Sau
đám tang, tôi mới cảm thấy tương đối nhẹ nhõm, nguôi
ngoai được phần nào. Đám tang bố tôi đã hoàn tất và
hoàn tất trong tốt đẹp. Đấy là điều làm cho ba anh
em chúng tôi yên tâm. Yên tâm! Bởi vì mọi việc đều
diễn ra trôi chảy, thông suốt từ đầu cho đến cuối,
mà chẳng có điều gì thiếu xót, đáng tiếc xảy ra.
Tất cả đều mang lại kết quả mỹ mãn như ý chúng tôi
hằng mong muốn. “Như vậy là quí lắm rồi.” Ai
nấy cũng đều nói với chúng tôi như thế. Tuy nhiên,
không khí trong gia đình vẫn còn bao phủ nặng nề bởi
lớp sơn buồn phiền, ủ rũ, tím ngắt, vây kín ở chung
quanh.
Liên
tiếp, cả tuần lễ thức trắng, túc trực bên linh cửu
bố tôi. Cả tuần lễ mệt mỏi, rã rời. Anh tôi đề
nghị, ba anh em nên luân phiên, xen kẽ với nhau cho đỡ
mệt. Nhưng tôi nhận thấy tình trạng sức khỏe của
anh tôi lại quá yếu, còn em tôi thì cũng chẳng hơn gì!
Vì thế, tôi nói với anh:
“Anh cứ
để việc đó cho em.”
Ròng
rã, suốt cả ruần lễ bận rộn với công việc tiếp
khách. Khách ra vào liên tục. Khách đến để thăm
viếng, để chia buồn. Tối đến, từng hội đoàn còn
lần lượt kéo tới để đọc kinh, cầu nguyện cho linh
hồn bố tôi sớm được về miền vĩnh phúc. Một tuần
lễ mệt mỏi, rã rời. Một tuần lễ bị vây hãm, nồng
nặc, bởi cái không khí ngột ngạt của hương khói, của
mồ hôi, của hơi người, trộn lẫn với cái sức nóng
oi bức, khắc nghiệt của Hạ đỏ, đã để lại ở
trong tôi những cảm giác choáng váng, ngầy ngật, khó
chịu. Tôi thấy mình nên đi ngủ để bù lại thì tốt
nhất. Chỉ có đi ngủ mới mong lấy lại được sự
quân bình cho thể xác và lẫn cả về mặt tinh thần.
Anh tôi khuyên tôi nên đi nghỉ cho lại sức. Mọi người
trong gia đình cũng đều nói với tôi như thế. Tôi biết
điều ấy. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn không tài nào giỗ
được giấc ngủ. Có lẽ, vì thời tiết về mùa hè quá
cay nghiệt chăng! Hay tại nguyên nhân hoặc lý do nào
khác! Về sự ra đi đột ngột của bố tôi không biết
chừng! Chán nản, tôi ngồi bật dậy, uể oải, lững
thững bước xuống cầu thang. Mấy đứa cháu đương
loay hoay, cắm cúi dọn dẹp. Mọi cờ xí đều được gỡ
xuống và bàn ghế tuần tự được chở đi để hoàn trả
lại cho hàng xóm. Căn nhà trở nên trống trải, thoáng
khí hẳn ra. Tôi ném tầm mắt nhìn ra phía ngoài phòng
khách, vào vị trí mà bố tôi thường ngồi, rồi tự
nhiên thấy nhơ nhớ một thứ âm thanh quen thuộc nào đó.
Thứ âm thanh rót xoáy vào tai tôi nghe thật ray rứt, bi
ai, não nùng làm sao ấy! Thứ âm thanh ấy như có ma lực
ném tôi vào những cảm giác rụng rời, tê điếng. Tôi
nhíu mày suy nghĩ. Thì ra là tiếng kèn. Tiếng kèn đồng
réo rắt trổi lên, kể từ khi tôi bước chân ra khỏi
chiếc taxi, buồn bã bắt tay mọi người, rồi quay gót
tiến thẳng vào trong nhà, kính cẩn, nghiêng mình trước
linh cửu của bố tôi. Tiếng kèn ấy nói lên từng ý
nghĩa sâu xa về ơn nghĩa sinh thành, cùng công ơn dưỡng
dục của cha mẹ. Công lao ấy cao ngất như Thái Sơn và
ngọt ngào như nước trong nguồn chảy ra. Càng nghe tôi
lại càng thấy thấm thía vô cùng. Tôi chết lịm trong
cơn sóng thủy triều âm thanh ấy. Bố tôi nằm bất động
trong áo quan. Hai mắt ông nhắm nghiền và đôi môi ông
mím chặt lại như còn khắc khoải, trông ngóng một điều
gì thật xa vắng. Chắc ông linh thiêng, nghe rõ được
từng bước chân của đứa con xa trở về, ngổn ngang với
nỗi buồn thâm tím, đặc quánh ở bên trong. Tôi thắp
lên nén hương rồi cúi xuống trước bàn thờ nghi ngút
của bố tôi. Tấm hình màu bán thân, đã được em tôi
đem đi phóng lớn và được đóng khung lại một cách
thật ngay ngắn, trông có vẻ trang trọng, uy nghi, đạo
mạo, tươi tắn hẳn ra. Tấm hình ấy bố tôi đã chụp
cách đây hơn ba năm, kể từ khi có tin tôi gọi về, cho
biết số chuyến bay, cùng ngày giờ mà tôi sẽ đáp xuống
phi trường Tân Sơn Nhất. Bố tôi vui hẳn lên và ước
ao có tấm hình mới toanh để lưu
giữ trong gia đình. Tấm hình ấy chính là đề tài
hấp dẫn, sống động, mà em tôi đã kể lại cho tôi
nghe thật tỉ mỉ, từ nguyên nhân cho đến bất cứ mọi
chi tiết nhỏ mọn nào khác. Câu chuyện ấy kéo dài trên
suốt cả đoạn đường từ phi trường về cho đến tận
nhà tôi:
“Tính
bố thì như anh cũng biết! Từ trước đến giờ bố
ghét nhất là chụp hình, chụp ảnh! Cứ mỗi lần nhắc
đến, thì y như lần nào bố cũng vùng vằng, ngụ ý là
không bằng lòng, và sau đó còn hỏi ngược lại mình:
Chụp để làm gì! Lắm khi, bố còn gắt lên, biểu lộ
sự tức bực, nóng nảy một cách vô cớ nữa chứ! Em
chẳng hiểu tại sao cả! Bỗng dưng, lần này bố lại
đột nhiên đổi ý. Bố cứ khăng khăng bắt em phải chở
đi chụp cho bằng được. Em ngạc nhiên vô cùng. Thoạt
đầu, thú thực với anh là em không nghĩ ra! Nhưng sau vài
phút định thần, bóp trán để suy nghĩ, thì em đã đoán
ngay ra được cái đáp số một cách dễ dàng. Cái đáp
số ấy, không ai khác hơn, chính là anh, là sự trở về
của đứa con trai lâu ngày, lưu lạc, bôn ba nơi xứ lạ
quê người… Từ cái chi tiết nhỏ mọn ấy, nó bắt em
phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, để rồi từ đó, em mới
thấu hiểu được, biết bao nhiêu là yêu thương dạt
dào, mà bố đã vun trồng, chăm bón cho các anh nói riêng
và cho tất cả con cái ở trong nhà nói chung, quả thật
là quá bao la và sâu đậm vô ngần. Những yêu thương đó
cứ trải dài, chồng chất theo thời gian, tiếp nối từ
năm này sang năm khác, thì anh em mình làm sao mà có thể
kể ra cho xiết được! Giá như có anh Nguyện cùng về
với anh trong chuyến này, thì bố mình còn vui biết chừng
nào.”
Lúc
ấy, tự nhiên tôi thấy đầu óc mình tĩnh lặng lạ
thường, và trên đôi môi, tự động phát ra lời thì
thầm với bố tôi.
“Con
đã về! Rồi anh con cũng sẽ về! Bố cứ thanh thản mà
ra đi. Đừng vướng bận gì cả! Cầu chúc cho bố được
mọi sự bình yên trên vùng trời quê hương mới. Quê
hương của vĩnh cửu, của hoan lạc. Quê hương với đầy
đủ mọi ý nghĩa trọn vẹn về hai chữ hạnh phúc cao cả
và đích thật của nó.”
Đám
tang ở Việt Nam thì khác hẳn với bất cứ đám tang nào
ở bên Mỹ. Nó chất chứa, thể hiện bằng thứ tình
cảm dạt dào, chân thật của hàng xóm, của láng giềng.
Thứ tình cảm đó cứ tiếp nối, phát triển không ngừng
và thăng hoa, kết trái trong tâm tư của mỗi người Việt
Nam. Tôi không khi nào quên được buổi sáng di quan bố
tôi ra nhà thờ. Hôm ấy trời chưa sáng hẳn. Người ta
tự động xếp thành hàng lối ngay ngắn, lặng lẽ đi
theo linh cửu của bố tôi. Tôi nhớ đến giây phút cảm
động nhất ở ngoài nghĩa trang, khi cỗ áo quan đang chuẩn
bị chờ đưa xuống. Người ta bao quanh kín mít bên chiếc
huyệt xinh xắn dành cho bố tôi. Đấy là ngôi nhà mới
mà bố tôi sắp sửa đi xuống. Ngôi nhà của một đời
kế tiếp bất tận. Yên lặng. Tất cả đều yên lặng.
Chung quanh tôi, mọi người đều lắng xuống sự im lặng
tột cùng. Rồi linh cửu của bố tôi từ từ hạ xuống,
thấp dần, thấp dần, rồi cứ thế và cuối cùng thì
nằm im lìm, bất động dưới lòng đất. Tôi khom người
cúi xuống, nhướng cặp mắt ngây dại, thờ thẫn nhìn
bố tôi lần cuối. Mọi tế bào trên thân thể tôi đều
co rúm lại. Tôi xúc động vô ngần. Trên khóe mắt sâu
hút, hai dòng nước mắt tự động tuôn ra. Và hôm đó,
cũng là ngày mà tôi ghi dấu mãi ở trong đời, tôi thật
sự khóc nhiều hơn lúc nào hết.
Người được mô tả là đau buồn, ray rứt nhất, phải
nói đến, chính là anh tôi. Lúc nào tôi cũng thấy anh
tôi đăm chiêu, tư lự. Tôi biết, anh tôi buồn! Tôi
biết, anh ấy xót xa! Tôi hiểu điều đó. Anh tôi dự
định sẽ về thăm bố vào năm tới, sau mười lăm năm
biền biệt, phiêu bạt, lê gót trên xứ người. Mười
lăm năm tính từ ngày anh ấy bước chân xuống chiếc ghe
Thái Lan, âm thầm từ biệt quê hương để ra đi. Bất
chợt có tin bố tôi mất. Đột ngột và bất ngờ. Vì
thế, anh tôi mới ân hận. Tôi hiểu anh tôi hơn ai hết.
Anh tôi có nỗi khổ riêng. Nỗi khổ về gia đình. Về
hai chữ hanh phúc bị gẫy đổ, xụp xuống. Nó chẳng
khác nào như nhát chém nghiệt ngã, đau nhói, nhức nhối
triền miên ở tim anh. Một chứng bệnh nan y bất trị,
dày xéo, hành hạ lên thể xác anh ấy từ năm này sang
năm khác. Anh tôi không muốn gặp lại người vợ cũ.
Hai đứa con trai mà trước đây từng về hùa với mẹ
chúng nó, đang tâm, ruồng rẫy, xua đuổi anh tôi vào giữa
lúc nửa đêm. Anh tôi kể cho tôi nghe rất nhiều. Về
nỗi cay đắng, nhục nhằn mà anh ấy phải cố cắn răng
để chịu đựng. Những câu chửi mắng phủ đầu, kèm
theo những lời hằn học, đe dọa hầu như chẳng bao giờ
nguôi. Ngày nào cũng gây gỗ. Ngày nào cũng cãi nhau.
Anh tôi còn kể, tệ hại hơn nữa, trong lý lịch xin đi
làm, người chị dâu cũ còn tráo trở khai rằng: Cuộc
hôn nhân giữa chị ấy với anh tôi là cuộc hôn nhân
mang nặng tính chất gượng ép và bắt buộc. Nhiều đêm
thức khuya, anh tôi tâm sự:
“Vì
thế! Anh rất ngại về đây. Đành rằng trên danh chánh
ngôn thuận, thì giữa anh và chị ấy đã ly dị, sòng
phẳng với nhau về mặt pháp lý. Đấy! Em cũng thấy!
Anh đâu có thiết bất cứ một thứ gì! Ngay đến căn
nhà cũng vậy. Anh nhường lại tất cả cho mẹ con chúng
nó và bước ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng! Dù rằng
trên nguyên tắc anh có quyền thừa hưởng một nửa của
căn nhà đó. Nếu xét về mặt lý thì như thế. Nhưng
nếu đứng về mặt tình thì lại khác. Mọi người sống
ở quanh đây đều không hiểu cho anh. Thể nào họ cũng
xầm xì, bàn tán. Nào là thằng này bỏ bê vợ con, chạy
theo vợ bé, vượt biên ra nước ngoài. Nào là thằng này
có mới quên cũ, có trăng quên đèn. Quên đi nghĩa cũ
tình xưa. Họ đâu có biết rằng: Ngay từ khi anh bước
chân ra đến ngoài Bắc, thì chị ấy đã cắm ngay cái
sừng lên đầu của anh rồi. Bao nhiêu tiền bạc đều
tiêu tan theo mây khói. Chẳng bao giờ chị ấy đoái hoài
đến anh, chứ đừng nói chi tới hai chữ ra thăm. Lâu
lâu chị ấy còn viết thư ra hăm dọa, cảnh cáo anh đủ
điều. Trắng trợn hơn nữa, chị ấy còn nhẫn tâm viết
ở trong thư: Nếu sau này có may mắn được nhà nước
trả tự do, thì hãy khai địa chỉ cư trú về dưới này.
Cũng may mà còn có chị Thúy, chứ không thì đời anh đã
tiêu tùng kể từ lâu lắm rồi. Còn hai thằng con trai
của anh! Cho dù chúng nó có bạc đãi anh đến chừng nào
đi chăng nữa! Nhưng hằng năm anh vẫn không quên dành
dụm gửi về cho chúng nó. Trách nhiệm, bổn phận, anh
chỉ lo có đến thế mà thôi! Chứ anh đâu có thể lo
hơn được nữa! Bằng tuổi này, anh đâu có còn nhanh
nhẹn, bươn trải như những người khác được! Chúng
nó phải hiểu cho anh điều đó chứ!”
Tôi
cất giọng vỗ về:
“Thôi!
Anh! Kệ họ muốn nói gì thì nói! Miễn sao mình sống
cho đúng với lòng mình là được rồi. Theo em thì họ
nói chán rồi cũng thôi. Còn đối với chúng nó thì anh
đã quá đầy đủ với hai chữ bổn phận rồi còn gì
nữa! Đương nhiên chúng nó phải hiểu cho anh điều đó
chứ! Vả lại, bây giờ chúng nó cũng đều lớn khôn
hết cả rồi. Đã đến lúc mà chúng nó phải hồi tâm
nhìn lại, đồng thời có những ý nghĩ đúng đắn và
chín chắn hơn.”
Cứ
vài đêm anh tôi lại nhắc đến chuyện này. Tôi lại
tiếp tục lựa lời an ủi. Anh tôi tròn xoe đôi mắt
nhìn đăm đăm vào khoảng trống, rồi đột nhiên buông
nhẹ lên tiếng thở dài ngao ngán. Tôi đem ý nghĩ về bố
tôi, về cuộc đời. Cuộc đời là phù du, là sương
khói. Cuối cùng rồi tất cả cũng đều tan biến vào
cõi hư vô, cuốn trôi về với cát bụi. Đấy là một
định luật bất di, bất dịch mà ai nấy cũng đều phải
đi qua. Tôi xoay lưng, quay mặt vào trong tường. Đêm nào
cũng giông như đêm nấy. Đêm nào anh em chúng tôi cũng
cảm thấy trằn trọc, khó ngủ. Thức khuya, chuyện vãn
rồi tự động im bặt, thao thức với những ý nghĩ riêng
tư của chính mình.
“Bác
có uống cà phê không! Cháu pha.”
Đứa
cháu gái lên tiếng hỏi. Tôi quay sang lắc đầu.
“Bác
có muốn đi đâu không! Cháu chở bác đi.”
Tôi
ngần ngừ:
“Bác
chẳng thiết đi đâu cả! Chỉ có ngày mai, bác muốn ra
thăm mộ ông, xem họ xây đến đâu rồi!”
Dáo
dác nhìn xuống nhà dưới, tôi nói vừa đủ nghe:
“Bác
Nguyện và bố cháu đi đâu rồi!”
“Hình
như bố cháu chở bác lên hãng máy bay! Nghe đâu bác muốn
điều chỉnh vé để về Úc thì phải!”
“Chắc
bác ấy lại nóng ruột, muốn về sớm chứ gì!”
“Cháu
cũng không biết! Chỉ nghe bác ấy kêu: Ở đây về mùa
này nóng quá. Chịu không nổi!”
Tôi
buông mắt, lơ đãng nhìn ra bên ngoài. Nắng tản cư đi
nơi khác tự lúc nào, chỉ còn trơ lại lũ bông giấy nằm
ngơ ngác, phơi mình trên chiếc cổng bằng xi măng màu xám
ngắt. Có tiếng sấm chuyển động từ đằng xa, và trên
cao, từng lũ mây đen cuồn cuộn, hung hãn, ùn ùn kéo tới.
Tôi buột miệng:
“Trời
sắp mưa rồi.”
Đứa
cháu gái phụ họa theo:
“Cơn
mưa này lớn lắm đấy bác.”
Nghĩ
ngợi giây lát. Nó lộ vẻ vui mừng:
“Kể
ra đám tang của ông mình hên lắm bác nhỉ! Vừa mới mở
cửa mả vào buổi sáng, thì tối đến trận mưa lớn ào
ạt trút xuống.”
Tôi
gật đầu:
“Tóm
lại đám của ông mình cái gì cũng may hết. Như mộ
phần của ông chẳng hạn. Được nằm gần bà, mà lại
còn gần đường, nên rất tiện cho việc thăm viếng của
con cháu. Hơn nữa thời tiết lại khô ráo và quang đãng.
Nói dại, chứ mấy hôm ấy mà mưa xuống thì chẳng biết
tính sao!”
Cháu
tôi nói đúng! Chung qui mọi việc đều thuận lợi, đều
may mắn. Bố tôi để ở trong nhà suốt cả một tuần
lễ. Hơn nữa, Sài Gòn đang bước vào mùa mưa. Những
cơn mưa ào xuống thật nhanh chóng, thật bất ngờ. Mấy
đứa cháu còn nói với tôi. Mới cách đấy vài ba hôm,
thì thành phố này ngày nào cũng mưa. Mưa đến nỗi có
nhiều chỗ ngập lênh láng, chẳng khác nào như con lạch
nhỏ, gây trở ngại cho việc giao thông rất nhiều. Ai
cũng nói đám tang bố tôi thật hiếm thấy. Cả tuần lễ
trong sáng và nắng ráo. Rồi đây con cháu sẽ làm ăn
nên. Phát đạt và sung túc. Điều ấy thì tôi không
biết! Nhưng có điều là đám tang bố tôi không đến
nỗi lạnh lẽo cho lắm. Tất cả những gì mà ông mơ
ước cho cuộc ra đi, thì chúng tôi đều thực hiện đầy
đủ cho ông. Ông chỉ có mỗi giấc mơ duy nhất, là sau
khi ông xuôi tay, nằm xuống, gĩa biệt khỏi đời sống
này, có đầy đủ ba đứa con trai, và bên tai, có tiếng
kèn đồng nhịp nhàng, rộn rã đưa tiễn ông đi. Ông
thường nói với đứa em tôi khi ông còn sống:
“Đám
tang mà không có kèn Tây thì quả thật là một điều
thiếu xót to lớn.”
Đám
tang bố tôi phải thay đổi chương trình đến hai lần.
Thoạt đầu, anh tôi báo tin không về được. Lý do đơn
giản là anh ấy chưa có hộ chiếu. Hai ngày sau, anh tôi
gọi về, bảo chờ, bởi vì mọi thủ tục về giấy tờ
đều xong xuôi. Chính vì thế mà lịch trình đành phải
hoãn lại.
Nhiều đêm tôi vẫn thao thức, suy nghĩ về bố tôi.
Chắc bố tôi rất là hài lòng khi đi về với thế giới
ở bên kia. Ba đứa con trai đều có mặt đầy đủ, bùi
ngùi tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Giấc
mơ ấy bố tôi vẫn ao ước từ lâu và ông thường thủ
thỉ với em tôi:
“Bố
chỉ có mỗi một điều mơ ước duy nhất, là sau khi bố
nhắm mắt lìa khỏi cõi đời này, có đầy đủ ba anh em
chúng con là bố mãn nguyện lắm rồi.”
Bố
tôi mất! Cái tin em tôi báo sang qua hệ thống điện
thoại từ Việt Nam. Tin ấy lại rơi đúng vào chiều thứ
bảy. Thứ bảy thì tôi phải đi làm. Cái ca thật oái
oăm đối với nước Mỹ này. Hầu hết ai nấy đều
không thích đi làm vào những ngày cuối tuần. Cuối tuần
là thời gian để ngơi nghỉ, để đi ăn. Để cho đầu
óc được thảnh thơi đôi chút. Để coi TV. Để thưởng
thức các trận đấu thể thao đầy ngoạn mục, gay cấn.
Cuối tuần là ngày dành riêng cho gia đình, cho bạn bè,
cho họ hàng thân thuộc. Quan niệm ấy cũng có cái đúng
của nó. Nhưng ngược lại, thì tôi cho rằng: Cuối tuần
cũng chẳng khác gì ngày thường. Cuối tuần thì lợi
tức được tăng thêm chút đỉnh vào đồng lương hàng
tháng của tôi. Vì thế, tôi làm liên tiếp, ròng rã suốt
cả sáu, bảy năm trời. Sáu giờ chiều thì bắt tay đi
vào công việc và đúng sáu giờ sáng thì tan ca để về
nhà. Mười hai tiếng cho một đêm. Rồi cứ thế! Từ
năm này sang năm khác. Đều đặn. Liên tục và không
bao giờ thay đổi.
Tôi
biết tin bố tôi mất vào lúc mười giờ tối. Đứa con
trai lái xe vào hãng báo tin cho tôi hay. Tôi bàng hoàng,
sửng sốt trước cái tin sét đánh ngang tai. Bố tôi qua
đời. Sao chẳng thấy em tôi nói đau yếu gì cả! Bao
nhiêu câu hỏi cứ lần lượt, đổ xô về bủa vây kín
mít ở tâm tư tôi. Tôi nhăn mặt thờ thẫn. Cách đây
hai tuần, tôi còn nghe rõ giọng bố tôi trong điện thoại:
“Chừng
nào thì anh cho mấy cháu về chơi!”
Tôi
đáp để cho bố tôi yên lòng:
“Sang
năm con sẽ thu xếp cho mấy cháu về thăm ông.”
“Nhớ
cố gắng cho mấy cháu về thăm lấy một chuyến. Dạo
này tôi cũng yếu lắm rồi. Anh cứ hình dung ra mà xem,
tôi chẳng khác nào như ngọn đèn dầu leo lét ở trước
gió. Không biết cháy giờ nào, tắt giờ nào! Sống được
ngày nào thì biết ngày nấy, chứ chẳng biết đâu mà
tính trước được.”
“Bố
cứ an tâm và ráng giữ gìn sức khỏe. Năm tới, con sẽ
cho các cháu về thăm bố.”
“Anh
nhớ đấy nhé!”
“Vâng.”
Bây
giờ thì bố tôi không còn nữa! Mấy đứa con tôi cũng
chẳng có dịp nào để gặp lại người ông của chúng
nó. Mãi mãi và mãi mãi. Bố tôi đã ra đi, từ giã khỏi
đời sống này, để đi về với thế giới mờ ảo, xa
xăm. Cái thế giới của hư vô, của bất tận. Xúc
động, tôi rươm rướm nước mắt. Chợt nhớ có đứa
con trai đang đứng ở sau lưng, tôi cố giữ giọng bình
tĩnh:
“Thế
chú có nói gì thêm không!”
Con
tôi buồn bã:
“Chú
chỉ nói vắn tắt: Ông vừa mới mất nên vội báo tin
cho bố biết, xem bố có thu xếp về được không! Con
chỉ nghe tới đó, liền trao điện thoại cho mẹ, rồi
vội vàng lái xe vào đây để báo tin cho bố biết.”
Tôi
quả quyết:
“Dĩ
nhiên là bố phải về để thọ tang. Dù mọi giá bố
cũng phải về để lo cho ông. Bố từng hứa với ông ba
năm về trước. Cho dù bố không hứa đi chăng nữa thì
bố cũng phải về. Bởi vì đấy là bổn phận, là trách
nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Để về nhà rồi
cha con mình sẽ tính sau. Bây giờ con cứ về trước đi.
Bố phải vào văn phòng để xin phép rồi bố sẽ về
sau.”
Con
tôi tỏ vẻ ái ngại:
“Con
chỉ sợ bố bị chi phối nên thiếu sự bình tĩnh khi đi
đường. Hay con đợi bố ở ngoài parking rồi sẽ về
luôn thể.”
Tôi
xua tay:
“Bố
không có sao đâu! Đừng lo lắng gì cả!”
Con
trai tôi lưỡng lự chốc lát rồi lặng lẽ bước ra
ngoài. Còn lại một mình, tôi xoay lưng đi dọc theo phía
hành lang rồi tiến thẳng về hướng văn phòng.
Tôi
lái xe như điên dại trên con đường trống trải, vắng
lặng. Mấy ngọn đèn đường lung linh, nhòe nhoẹt, nhảy
múa ở đằng xa. Tự nhiên, tôi thấy đầu óc bị căng
thẳng và choáng váng lạ thường. Hoảng hốt, tôi cố
lấy lại bình tĩnh, buông nhè nhẹ chân ga, rồi thận
trọng bẻ tay lái cho chiếc xe ép sát vào lề đường.
Tắt máy. Tôi thò tay xuống phía dưới, bấu mạnh vào
chiếc tay cầm, quay nhẹ cho tấm cửa kính từ từ hạ
xuống. Gió đêm từ bên ngoài thổi vào, mơn trớn trên
từng thớ thịt, gây liền cảm giác nhẹ nhàng, dễ chịu
ở trong tôi. Tôi nhướng cặp mắt nhìn sang phía bên
kia. Xuyên qua bóng đêm, hàng cây đen đứng lầm lì, thầm
lặng. Đêm tĩnh mịch lạ thường. Có tiếng lá cựa
mình trên khóm cây. Tiếng côn trùng rả rich phát ra tận
cái gò đất ở gần đấy. Xa xa, lãng đãng, mơ hồ tôi
nghe như có tiếng thổn thức, trầm buồn của giọng ca
quen thuộc nào đó. Tôi ngả đầu vào thành ghế và dần
dần thấy tỉnh táo trở lại. Tôi thương bố tôi vô
ngần. Suốt cả đời ông phong trần, gian khổ. Suốt cả
đời người chưa tìm thấy được hai chữ bình yên cho
nội tâm. Cuộc đời ông biểu lộ bằng hai chữ tận
tụy, hy sinh, chăm bón cho ba anh em chúng tôi nên người.
Đời ông gắn liền với binh nghiệp. Đó là cái nghiệp
dĩ. Cái nghiệp dĩ đeo đuổi vào đời ông. Nhờ đấy,
ba anh em chúng tôi mới vươn mình, trưởng thành rồi tung
cánh bay vào cuộc đời. Bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ cứ
lần lượt hiện về. Chuỗi ngày tháng vàng óng ở Thái
Bình. Đêm êm đềm, lung linh bên bờ hồ Hoàn Kiếm ngoài
Hà Nội. Lênh đênh trên chuyến tàu ray rứt vào Nam.
Chuỗi ngày tháng đầm ấm ở Hội An cùng các xuất hát
bội về khuya rộn ràng, sinh động. Bao nhiêu cái Tết
đơn độc, lẻ loi ở ngoài Huế. Chỗ nào cũng có kỷ
niệm. Nơi đâu cũng đầy ắp, chất ngất. Những kỷ
niệm ấy cứ sống mãi với thời gian và quyện chặt
trong lầu son ký ức của ba anh em chúng tôi.
Bây
giờ thì bố tôi không còn nữa! Ông thật sự đã ra đi
vào cái tuổi chín mươi ba. Chín mươi ba năm trong thân
phận làm người. Chín mươi ba năm trải qua biết bao
nhiêu những thăng trầm nơi cuộc sống. Bao nhiêu biến
cố trong đại đi qua đời ông. Từ cuộc cách mạng mùa
thu năm bốn mươi lăm, cho đến cuộc di cư lịch sử năm
một nghìn chin trăm năm mươi tư. Và cuối cùng thì ông
chua xót nhìn ba đứa con trai mình lặng lẽ đi vào nhà
tù.
Trước đây, em tôi vẫn thường hay viết thư gửi sang,
ngụ ý là muốn hai anh em chúng tôi về thăm. Tôi vẫn
còn nhớ từng giòng chữ thật cảm động mà em tôi đã
cô đọng ở trong đấy:
“Bây
giờ thì bố mình đã luống tuổi quá rồi. Nhãn quan lẫn
thính giác mỗi ngày mỗi suy mòn, yếu dần theo thời
gian. Đầu óc, lý trí chẳng còn minh mẫn, thông suốt
như ngày nào. Niềm an ủi duy nhất đối với người lớn
tuổi ở cuối đời là con cháu. Con cháu chẳng khác nào
như liều thuốc bổ, là nguồn vui, là sự vỗ về vào
đời sống héo hắt còn lại. Nhìn vào bối cảnh của
gia đình mình, tình từ năm bảy mươi lăm đến nay, với
biết bao nhiêu biến cố dồn dập cuốn tới. Những biến
cố đó chẳng khác nào như cơn lốc xoáy mòn vào tâm tư
người. Nhiều khi em thấy bố cứ tha thẩn, dõi mắt
nhìn về tận chốn xa xăm với nỗi buồn vô hạn. Em
biết, bố đang thả luồng tư tưởng về các anh, về
những đứa con đương lưu lạc tại phương trời xa thẳm.
Giữa lúc ấy, em cảm thấy đau lòng vô cùng. Em chỉ
cầu mong, sao cho hai anh về thăm bố lấy một chuyến, để
cho em được nhìn thấy niềm vui thắp sáng lên khuôn mặt
người. Dù chỉ một chuyến thôi! Cho bố tạm thời
quên đi được hai tiếng thở dài vào nhũng buổi chiều
khép kín, cô quạnh. Những buổi chiều làm cho căn nhà
trở nên thê lương, ảm đạm vô cùng…”
Lá
thư ấy em tôi viết thật dài và đấy cũng là động lực
mãnh liệt, thúc đẩy cho tôi đi đến quyết định dứt
khoát là trở về.
Lần
ấy, bố tôi vui hẳn lên. Ông ôm ghì lấy tôi và tôi có
cảm giác như sống lại cái thời kỳ còn thơ ấu. Trên
khóe mắt nhăn nhúm, tôi đọc thấy được hai giọt nước
mắt từ từ chảy ra, đồng thời bố tôi đã khóc trong
sự sung sướng tột cùng.
Tối
hôm đó, gia đình tôi quây quần xung quanh chiếc bàn gỗ
hình chữ nhật, kèm theo những món ăn hải sản, bầy la
liệt, ngổn ngang, đầy ắp ở trên đấy. Tôi rót bia
vào ly, rồi gắp thức ăn bỏ vào chén cho bố tôi.
“Bố
ăn đi chứ!”
“Anh cứ
để mặc tôi. Hôm nay thế này là tôi ăn nhiều lắm
đấy. Cả như mọi khi thì chỉ có lưng chén, chứ không
có hơn được nữa!”
Bố
tôi nâng ly bia rồi nhắp một hớp nhỏ. Ông đưa mắt
nhìn tất cả mọi người rồi cất cao giọng:
“Nhà
mình chưa khi nào vui như thế này. Giá có anh Nguyện cùng
toàn thể các cháu về đầy đủ thì còn vui biết mấy.”
Tôi
nói cho bố tôi yên lòng:
“Thể
nào rồi cũng có một ngày bố ạ.”
Bối
tôi khẽ bật lên tiếng thở dài:
“Anh
nói vậy, chứ tôi thấy khó lắm.”
Có
tiếng mưa lộp độp rơi trên mái tôn, hòa trộn với
tiếng gió rít xoáy vào nhau, tạo thành chuỗi âm thanh dồn
dập, hỗn độn. Đứa cháu gái chợt kêu lên:
“Mưa
bắt đầu rồi đấy bác.”
“Ừ!
Bác cũng mong mưa xuống cho dễ ngủ.”
Nhìn
sang tôi, nó đột ngột hỏi:
“Chừng
nào thì bác về lại Mỹ!”
Tôi
đáp hờ hững:
“Năm
ngày nữa.”
“Nhanh
quá bác nhỉ! Có hai bác về thì còn thấy vui vui! Chứ
hai bác đi rồi thì nhà cháu vắng vẻ và buồn tẻ biết
chừng nào.”
Buông mắt nhìn ra bên ngoài. Mãi sau, nó mới đổi giọng
buồn buồn:
“Cháu
nghe mẹ cháu nói: Ông mất rồi, không biết hai bác có
còn về nữa không!”
Tôi
đáp không cần suy nghĩ:
“Về
chứ! Vài năm bác lại về. Nếu bác không về được
thì cũng cho mấy anh chị ấy về.”
“Thật!
Hở bác!”
“Thật!
Chứ bác đâu có nói chơi.”
Đứa
cháu gái ngồi lặng thinh không nói. Tiếng mưa gõ đều
xuống mái tôn, tuôn xối xả xuống mặt đường, tạo
thành con nước cuồn cuộn, đổ xô, chen lấn nhau, cuốn
trôi về cuối ngõ.
Buổi
trưa. Tôi đứng giữa không khí cô quạnh, hoang vắng bên
phần mộ của bố tôi. Phần mộ vừa mới xây xong vào
buổi sáng ngày hôm qua. Nén hương vẫn còn cháy âm ỉ,
tỏa ra nghi ngút. Ngay dãy trên, cách đây vài ba bước là
phần mộ của người mẹ kế tôi đang nằm. Ngôi nhà
ấy, chúng tôi cũng vừa chỉnh trang, làm mới lại. Tôi
có linh cảm, vong hồn của bố tôi đang luẩn quất ở
quanh đây. Ông muốn nghe tôi nói. Thầm thì với ông về
những điều mà tôi muốn nói. Tôi nhích môi nói vừa đủ
nghe:
“Bố
hãy ngủ yên. Giấc ngủ thật êm đềm, thật mộng mị.
Giấc ngủ sẽ đưa bố đi vào thiên thu. Bên cạnh còn
có mẹ. Bố sẽ không còn cảm thấy cô đơn như ngày bố
ở trần thế. Bố hãy quên đi mọi muộn phiền, đắng
cay ở cõi trần gian tạm bợ, phù phiếm này. Quên đi
nghe bố! Trước mắt bố hiện gìờ là cả khoang trời
rạng ngời, tươi sáng. Ở đấy có đồi núi chập
chùng. Có cỏ non xanh mướt cùng hoa nở bốn mùa ngạt
ngào, rực rỡ, và bên tai bố, réo rắt tiếng nhạc khúc
trầm bổng, thánh thót, tấu lên bản trường ca bất
tận.”
TRANG
LUÂN