CN 748). Năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 764) ông 17 tuổi. Lúc đó Thổ Phồn công hãm Lương Châu, ông cùng gia đình lánh nạn đến Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Năm Đại Lịch thứ tư Đường Đại Tông (CN 769), họ Lý đậu tiến sĩ. Bấy giờ quân Thổ Phồn tràn xuống Trung Nguyên đánh phá khắp nơi, thậm chí kinh đô Trường An cũng bị chiếm lĩnh. Năm Đại Lịch thứ 9 (CN 774), đại tướng Đường triều Quách Tử Nghi kiến nghị tiến hành đại qui mô quân sự đối phó quân Thổ Phồn. Lý Ích tòng quân gia nhập Mạc phủ Vị Bắc Tiết Độ Sứ Tàng Hy Nhượng. Ông đã đến Trường An theo đoàn quân Bắc tiến đi qua Ngũ Nguyên, Hạ Châu, vượt sa mạc Phá Nột Sa đến ba tòa Đông, Trung, Tây của Thụ Hàng thành. Trên đường hành quân, họ Lý đã viết nhiều bài thơ Biên Tái độc đáo được truyền tụng rất rộng. Như bài “Tống Liêu Dương Sứ Hoàn Quân” được vẽ thành đồ họa, bài “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” được soạn thành ca khúc. Những bài này sẽ đề cập sau, khi nói về những địa danh có liên quan đến con đường tơ lụa.
Khi Lý Ích đi qua Du Lâm thuộc khu vực Âm Sơn của hành lang Hà Tây, có viết bài thất tuyệt “Thính Hiểu Giác”, mô tả tiếng còi sừng buồn thảm của buổi sớm nơi đây:
聴曉角 李益
遍霜昨夜墜關楡
吹角當城漢月孤
無限塞鴻飛不度
秋風卷入小單于
Âm:
THÍNH HIỂU GIÁC (Lý Ích)
Biên sương tạc dạ trụy Quan Du
Xuy Giác đương thành Hán Nguyệt cô
Vô hạn tái Hồng phi bất bộ
Thu phong quyển nhập tiểu Thiền Vu.
Dịch:
NGHE TIẾNG CÒI SỪNG BUỔI SỚM
Đêm qua sương phủ khắp Du lâm
Còi sừng thành lặng bóng trăng tàn.
Quan tái nhạn hồng bay khó vượt
Vẳng nghe hồ khúc buồn xé gan.

Bài thơ diễn đạt những màn sương thu biên tái đã rơi xuống vùng Du Lâm. Mảnh trăng tàn vẫn còn treo lơ lững, tiếng còi sừng trên thành bỗng trỗi lên khúc nhạc Hồ (Hung Nô) buồn thảm, làm cho đàn nhạn từ Nam lên Bắc cũng không dám vượt quan san.
Hai chữ “Quan Du” trong câu đầu đã làm cho nhiều người tưởng là cây du bên quan tái, vì nhầm lẫn với bài “Tòng quân hành” cũng của Lý Ích “Quan thành du diệp tảo sơ hoàng. Nhật mộ sa vân cổ chiến trường” (Lá du trở vàng trên quan ải. Chiều hôm mây cát chiến trường xưa”. Còn một cách giải dịch khác, “Quan Du” là “Du quan”, tức Du Lâm Quan (nay là khu Mông Cổ tự trị Chuẩn Cách Nhĩ Kỳ). Cho nên câu đầu của bài “Thính Hiểu Giác” phải dịch là “Sương đêm của miền biên tái đã rơi xuống Du Lâm Quan”.
Phía Đông Ngũ Nguyên (phụ cận vùng Du Lâm tỉnh Thiểm Tây) có một con sông tên Vô Định Hà. Sông này phát nguyên từ khu Mông Cổ tự trị Ngạc Nhĩ Đa Tư, chảy về hướng Đông Nam qua Du Lâm, huyện Mễ Chi, huyện Thanh Giản (thuộc tỉnh Thiểm Tây) rồi nhập vào Hoàng Hà. Đây là con sông nước chảy rất siết đem theo nhiều bùn cát, sâu cạn khó dò và thường khi thay đổi dòng chảy nên mới có tên Vô Định Hà. Vô Định Hà là con sông nhỏ không có trong bản đồ, nhưng là khu biên tái quan trọng thời Hán Đường. Thời Hán quân Hung Nô thường theo ngã này xâm nhập và đánh phá Trung Nguyên, cho nên hai bờ sông thường xảy ra những trận chiến khốc liệt. Cho tới đời Đường, nhà thơ Trần Đào khi qua đây, vẫn còn chứng kiến những bãi xương khô phơi trắng hai bờ. Ông cảm xúc hình dung những trận đánh ác liệt trên chiến trường xưa và viết bài thất tuyệt “Lũng Tây Hành”. Nhờ đó mà con sông Vô Định trở nên nổi danh.

隴西行陳陶
誓掃匈奴不顧身
五千貂錦喪胡塵
可憐無定河遍骨
猶是春閨夢里人
Âm:
LŨNG TÂY HÀNH (Trần Đào)
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ Trần.
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.

Dịch:
BÀI HÀNH QUA ĐẤT LŨNG TÂY
Liều thân phá giặc biên thùy
Năm ngàn tướng sĩ vùi thây đất Hồ.
Bờ Vô Định bãi xương khô
Mà phòng khuê vẫn mộng chờ chinh nhân.

Bài thơ diễn tả lòng quyết tâm tiêu diệt Hung Nô không kể gì mạng sống. Trong trận chiến này, hàng mặc áo Điêu Cừu của Vũ Lâm quân cũng bỏ xác thê thảm đến năm ngàn người. Tội nghiệp cho những bãi xương khô hai bên bờ sông Vô Định, trong khi những thiếu phụ nơi phòng khuê quê nhà vẫn mộng nhớ người thân.
Phía Đông Diêm Châu và phía Bắc Hạ Châu là sa mạc Phá Nột Sa, còn gọi là sa mạc Phổ Nột Sa (nay là Khố Bố Tề sa mạc). Phía bắc Phá Nột Sa là Phong Châu, một địa điểm trọng yếu của khu vực Âm Sơn, ngay từ thời cổ đại, đây là nơi tụ cư của một dân tộc du mục phương Bắc. Một vùng thảo nguyên bao la, cỏ nước phong phú, bò dê béo tốt. Cuộc sống con người, dù là du mục, rất sung túc yên vui. Vào thời Bắc Tề (CN 550-577) có một nhà thơ vô danh sáng tác bài “Sắc Lặc ca”, một bài dân ca mô tả xuất sắc phong cảnh và cuộc sống dưới chân núi Âm Sơn.

敕勒歌 (北齊)無名氏
敕勒川,陰山下
天似穹廬,籠盖四野.
天蒼蒼,野茫茫,
風吹草低見牛羊.
Âm:
SẮC LẶC CA (Bắc Tề) Vô Danh thị
Sắc Lặc xuyên, Âm Sơn hạ
Thiên tự khung lư, lung cái tứ dã.
Thiên thương thương, dã mang mang,
Phong xuy thảo để kiến ngưu dương.
Dịch:
BÀI CA CỦA NGƯỜI SẮC LẶC
Dòng sông Sắc Lặc, chảy dưới núi Âm Sơn.
Trời như mái lớn, che khắp thảo nguyên.
Trời xanh xanh, đất bao la
Gió đùa cỏ rạp thấy dê bò.
Sắc Lặc ca” đã trở thành bài thơ trứ danh trong lịch sử thi ca Trung Quốc. “Sắc Lặc” là một dân tộc du mục thời Bắc Tề tụ cư tại Sóc Châu (nay là Bắc bộ tỉnh Sơn Tây). Ý thơ, người Sắc Lặc chúng ta quê hương tại chân núi Âm Sơn. Trời như chiếc màn lớn (Mông Cổ bào) che khắp vùng thảo nguyên rộng lớn. Trời xanh bao la, đất mênh mông không bờ bến. Một trận gió lướt qua đè rạp đồng cỏ, để lộ những đàn bò dê béo tốt.
Theo lịch sử ghi chép, “Sắc Lặc ca” vốn là tiếng Tiên Ti. Vì người Tiên Ti lúc đó chưa có văn tự, cho nên tác phẩm được sáng tác bằng xuất khẩu và phổ biến qua truyền khẩu. Mãi tới thời Nam Bắc triều mới được người Bắc Tề ghi thành Hán ngữ, từ đó trở đi bài thơ được lưu truyền bằng chữ Hán, do đó mà những câu thơ dài ngắn không đồng đều.
Tộc Tiên Ti vào thời Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều là một dân tộc hùng mạnh phương Bắc, đã từng dựng nên những nước Tiền Yên, Hậu Yên, Bắc Ngụy, Bắc Chu. Ngay cả nước Bắc Tề cũng do người Tiên Ti xây dựng trên cơ sở văn hóa Hán.
Theo ghi chép trong sách “Nhạc phủ quảng đề”: Tướng Cao Hoan của Bắc Tề đem quân công thành Ngọc Bích của Bắc Chu. Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, sĩ binh của Bắc Tề cơ hồ thương vong quá nửa mà vẫn chưa hạ được thành, tướng Cao Hoan lo sợ ngã bệnh. Vua Bắc Chu hạ lệnh: “Cao Hoan chỉ là con chuột già, dám ngang nhiên công thành Ngọc Bích. Ta chỉ cần ra quân đánh một trận nhẹ, bọn chúng sẽ không có đất chôn.” Cao Hoan nghe được, hốt nhiên vùng dậy triệu tập bộ tướng, an ủi sĩ binh và ra lệnh tất cả cùng hát bài “Sắc Lặc ca”, Cao Hoan cũng cất tiếng hát theo. Tiếng hát vang dội cả đồi núi thảo nguyên, sĩ binh phấn chấn tinh thần và công hạ thành Ngọc Bích. Câu chuyện tuy có vẻ giai thoại nhưng tự thân nó nói lên được sức mạnh kinh thiên động địa phát ra từ một bài dân ca giản đơn bình thường.
Bài “Sắc Lặc ca” mô tả cảnh sắc cực kỳ chân thật, cho người đọc (và cả người nghe) hình dung được toàn cảnh phong quang miền biên tái, một thảo nguyên rộng lớn dồi dào sức sống. Từ đó bài thơ trở thành (gần như) kinh nhật tụng, và nhất là câu cuối bài, đã trở nên thành ngữ cho bao nhiêu người, bao nhiêu thế hệ của dân tộc Sắc Lặc tụ cư dưới chân núi Âm Sơn (Phong xuy thảo để kiến ngưu dương).
Chân núi Âm Sơn hằng năm còn là địa điểm trao đổi ngựa và vàng lụa giữa Hồi Cốt (Hồi Hột) với vương triều Đường. Mỗi năm cứ đến hẹn kỳ, người Hồi Cốt từ phía Tây Bắc lùa ngựa, theo Con đường Tơ lụa, đến chân núi Âm Sơn. Vương triều Đường cũng chuyển tải vàng lụa, theo Con đường Tơ lụa đến đó. Giá mỗi con ngựa qui định 10 tấm lụa (sau này tăng lên 40 tấm), và ngựa què ngựa ốm chết Đường triều cũng phải nhận. Những vùng cỏ nước dồi dào dọc chân núi Âm Sơn hằng năm, đoàn ngựa của Hồi Cốt đi qua, ăn hết cỏ uống cạn nước mà số ngựa què quặt, ốm chết vẫn không giảm. Vì muốn thu vào số lượng ngựa quá lớn nên triều đình không những vắt kiệt công của trong dân chúng mà còn phải trút vàng bạc trong kho lẫm để trợ giá cho khoản tơ lụa thiếu chất lượng và số lượng.
Vì quan điểm ngựa là phương tiện tối ưu trong chiến tranh (thời cổ) nên Đường Hiến Tông có ý đồ thu hết nguồn ngựa để bẻ gãy khả năng chiến tranh của Hồi Cốt. Nhưng cuối cùng phải đối diện 3 hậu quả nghiêm trọng không còn thuốc chữa: Thứ nhất, ôm về số ngựa vô dụng quá lớn, đã trở thành gánh nặng không biết trút vào đâu. Thứ hai, tài vật trong dân chúng đã kiệt quệ mà kho lẫm triều đình cũng trống rỗng. Thứ ba, người Hồi Cốt chỉ trao cho Đường triều số ngựa què quặt, ốm chết, trong khi vẫn bảo tồn chiến mã cho chiến tranh. Trong loạn An Sử (đời Đường Huyền Tông), triều đình có mượn quân Hồi Cốt để dẹp loạn. Người Hồi Cốt cậy công nên tỏ ra kiêu ngạo, thái độ bắt ép điều kiện vô lý trong mậu dịch ngựa cũng phát xuất từ lòng kiêu căng đó. Trong khi Đường Hiến Tông cứ tưởng lầm mình có thể tương kế tựu kế trong lòng tham này của đối phương.
Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 11 đến năm thứ 15, Đường Huyền Tông, nhà thơ Vương Xương Linh đã theo quân đến vùng biên tái. họ Vương đã đến Tiêu Quan, Lâm Thao, Ngọc Môn Quan và đến cả Toái Diệp thành của vùng trung Á Tế Á. Thời gian sống trong quân lữ, ông đã thực sự cảm thụ được từ phong quang đến nếp sinh hoạt vùng biên tái. Từ đó, nhà thơ đã viết nhiều bài về biên tái rất nổi danh, mô tả sống động từ cảnh vật đến nếp sống trên những khu vực biên cương dọc theo Con đường Tơ lụa, trong đó, trứ danh nhất là bài thất tuyệt “Xuất Tái”:
出塞王昌齡
秦時明月漢時關
萬里長征人未還
但使龍城飛将在
不敎胡馬度蔭山
Âm:
XUẤT TÁI (Vương Xương Linh)
Tần thời minh nguyệt Hán thời quan,
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đản sử Long Thành Phi tướng tại,
Bất giao Hồ mã độ Âm San.
Dịch:
RA QUAN ẢI
Trăng Tần ải Hán nhiêu khê,
Chinh nhân vạn dặm ngày về chưa hay.
Cầm bằng Lý trướng còn đây,
Thì Âm San đã vùi thây ngựa Hồ.

Xuất Tái” là một cựu đề trong Nhạc Phủ. Ý thơ, vầng trăng và quan ải hôm nay đều là cổ vật của Tần Hán. Những đoàn quân chiến đấu ngoài quan ải nhiều năm chưa trở về. Nếu còn danh tướng Lý Quảng của Tây Hán trấn thủ Long Thành bảo vệ biên cương thì, tuyệt đối không cho phép kỵ binh của người Hồ vượt núi Âm Sơn vào đánh phá Trung Nguyên.
Nhà thơ Trung Đường Đái Thúc Luân khi đi qua Âm Sơn cũng có viết bài “Tái Thượng khúc”, một bài thất tuyệt (mượn Hán chỉ Đường) mô tả hào tâm tráng chí của binh tướng Đường triều chiến đấu bảo vệ Âm Sơn:
塞上曲 戴叔倫
漢家旗幟满陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長报國
何須生入玉門關
Âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC (Đái Thúc Luân)
Hán gia kỳ xí mãn Âm San
Bất khiến Hồ nhi thất mã hoàn,
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn Quan.
Dịch:
KHÚC HÁT TRÊN QUAN TÁI
Quân Đường vây kín cả Âm San
Không để ngựa Hồ thoát lưới ngăn.
Nguyện đem thân sống đền ơn nước
Mong gì trở lại Ngọc Môn Quan.
Bài thơ diễn đạt khí thế quân Đường (mượn Hán chỉ Đường) cờ xí rợp trời vây kín núi Âm Sơn, quyết không để cho một kỵ binh Hồ nào lọt lưới đào thoát. Chí nguyện thà chết vĩnh viễn bảo vệ quốc gia chứ không cầu sống sót trở lại Ngọc Môn Quan để hồi hương. Câu cuối bài có vận dụng một cố sự đời Hán, nói về nhân vật anh hùng Ban Siêu. Thời trai trẻ họ Ban đã ném bút tòng quân đến trấn thủ nhiều thập kỷ tại Tây Vực và đã lập nhiều chiến công hiển hách. Những năm về già, Ban Siêu vì nhớ quê, đã thỉnh nguyện triều đình xin được trở lại Ngọc Môn Quan để về cố hương. Trong bài thơ của Đái Thúc Luân có phản ý, binh tướng Đường triều hạ quyết tâm thà chết, vĩnh viễn bảo vệ Âm Sơn phòng thủ cho Trung Nguyên, chứ không xin trở lại Ngọc Môn Quan như Ban Siêu đời Hán.
Nhà thơ Lý Ích khi hành quân đến ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành của khu vực Âm Sơn có viết một bài thất tuyệt “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch”, mô tả cảnh tượng về đêm nơi vùng biên tái này:
夜上受降城聞笛 李益
回樂烽前沙似雪
受降城外月如霜
不知何處吹蘆管
一夜征人盡望鄉
Âm:
DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH (Lý Ích)
Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng Thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
Dịch:
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO
Cát trước non Hồi trông tựa tuyết
Trăng ngoài thành Thụ ngó như sương.
Ai hay sáo thổi nơi nào nhỉ?
Đêm ấy người xa nhớ cố hương.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Khu vực Âm Sơn vào đời Đường có ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành, do Sóc Phương quân tổng quản Trương Nhân Nguyện xây dựng vào niên hiệu Cảnh Vân Võ Tắc Thiên. Mục đích chế ngự quân Đột Quyết xâm nhập. Đông Thụ Hàng thành tại Nội Mông Thác Khắc Thác Nam. Trung Thụ Hàng thành ở phía Tây thành phố Bao Đầu ngày nay. Tây Thụ Hàng thành ở Hàng Tích Hậu Kỳ (bờ Bắc sông Ngũ Gia Hà). Lý Ích hành quân tới đây vào thời kỳ quân Thổ Phồn thường từ phía Tây xâm nhập, nhằm giành quyền kiểm soát huyết mạch Đông-Tây của Con đường Tơ lụa. Cho nên Tây Thụ Hàng thành vào thời kỳ này là tiền đồn quan trọng nhất của khu vực Âm Sơn. Phong Hỏa Đài trên núi Hồi Nhạc nằm về Tây Thụ Hàng thành. Ở phía Bắc Nguyên Châu cũng có huyện Hồi Nhạc và Phong Hỏa Đài, nhưng chỉ trùng địa danh chứ không liên quan tới Hồi Nhạc phong của Thụ Hàng thành.
Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” vẽ ra những bãi cát trước núi Hồi Nhạc sáng lên như màu tuyết, ánh trăng ngoài thành Thụ Hàng mờ ảo như sương. Tiếng sáo, không biết từ đâu, trỗi lên những khúc nhạc bi sầu, làm thức dậy lòng nhớ quê của chinh khách.
Ba tòa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành là tuyến đầu của Âm Sơn. Âm Sơn là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, men theo lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

2. KHU VỰC LŨNG SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

Rời Hàm Dương, men theo lộ tuyến Nam của Con đường Tơ lụa, đi về hướng Tây khoảng 20km là đến huyện Hưng Bình (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Phía Đông Bắc Hưng Bình là Mậu Lăng (lăng mộ của Hán Vũ Đế). Vào thời Tây Hán ở đây đã từng có huyện Mậu Lăng, nhưng qua hơn 2.000 năm biến thiên, Mậu Lăng chỉ còn để lại dấu tích. Phía Tây huyện Hưng Bình là trạm Mã Ngôi, nơi mỹ nhân đời Đường Dương Quí Phi đã bị bức tử trên đường chạy vào Thục, trong loạn An Sử. Hiện tại, nơi đây vẫn còn mộ Dương Quí Phi. Tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến huyện Vũ Công, bên ngoài huyện trấn Vũ Công là phần mộ của một nhân vật nổi danh thời Tây Hán: Tô Vũ.
Từ Vũ Công theo Con đường Tơ lụa tiếp tục về hướng Tây, sau khi vượt Lũng Sơn, hành nhân bước vào vùng Đông Nam Bộ của Lũng Hữu đạo. Địa giới của Lũng Hữu đạo bao quát từ Lũng Sơn Cam Túc đổ về phía Tây, từ Ô Lỗ Mộc Tề Tân Cương đổ về phía Đông, thẳng tới Đông Bắc bộ tỉnh Thanh Hải, thủ phủ đóng tại Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải). Thời cổ đại lấy hướng Tây làm mé phải, cho nên phía Tây Lũng Sơn được gọi “Lũng Hữu”. Từ Tây Hán trở đi, Lũng Hữu là vùng biên tái không bao giờ gián đoạn chiến tranh. Lữ khách rời Trường An theo Con đường Tơ lụa, sau khi đến Lũng Hữu, sẽ đối diện một bầu cảnh sắc cực kỳ biến hóa từ khí hậu đến địa vật. Đó là cảnh tượng mà Vương Nhai, nhà thơ đời Đường, khi qua đây đã mô tả trong một bài ngũ tuyệt: “Lũng Thượng hành”
隴上行 王涯
負羽到遍州
鳴笳度隴頭
黄云知塞近
草白見遍秋
Âm:
LŨNG THƯỢNG HÀNH (Vương Nhai)
Phụ vũ đáo biên châu
Minh già độ Lũng Đầu
Hoàng vân tri tái cận
Thảo bạch kiến biên thu
Dịch:
ĐI TRÊN LŨNG SƠN
Cung nỏ đến biên cương
Nghe kèn qua Lũng Sơn
Mây vàng soi biên tái
Cỏ trắng báo thu sang

Bài thơ vẽ hình ảnh người chiến sĩ vai đeo cung tên tiến ra biên ải. Khi vượt Lũng Sơn hốt nhiên nghe khúc nhạc bi lương vẳng lên từ tiếng kèn lá của người Hồ. Mây vàng soi gần biên tái và những đám cỏ trắng báo hiệu thu về. Cỏ trắng là loại cỏ có tên Cập Cập, chỉ sinh trưởng ở vùng Lũng Sơn đổ về phía Tây. Mỗi độ vào thu, mọi nguồn nước cạn kiệt, cỏ bị chết khô hóa màu trắng.
Sau khi vào đất Lũng Hữu, hành nhân sẽ dẫm lên Tần Châu, một thành trấn lớn của khu vực Lũng Sơn (nay là thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc). Trong loạn An Sử, nhà thơ Đỗ Phủ đã từng lánh cư xứ này, ông có viết đề tài “Tần Châu tạp thi” với 20 bài ngũ tuyệt. Từ Tần Châu, tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến Lan Châu (đời Đường còn có tên Kim Thành), rồi đến Thiền Châu. Đó là khu vực bao quát những trọng trấn quân sự Lâm Thao, Hà Tây Cửu khúc (nay là Hồ Thanh Hải) và Mân Sơn. Những vùng này, vào thời Sơ Đường, là lãnh địa của tiểu vương quốc Thồ Cốc Hồn. Vào niên hiệu Long Sóc Đường Cao Tông, Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn (Tây Tạng) tiêu diệt, phải chạy qua nương nhờ Vương triều Đường. Do vậy mà những vùng đất vừa kể, có một thời, là chiến trường kinh thiên động địa giữa Đường triều và Thổ Phồn.
Lũng Sơn tức đoạn phía Nam của Đại bàng Sơn (cũng còn có những tên Lũng Pha, Lũng Để, Lũng Thủ). Lũng Sơn ngày nay là biên cảnh giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, có chiều dài từ Nam lên Bắc khoảng 100 km, cũng là phân giới giữa bình nguyên Vị Hà và cao nguyên Lũng Tây.
Thời cổ đại giao thông rất khó khăn, đi lại vất vả. Những đoàn quân Tây chinh, những thương đội hoặc những quan viên công cán Tây Vực, sau khi rời những đô thị phồn hoa như Trường An, Hàm Dương, theo Con đường Tơ lụa về hướng Tây. Sau khi vượt Lũng Sơn, suốt tầm mắt là một không gian biên tái dị dạng, đơn điệu. Khí hậu khô kiệt giá buốt gợi cho lữ khách lòng nhớ quê da diết. Dân ca nhạc phủ thời Bắc triều có đề tài “Lũng Đầu ca từ” (3 bài) mô tả xuất sắc lòng nhớ quê của lữ khách khi bước chân tới Lũng Sơn:

隴頭歌辞 (北朝)樂府民歌
隴頭流水
流离山下
念吾一身
飄然曠野
朝發欣城
暮宿隴頭
寒不能語
舌卷入喉
隴頭流水
鳴聲鳴咽
遥望秦川
心肝斷絕
Âm:
LŨNG ĐẦU CA TỪ
(Bắc Triều) Nhạc Phủ Dân Ca
(Bài 1)
Lũng Đầu lưu thủy
Lưu ly sơn hạ
Niệm ngô nhất thân
Phiêu phiêu khoáng dã
(Bài 2)
Triêu phát Hân thành
Mộ túc Lũng Đầu
Hàn bất năng ngữ
Thiệt quyển nhập hầu
(Bài 3)
Lũng Đầu lưu thủy
Minh thanh minh yết
Diêu vọng Tần Xuyên
Tâm can đoạn tuyệt

Dịch:
NHỮNG BÀI HÁT VỀ LŨNG ĐẦU (Lũng Sơn)
(Bài 1)
Nước tự Lũng Đầu
Đổ về chân núi
Một thân phiêu diêu
Gởi theo cỏ nội
(Bài 2)
Hân thành buổi sớm
Chiều tới Lũng Đầu
Lạnh không hớ miệng
Lưỡi cuộn yết hầu.
(Bài 3)
Lũng Đầu nước xung
Âm vang bất tuyệt
Vọng về Quan Trung
Ruột gan đứt hết
Bài 1:
Nước tự Lũng Đầu (Lũng Sơn) đổ tứ tán về chân núi. Còn một thân lênh đênh phiêu bạt của ta, cũng chỉ biết phó mặc cho thảo nguyên không bờ bến.
Bài 2: Một sớm rời Hân thành, chiều tối đến Lũng Sơn. Trời lạnh tới độ không thể mở miệng nói, tưởng chừng như lưỡi đã bị cuộn cứng vào cổ họng.
Bài 3: Những khe nước từ Lũng Sơn tuôn xuống, vang vọng những âm thanh bi lương. Ta đứng trên đầu núi ngóng về cố hương Tần Xuyên (nay là Quan Trung tỉnh Thiểm Tây), tưởng chừng ruột gan đứt đoạn.
Những bài dân ca “Lũng Đầu lưu thủy” này khi lưu truyền, gần như đã hóa ra thành ngữ của bi lương, nhớ quê, sầu khổ. Trải qua nhiều triều đại, “Lũng Đầu lưu thủy” đã trở thành đề tài trong sáng tác của nhiều thi nhân.
Sầm Tham, nhà thơ nổi danh thời Thịnh Đường, xuất thân từ một gia đình quan lại, đậu tiến sĩ năm 30 tuổi, có giữ một chức quan nhỏ tại Trường An. Đường Huyền Tông năm Thiên Bảo thứ 8 (CN 749), An Tây Tiết Độ Sứ Cao Tiên Chi về triều, thỉnh cầu Hoàng Đế cử Sầm Tham đến giữ chức thư ký trong mạc phủ Tiết Độ Sứ của ông ta, lúc đó Sầm Tham 35 tuổi. Một ngày mùa Đông năm đó Sầm Tham lần thứ nhất đến Tây Vực. Từ Trường An, họ Sầm theo Con đường Tơ lụa, đi về phía Tây qua khỏi Đôn Hoàng, đến An Tây Đại Đô Hộ Phủ (lúc đó đặt tại thành Khưu Từ, nay là vùng Khố Xa tỉnh Tân Cương)). Sầm Tham giữ chức thư ký ở đó 2 năm, đến năm Thiên Bảo thứ 10 (CN 751) được triệu hồi về Trường An.
Khoảng giữa mùa Hạ và mùa Thu, từ năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông đến năm Chí Đức thứ 2 Đường Túc Tông (CN 754-757), Sầm Tham lần thứ hai được cử đến Tây Vực, nhận chức Phán quan tại mạc phủ An Tây Tiết Độ sứ Phong Thường Thanh. Lần thứ nhất đến Tây Vực vì chưa quen với phong cảnh dị dạng, khí hậu khắc nghiệt và sinh hoạt gian khổ nơi quan ải, nên thơ họ Sầm chỉ có tình điệu nhớ nhung sầu thảm. Lầân này đến Tây Vực nhà thơ đã quen thuộc mọi thứ và có nhiều kinh nghiệm sinh hoạt nơi biên cương, nên thơ ông bật lên được tinh thần hào tráng, vẽ lên được những hình ảnh vừa hào hùng vừa bi tráng trên tuyến đầu đất nước. Ngay cả những bài thơ nhớ nhà của họ Sầm cũng không hề biểu lộ tình điệu sầu thảm, như bài thất tuyệt “Phó Bắc Đình độ Lũng tư gia” dưới đây:

赴北庭度隴思家 岑参
西向輪臺萬里餘
也知鄉信日應疏
隴山鸚鵡能言語
爲報家人數寄書
Âm:
PHÓ BẮC ĐÌNH ĐỘ LŨNG TƯ GIA (Sầm Tham)
Tây hướng Luân Đài vạn lý dư
Dã tri hương tín nhật ưng sơ
Lũng Sơn Anh Vũ năng ngôn ngữ
Vị báo gia nhân số ký thư

Dịch:
NHỚ NHÀ KHI QUA LŨNG SƠN, TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN BẮC ĐÌNH
Tây cách Luân Đài hơn vạn dặm
Tin quê mỗi bước một thưa xa
Lũng Sơn Anh Vũ chừng biết nói
Thay giúp tin thư gởi quê nhà

Bài thơ mô tả hình ảnh lữ khách đi về hướng Tây, còn cách Luân Đài hơn vạn dặm. Tin tức quê nhà càng lúc càng xa theo mỗi bước chân. Tiếng hót chim Anh Vũ trên đầu núi Lũng hình như nói lên được lòng người, hãy thay ta đưa tin về quê.
Vùng Lũng Sơn có loài chim Anh Vũ màu lông rất đẹp, các quan chức triều đình rất thích chơi loài chim này nên lệnh cho địa phương hàng năm phải tiến cống. Việc bắt chim Anh Vũ (chim Két) là một tai họa kinh khủng cho bá tánh Lũng Sơn và cả quan sai địa phương. Anh Vũ ở Lũng Sơn làm tổ trên sườn núi cheo leo, cách mặt đất từ 100m trở lên. Người dân nơi đây phải dùng dây leo, treo người lơ lững trên không vào lúc nửa đêm, rình bắt chim. Công việc hết sức nguy hiểm, 10 người leo núi may ra chỉ còn 1 người sống sót đem chim về. Trong khi các tướng lãnh trấn thủ biên cương cũng học đòi chơi chim Anh Vũ. Họ lệnh cho sĩ tốt phải làm những chiếc lồng đẹp, hằng ngày còn phải hầu rượu cho các tướng lãnh thưởng ngoạn chim, việc phòng thủ biên ải nhiều khi lơi lỏng.
Con đường Tơ lụa” sau khi vượt Lũng Sơn, đi về phía Tây khoảng 100 km sẽ đến Tần Châu. Thủ phủ Tần Châu là Thiên Thủy (nay là thành phố Thiên Thủy tỉnh Cam Túc). Địa danh Thiên Thủy có từ năm Nguyên Đỉnh thứ 2 đời Hán Vũ Đế (114CN), có trước cả địa danh Tần Châu thời Tam Quốc. Phía Tây ngoại thành Thiên Thủy có một hồ nước. Theo nói lại thì nước hồ này mùa Hạ không tăng Đông không giảm, mưa không đầy nắng không vơi. Truyền thuyết, có một con sông từ trời chảy xuống hồ nên mới có tên “Thiên Tủy” (nước trời). Truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết, tất cả những hiện tượng đó ngày nay không tồn tại.
Có một điều, chính sử không phủ nhận, Thiên Thủy từ viễn cổ tới đời Đường là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, là quê hương của nhiều nhân vật lừng danh trong lịch sử. Thượng cổ có Hoàng Đế Nữ Oa (nhân vật luyện đá vá trời và lập ra chế độ hôn nhân). Hoàng Đế Phục Hy (nhân vật vạch ra 8 quẻ bát quái làm nền tảng cho kinh Dịch). Đời Hán có Lý Quảng (danh tướng uy trấn Hung Nô). Tam quốc có Gia Cát Lượng, Triệu Xung Quốc, Khương Duy. Cả hai vị Hoàng Đế khai quốc nhà Đường Lý Uyên và Lý Thế Dân, đều là những nhân vật sinh trưởng tại Thiên Thủy.
Năm Càn Nguyên thứ nhất Đường Túc Tông (CN 758), nhà thơ Đỗ Phủ bị biếm quan ở Hoa Châu (nay là huyện Hoa tỉnh Thiểm Tây), ông đưa gia đình, theo Con đường Tơ lụa, vượt Lũng Sơn đến Tần Châu. Gặp lúc cuộc sống ở đây chật vật, mọi sinh hoạt khó khăn lại thêm Tần Châu đang bị quân Thổ Phồn uy hiếp, nên ông chỉ lưu lại một thời gian ngắn rồi rời Tần Châu đến Đồng Cốc (nay là huyện Thành tỉnh Cam Túc). Cuộc sống ở Đồng Cốc chẳng khả quan gì hơn Tần Châu, nên cũng chỉ một thời gian ngắn, ông đưa gia đình thẳng vào Thành Đô (đất Thục).
Thời gian lưu lại Tần Châu tuy ngắn ngủi (3 tháng) nhưng lại là thời kỳ sáng tác thịnh nhất của Đỗ Phủ, ở đây ông đã viết hơn 90 bài thơ (trung bình mỗi ngày 1 bài) mô tả xuất sắc từ núi sông, con người đến cả hình thể đất nước trên một vùng đất trọng yếu của Con đường Tơ lụa. Nổi bật nhất là 20 bài “Tần Châu tạp thi” mà trong khuôn khổ chương sách này, chúng tôi chỉ tạm trích 2 bài.

秦州雜诗 杜甫
秦州城北寺
胜迹隗囂宮
苔藓山門古
丹青野殿空
月明垂葉露
雲逐度溪風
清渭無情極
愁時獨向東
莽莽萬重山
孤城山谷間
無風雲出塞
不夜月臨關
属國歸何晚
楼蘭斬未還
烟塵獨長望
衰颯正摧顏

Âm:
TẦN CHÂU TẠP THI (Đỗ Phủ)
(Bài 2)
Tần Châu thành Bắc tự
Thắng tích Ngỗi Hiêu cung.
Đài tiểán sơn môn cổ
Đan thanh dã điện không
Nguyệt minh thùy diệp lộ
Vân trục độ khê phong
Thanh vị vô tình cực
Sầu thị độc hướng Đông.

(Bài 7)
Mãng mãng vạn trùng san
Cô thành sơn cốc nhàn.
Vô phong vân xuất tái
Bất dạ nguyệt lâm quan.
Thuộc quốc qui hà vãn?
Lâu Lan trảm vị hoàn!
Yên trần độc trường vọng
Suy táp chính tồi nhan.
Dịch:
THƠ VẶT LÀM Ở TẦN CHÂU
Bài 2
Tần Châu chùa cõi Bắc
Ấy chốn Ngỗi Hiêu xưa.
Cửa núi làn rêu cũ
Đền hoang nét vẽ thưa.
Trăng soi sương lá giọt,
Mây dục gió khe đưa.
Thanh vị thờ ơ thế,
Về Đông buồn quạnh chưa!
Bài 7:
Lớp lớp núi muôn hòn,
Nếp thành giữa lũng con.
Mây biên đùn gió lặng,
Chiều ải ló trăng non.
Thuộc quốc sao về muộn?
Lâu Lan chắc vẫn còn!
Ngóng hoài trong khói bụi,
Vẽ mặt luống thon von.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Trong suốt 20 bài của “Tần Châu tạp thi”, Đỗ Phủ đã mô tả sống động từ lộ trình dọc Con đường Tơ lụa đến Tần Châu và cả bức tranh toàn cảnh Tần Châu. Ông đã đi qua suối Ngư Long, núi Điểu Thử (suối Ngư Long phát nguyên từ Tây Bắc huyện Lũng, chảy về Nam nhập vào Khai Thủy. Suối này sản sinh một giống cá ngũ sắc tương truyền là giống Rồng, mới có tên Ngư Long. Núi Điểu Thử thuộc huyện Vị Nguyên tỉnh Cam Túc ngày nay).
Bài 2 trong “Tần Châu tạp thi” nói về những biến thiên của một thắng tích. Trên đầu núi phía Đông Bắc Tần Châu có ngôi chùa Sùng Ninh, vốn là nền cung điện xưa của Ngỗi Hiêu. Cuối thời Tây Hán Ngỗi Hiêu cát cứ toàn bộ vùng Cam Châu và Túc Châu (nay là tỉnh Cam Túc), tự xưng là Tây Châu đại tướng quân. Sau này bị nhà Đông Hán đánh bại nhiều lần, Ngỗi Hiêu lo buồn sinh bệnh mà chết. Di tích Ngỗi Hiêu cung tại đầu núi phía Bắc thành phố Thiên Thủy ngày nay, tục gọi Hoàng Thành. nay chỉ còn lại cảnh hoang tàn của những mẫu tường sụp đổ. Cửa chùa Sùng Ninh cũng mọc đầy rong rêu cỏ dại. Bên trong không một bóng người, ánh trăng chiếu qua những giọt sương trên lá, mây bên dòng suối bị gió chiều cuộn trôi.
Bài 7: Tả cảnh Tần Châu nằm giữa sơn cốc với núi non trùng điệp. Trời không gió, mây vẫn cứ tự trôi qua ải. Đêm chưa xuống hẳn mà ánh trăng đã rải khắp biên cương. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ sao vẫn chưa trở về? Hay là chưa chịu đáp ứng yêu sách của vua Lâu Lan? (Vua Lâu Lan chỉ Thiền Vu Hung Nô. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ lãnh mệnh Hán triều đi sứ Hung Nô, bị bắt đày đi chăn dê 19 năm nơi biên tái. Ý thơ mượn điển cố Hán để chỉ sứ giả Đường triều). Hai câu cuối, Đỗ Phủ nhân cảnh chạnh tình, nghĩ về tuổi già long đong và dung nhan tiều tụy của mình.
Con đường Tơ lụa”, từ Tần Châu, có một đại đạo thông thẳng qua sa mạc, ở đây có hàng ngàn lán trại của người Hồ (đã qui phục triều đình), dân cư có đến 10 ngàn hộ, tuấn mã chạy khắp sa mạc rớt xuống những giọt mồ hôi đỏ như huyết. Đó là Tộc Bạch Đề của người Hồ (người dân tộc này thích dùng phấn trắng bôi lên trán nên tự xưng là “Bạch Đề Tộc”).
Lúc Đỗ Phủ đến Tần Châu thì nơi đây đã là biên quan của Đường Triều. Trong loạn An Sử triều đình đã điều hết quân tinh nhuệ phòng thủ biên tái về nội địa dẹp loạn, kết quả tuyến đầu bỏ trống. Ngoại tộc thừa cơ bắt đầu xâm nhập, nghiêm trọng nhất là Thổ Phồn (Tây Tạng). Thổ Phồn liên tục đánh chiếm Hà Tây, Lũng Hữu, cuối cùng công hãm cả kinh đô Trường An.
Tại một tòa núi phía Nam ngoại thành Tần Châu là chùa Nam Quách. Trong chùa có một dòng suối gọi Bắc Lưu Tuyền chảy về hướng Tần Châu. Những ngày lưu lại Tần Châu, Đỗ Phủ đã từng du lãm qua chùa Nam Quách (vị trí ngày nay nằm giữa eo núi Nam Sơn, cách phía Nam Thiên Thủy khoảng 3 km). Trước chùa có hai cây Hòe lớn xưng là Hán Hòe. Tại một viện nhỏ phía Đông chùa có một giếng đá (nằm trong dòng chảy của Bắc Lưu Tuyền). Giếng này không những nước rất tốt mà đặc biệt mùa hạn nước nhiều hơn mùa mưa. Trước chánh điện chùa có hai cây bách rất xưa mà trong thơ Đỗ Phủ gọi “Lão thụ”, ít nhất cũng có hơn ngàn năm tuổi, mỗi cành đều có một bia đá. Một trong hai cây bách thân nứt làm đôi, chính giữa mọc lên cây hòe, làm thành hiện tượng kỳ lạ “Bách Bao Hòe”. Tương truyền, danh tướng khai quốc công thần Đường triều Uất Trì Kính Đức đã từng cưỡi ngựa trên hai cây bách này. Nói chung, những di tích cổ xưa của chùa Nam Quách vẫn còn bảo tồn đầy đủ.
Đông thiền viện chùa Nam Quách có miếu Đỗ Phủ (Đỗ Công Từ). Theo ghi chép thì ở Đông Kha Cốc Tần Châu (nay là Công xã Liễu Gia Hà Thôn), thuộc huyện Thiên Thủy, Cam Túc) Đỗ Phủ đã từng ngụ tại nhà người cháu Đỗ Tả. Nơi đây có Đỗ Công Bộ thảo đường, một kiến trúc kỷ niệm Đỗ Phủ, niên hiệu Đồng Trị đời Thanh đã bị chiến tranh phá hủy. Sau này Đông thiền viện chùa Nam Quách được đổi tên “Đỗ Công Từ”. Ngày nay trong miếu vẫn còn tượng Đỗ Phủ và hai tiểu đồng đứng hầu sách (nhiều tư liệu cho đó là hai con trai của nhà thơ, Đỗ Tôn Văn và Đỗ Tôn Võ).
Phía Đông Nam Tần Châu khoảng 40 km, là vị trí của một tòa núi có đỉnh giống hình một đống lúa Mạch, nên có tên Mạch Tích Sơn, một thắng cảnh trứ danh nằm trên Hành Lang Hà Tây của Con đường Tơ lụa (khu vực Lũng Sơn). Khoảng sau nhà Tần (CN 384-417), Mạch Tích Sơn bắt đầu được khai quật, kéo dài đến thế kỷ 19, bảo tồn được gần 200 hang động. Bên trong có một số lớn tượng Phật bằng đá và hơn 1000m2 bích họa. Những hang đá trên núi cao hơn 140m, theo những phương pháp nghiên cứu hiện đại, người xưa đã đắp đất từ chân núi lên đến hiên nhai rồi theo những bậc đất, lên đó đục hang động, khắc tượng Phật, khi làm xong dời đất đi. Người sau muốn lên tham quan hang động phải thiết kế cầu treo mới lên được. Trải mấy ngàn năm biến thiên, Mạch Tích Sơn vẫn được bảo tồn hoàn hảo. Ngày nay đã trở thành thắng cảnh du lịch trên Con đường Tơ lụa.
Năm Quảng Đức thứ nhất Đường Đại Tông (CN 763), quân Thổ Phồn tiến chiếm kinh đô Trường An, 13 ngày sau bị danh tướng Quách Tử Nghi đem quân đẩy lui. Tới năm Quảng Đức thứ hai (CN 764), Thổ Phồn liên kết với Hồi Hột đem hơn 10 vạn quân, lần thứ hai công chiếm Trường An, nhưng cũng bị quân Quách Tử Nghi bẻ gãy. Vùng Đông Bộ biên cảnh Thổ Phồn là Đường Kiếm Nam Tiết Độ Sứ do Nghiêm Vũ quản hạt, cũng nhiều lần bị quân Thổ Phồn nhập xâm đánh phá. Năm Quảng Đức thứ hai, Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xuất quân tấn công đại qui mô, tiêu diệt hơn 7 vạn binh mã Thổ Phồn. Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xua quân chiếm luôn Câu Thành (nay là khu A Bá tự trị tỉnh Tứ Xuyên), sau đó tiến chiếm Diêm Xuyên Thành (nay thuộc Tây Bắc huyện Chương tỉnh Cam Túc). Cả hai nơi đều nằm phụ cận Lâm Thao. Cuộc chiến kéo dài từ mùa Thu đến mùa Đông mới kết thúc.
Trấn Lâm Thao nằm ở chân núi Mân Sơn (nay là huyện Mân tỉnh Cam Túc, không phải huyện Lâm Thao đời Đường) là một trọng trấn quân sự biên tái mà Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua, và cũng được nhiều nhà thơ nhắc tới. Nhà thơ Thịnh Đường Vương Xương Linh khi hành quân qua đây đã viết bài ngũ luật “Tái Hạ Khúc”

塞下曲 王昌齡
飲馬渡秋水
水寒風似刀
平沙日未沒
黯黯見臨滔
昔日長城戰
咸言意氣高
黄塵足今古
白骨亂蓬蒿
Âm:
TÁI HẠ KHÚC (Vương Xương Linh)
Ẩm mã độ thu thủy
Thủy hàn phong tự đao.
Bình sa nhật vị một,
Ảm ảm kiến Lân Thao
Tích nhật trường thành chiến,
Hàm ngôn ý khí cao.
Hoàng trần súc kim cổ,
Bạch cốt loạn Bồng hao.

Dịch:
BÀI HÁT DƯỚI
Qua sông ngựa uống nước,
Nước lạnh, gió như dao.
Nắng tà vùng cát phẳng,
Thấp thoáng thấy Lâm Thao.
Trận Trường Thành thuở trước,
Cùng bảo khí quân cao.
Bụi vàng đầy kim cổ,
Xương trắng lẫn Bồng hao.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Qua bài “Tái Hạ Khúc”, Vương Xương Linh diễn đạt tâm tư đối cảnh chạnh tình của một chiến binh già trấn đóng nơi biên tái. Buổi chiều mùa Thu, vì cho ngựa uống nước phải lội qua dòng sông nhỏ, nước sông giá lạnh, gió quét vào mặt như dao cắt. Màu trời hôn ám, bóng chiều tà còn vướng trên sa mạc mênh mông. Nhìn về hướng Lâm Thao xa xa, chạnh nhớ những trận ác chiến dưới chân Trường Thành thuở trước, ngày đó sĩ khí rất cao nhưng tự cổ chí kim, tất cả mọi cuộc chiến tranh đều chỉ để lại những bãi cát vàng, xương người ngổn ngang lẫn lộn vào cỏ dại.
Vị Hà là chi lưu chủ yếu của Hoàng Hà, chảy qua trung tâm đế quốc Đường Triều (vùng Quan Trung Thiểm Tây), tích tụ phù sa cho những cánh đồng vùng Quan Trung, giúp cho nông nghiệp phát triển mạnh, tăng cường hùng hậu cho nhà Đường.
Khoảng giữa Tần Châu và Kim Thành (nay là Lan Châu Cam Túc) có huyện Vị Nguyên (còn có tên Tư Nghĩa), là đầu nguồn của Vị Hà, nơi Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua.
Vị Hà phát nguyên từ Điểu Thử Sơn phía Tây Nam huyện Vị Nguyên. Điểu Thử Sơn (núi Chim Chuột) là một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ, ở đó chim và chuột sống chung một hang động. Hơn hai ngàn năm trước, thiên Vũ công sách “Thượng Thư” đã ghi “Hiện tượng Chim và Chuột sống cùng hang động”.
Vị Hà còn có một chi lưu là Khai Thủy, phát nguyên từ huyện Lũng tỉnh Thiểm Tây. Đoạn đầu nguồn sông này có tên Long Ngư xuyên (sông cá Rồng). Tương truyền nơi đây sản sinh một giống cá ngũ sắc có nòi Rồng. Dân cư quanh vùng đều cho là thần vật không ai dám bắt.
Thao Thuỷ (tức Thao Hà) phát nguyên từ ranh giới hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc, chảy về hướng Đông, đến huyện Mân tỉnh Cam Túc thì quặt hướng Bắc, chảy qua phía Tây Điểu Thử Sơn trước khi nhập vào Hoàng Hà.
Tại Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương đều có những ghi chép về huyệt động Chim Chuột trên núi, trên thảo nguyên hoặc hoang mạc. Người đời Thanh là Từ Tùng đã từng ghi chép hiện tượng huyệt động Chim Chuột khi đi qua vùng Y Lê tỉnh Tân Cương: “Chuột như chuột thường. Chim có lông đuôi dài màu xanh lục, nhỏ hơn chim Tước. Lúc rạng đông chim bay ra khỏi hang trước, một lúc sau chuột mới ra. Chim đứng trên lưng chuột để chuột mặc tình chạy nhảy chim vẫn không rớt”.
Tại Điểu Thử Sơn đầu nguồn Vị Hà, chuột già đào hang động, chim nhỏ đi tìm lương thực về dự trữ. Những ngày Đông tạnh ráo, chuột già ra khỏi hang tắm nắng, chim nhỏ đứng hót líu lo trên lưng chuột. Mùa Hạ nước sông lên cao, chuột già bơi qua sông, chim nhỏ cũng qua sông bằng cách đứng trên lưng chuột.
Do đâu mà có hiện tượng chim chuột ở cùng huyệt kỳ lạ này? Giới Động vật học giải thích: nhiệt độ tại vùng hoang mạc giữa Đông và Hạ, giữa ngày và đêm có mức sai biệt rất lớn, nhưng trong hang động thì Đông ấm Hạ mát, nếu có sai biệt thì mức độ cũng rất nhỏ. Vì thế các loài động vật sống chung rất hạnh phúc trong hang động, qua nhiều ngàn năm đã trở thành một thứ truyền thống bất dịch. Một số người cho rằng, vùng này khí hậu khắc nghiệt, cây cỏ không mọc được, chim chóc không có cây làm tổ nên phải sống chung với chuột trong hang động. Nhưng theo kết luận của nhiều đoàn khảo sát thì, Điểu Thử Sơn là vùng có nhiều rừng rậm cỏ cây um tùm. Làm sao có chuyện chim không cây làm tổ. Lý do sống chung hòa bình của chim và chuột chỉ còn tồn tại ở khí hậu ôn hòa dễ chịu của hang động.
Đó là những nét đặc trưng của vùng Lâm Thao. Từ Lâm Thao, theo Con đường Tơ lụa đi về hướng Tây Bắc đến Kim Thành (tức Lan Châu), rồi đến Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô, Thanh Hải). Phía Tây Thiền Châu là vùng Hà Tây Cửu Khúc (nay thuộc tỉnh Thanh Hải), từng là chiến trường đẩm máu giữa Đường triều và Thổ Phồn. Sau đó thẳng tới Tây Hải (nay là hồ Thanh Hải).
Vùng Tây Nam Thiền Châu Kim Thành nguyên là địa bàn của nước Thồ Cốc Hồn, do họ Mộ Dung của tộc Tiên Ty kiến lập. Vào đời Tùy, Thồ Cốc Hồn bị nhà Tùy diệt vong, biến thành quận huyện của Tùy. Cuối đời Tùy, Trung Quốc đại loạn, Phục Duẫn Khả Hãn của Thồ Cốc Hồn thừa cơ thu phục những vùng đất đã mất tái lập quốc gia. Vào thời Sơ Đường, Phục Duẫn Khả Hãn thường đem quân cướp bóc quậy phá biên cảnh Đường triều. Năm Trinh Quán thứ 9 (CN 635), Đường Thái Tông mệnh cho hai tướng Lý Tịnh và Hầu Quân Tập đưa 6 lộ quân tiến công Thồ Cốc Hồn, Phục Duẫn Khả Hãn đại bại tự sát. Đường triều lập con y là Mộ Dung Thuận làm Khả Hãn Thồ Cốc Hồn.
Thời Thịnh Đường, nhà thơ Vương Xương Linh khi hành quân qua Thiền Châu Kim Thành, hình dung lại chiến trường xưa, có viết đề tài “Tòng quân hành” gồm một số bài thất tuyệt, trong đó, bài thứ 5 mô tả lại trận chiến với Thồ Cốc Hồn.

從軍行 王昌齡
大漠風塵日色昏
紅旗半卷出轅門
前軍夜戰滔河北
已報生擒吐谷渾
Âm:
TÒNG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài 5)
Đại mạc phong trần nhật sắc hôn,
Hồng kỳ bán quyển xuất Viên môn.
Tiền quân dạ chiến Thao Hà Bắc,
Dĩ báo sanh cầm Thồ Cốc Hồn.
Dịch:
BÀI HÁT THEO QUÂN
Gió bụi trời chiều qua sa mạc,
Quân uy cờ cuốn dục lên đường.
Thao Hà đêm ấy vừa giao chiến,
Đã bắt sống vua Thồ Cốc Hồn.

Ý thơ, gió cát chiều tà trên sa mạc mênh mông. Đoàn quân hùng hậu cuốn cờ thẳng tiến về biên tái phía Tây. Ngay đêm giao chiến đầu tiên tại Thao Hà Bắc, đã có tin báo về, bắt sống được thủ lĩnh Thồ Cốc Hồn.
Từ khi Thồ Cốc Hồn đại bại trước Đường triều, mối quan hệ giữa hai nước được cải thiện ngày càng tốt. Đến đời cháu của Phục Duẫn, Nặc Hạt Bát kế vị ngôi Khả Hãn, được Đường Thái Tông phong “Hà Nguyên quận vương”. Năm Trinh Quán thứ 13 (CN 639), Nặc Hạt Bát đích thân đến Trường An triều kiến Hoàng Đế và thỉnh hôn. Năm sau, Đường Thái Tông phong con gái của Hoài Dương Vương Lý Đạo Minh là Hoằng Hóa Công Chúa, gã cho Nặc Hạt Bát làm “Khả Đôn” (vợ chính của Khả Hãn). Cuộc hôn nhân này giúp cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng được củng cố vững chắc. Khi Đường Thái Tông qua đời, Đường triều còn tạc một tượng đá của Nặc Hạt Bát, đặt ngay dưới chân Chiêu Lăng (lăng mộ Đường Thái Tông). Vào thời kỳ đó, đây là vinh dự rất lớn đối với lãnh tụ một dân tộc miền quan ngoại.
Năm Trinh Quán thứ 15 (CN 641), vua Thổ Phồn là Tùng Tán Can Bố phái sứ giả đến Trường An cầu hôn. Đường Thái Tông quyết định gã Công Chúa Văn Thành. Lộ trình đưa dâu có đi qua Thổ Cốc Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải). Khả Hãn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa rất nhiệt tình đón tiếp và đích thân tiễn đưa Công Chúa Văn Thành đến tận biên cảnh Thổ Phồn. Do mối quan hệ tốt đẹp giữa Đường triều và Thồ Cốc Hồn mà Con đường Tơ lụa (đoạn từ Kim Thành đến Hà Tây Tẩu Lang) được thông suốt không còn trở ngại.
Năm thứ 2 sau khi Đường Thái Tông băng (CN 650), Tùng Tán Can Bố cũng qua đời. Người kế nhiệm của ông từng bước một, bành trướng thế lực ra ngoài biên cảnh, đã nhiều lần đem quân tấn công Thồ Cốc Hồn. Năm Long Sóc thứ 2 Đường Cao Tông (CN 663), Thổ Phồn lại xua đại quân tấn công Thổ Cốc Hồn. Khả Hãn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa chỉ đưa được vài ngàn dân và súc vật, theo bờ Đông Bắc Thanh Hải, vượt Kỳ Liên Sơn đến lánh nạn tại Lương Châu (lãnh thổ Đường triều, nay là huyện Vũ Uy Cam Túc). Thồ Cốc Hồn từ đó diệt vong. Sau này Đường Cao Tông phái Đại tướng Tiết Nhân Quí đem hơn 10 vạn quân thu phục lãnh địa của Thồ Cốc Hồn nhưng thất bại. Con đường Tơ lụa cũng bị tắt nghẽn dưới sự khống chế của Thổ Phồn.
Năm Thánh Lịch thứ nhất Đường Võ Tắc Thiên (CN 698), Hoằng Hóa Công Chúa qua đời, an táng tại Dương Hồn Cốc Dã thành (nay là Nam Doanh Công Xã, huyện Võ Uy tỉnh Cam Túc). Đó là thôn Bắc núi Chủy Tử, nghĩa trang của họ Mộ Dung tộc Tiên Ty. Mộ của Công Chúa cao 10 thước còn bảo tồn tới ngày nay. Bài thất tuyệt thứ nhất của Vương Xương Linh trong đề tài “Tòng quân hành” nhằm mô tả nền xưa của lãnh địa Thồ Cốc Hồn, một tiểu vương quốc từng có quá khứ huy hoàng, giờ còn để lại bên này biên cảnh, hình ảnh những sĩ binh Đường Triều trấn giữ biên cương, ôm lòng nhớ quê da diết:
從軍行 王昌齡
烽火城西百尺摟
黄昬獨坐海風秋
更吹羌笛關山月
無那金閨萬里愁
Âm:
TÒNG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
(Bài 1)
Phong hỏa thành Tây bách xích lâu,
Hoàng hôn độc tọa Hải phong thu.
Cánh xuy Khương địch “Quan san nguyệt”
Vô ná kim khuê vạn lý sầu.
Dịch:
BÀI HÁT THEO QUÂN
Phong Hỏa” thành Tây trăm thước lầu,
Quanh đây biển gió một chiều Thu.
Sáo Khương trỗi khúc “Quan san nguyệt”,
Vạn dặm phòng khuê vô hạn sầu.

Bài thơ diễn đạt tâm tư những sĩ binh trấn thủ biên cương, hằng ngày nhìn qua nền xưa của một tiểu vương quốc đã bị Thổ Phồn chiếm lĩnh. Từ sau khi Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn diệt vong, Đường quân xây một “Phong hỏa đài” trên lầu cao trăm thước để quan sát địch tình. Hằng ngày sĩ binh ngồi trên Phong Hỏa đài, đón những làn gió chiều Thu từ hồ Thanh Hải thổi tới, cộng thêm tiếng sáo rợ Khương trỗi lên khúc nhạc thảm sầu “Quan San Nguyệt”, người lính biên cương không cầm được lòng nhớ quê. Bài thơ cũng không quên đề cập nỗi buồn vô hạn của những chinh phụ nơi khuê phòng, thương nhớ chinh nhân nơi biên tái.
Đời Đường Cao Tông (sau khi Thổ Phồn chiếm lĩnh Thồ Cốc Hồn làm thuộc địa), thế lực Thổ Phồn rất mạnh, uy hiếp nặng nề tuyến đường giao thông giữa Đường triều và Tây Vực, qua vùng Hà Tây Tẩu Lang (tức từ Lương Châu qua Cam Châu, Túc Châu tới Đôn Hoàng). Vì muốn bảo vệ biên cương và sự thông thương của Con đường Tơ lụa, khoảng giữa niên hiệu Khai Nguyên và Thiên Bảo, Đường triều đã cho thành lập Hà Tây Tiết Độ sứ tại Lương Châu với quân số 7 vạn 3 ngàn, và Lũng Hữu Tiết Độ sứ tại Thiền Châu với quân số 7 vạn 5 ngàn. Tất cả đều nhằm vào mục đích phòng bị quân Thổ Phồn nhập xâm.
Năm Thiên Bảo thứ 12 (CN 753), Lũng Hữu Tiết Độ sứ kiêm Hà Tây Tiết Độ sứ Ca Thư Hàn đã xuất đại quân tấn công Thổ Phồn tại Hà Tây Cửu Khúc (phía Đông Hồ Thanh Hải). Những trận tiến công quân sự đại qui mô kéo dài rất nhiều ngày, Ca Thư Hàn cũng công phá được một vài thành nhỏ, nhưng tổn thất của quân Đường lại quá nặng nề. Thời Đường Huyền Tông, Hoàng Đế cũng đã từng lệnh cho Tướng Ca Thư Hàn đem quân tấn công Thạch Bảo Thành của Thổ Phồn (nay ở phía Tây Nam Tây Ninh tỉnh Thanh Hải). Trận đó quân Đường tiêu vong gần hết mới chiếm được thành, trong khi chỉ bắt được vỏn vẹn 400 quân địch. Nói chung từ Đường Võ Tắc Thiên đến Đường Cao Tông rồi Đường Huyền Tông, quân Đường chỉ cầm chân được Thổ Phồn ở vùng Phong Hỏa Đài tuyến đầu Thanh Hải, chứ không thu phục được lãnh địa Thổ Cốc Hồn.
Kim Thành (Lan Châu), Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải) và Tây Hải (nay là Hồ Thanh Hải) đều là tuyến đầu trọng yếu của khu vực Lũng Sơn. Lũng Sơn cũng là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, theo Lộ tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa” đi về hướng Tây.

[còn tiếp]