Thứ bảy tuần rồi, ông Trương nhận được hai món quà, do ông bà sui vừa về thăm quê bên Việt Nam mang sang tặng. Hai món quà thực ra không đáng bao nhiêu tiền, nhiều lắm cũng chỉ bằng giá một tô phở bán ở Little Saigon, nhưng với ông nó lại là vô giá, đã làm ông xúc động, nghẹn ngào đến nỗi không thốt lên được hai tiếng cám ơn. Cả tuần nay, nhiều đêm ông trằn trọc mất ngủ, ban ngày ngồi thẫn thờ, hoặc chắp tay sau lưng lẩn thẩn một mình trong khuôn vườn nhỏ sau nhà, suy nghĩ mông lung.
Năm vừa rồi, con cháu đã tổ chức mừng Lễ
Thượng Thọ cho ông, mặc dù ông thường cản ngăn điều ấy. Nhưng con cháu
làm vậy là phải, vì gia đình ông trải qua bao đời sống trong gia phong
lễ giáo, hơn nữa suốt một đời vào sinh ra tử mà ông sống được tới hôm
nay cũng là lạ lắm. Con cháu không chỉ mừng ông mà còn phải cảm tạ Đất
Trời.
Sinh ra ở vùng quê, một cái huyện
nghèo, mà thơ mộng. Biển xanh nằm sát bên dãy trường sơn hùng vĩ, cực
bắc tỉnh Khánh Hòa. Cuộc đời ông có nhiều may mắn bất ngờ. Vì sinh kế,
cha mẹ ông phải vào Nam lập nghiệp. Ông được một người trí thức có lòng
nhận làm dưỡng tử. Người này gốc Quảng Bình, tốt nghiệp kỹ sư công chánh
từ École Centrale bên Pháp, vừa mới hồi hương và đang làm cho hãng thầu
Descours &Cabaud đặc trách hai công trường xây cầu NeakLuong và
Norodom, cách thủ đô Nam Vang 6 - 10 cây số. Là “dưỡng tử” nhưng ông
thường được xưng hô là “thầy trò″. Ông kỹ sư chưa lập gia đình. Để thuận
tiện công việc làm, ông thuê một ngôi nhà đơn lập, nằm cạnh nhà của
người bạn là một nhà giáo, và gởi gấm cậu dưỡng tử theo học. Thời đó Nam
Vang không có một trường nào dành cho văn hóa Việt Nam, mà chỉ có
trường Pháp và Miên. Ông kỹ sư sống ở Pháp hơn bốn mươi năm, thấm nhuần
văn hóa Pháp, vì vậy “cậu bé” Trương tất nhiên chịu ảnh hưởng của người
dưỡng phụ, nên học hành rất nhanh và sớm thi đỗ Diplôme.
Ngày 8 tháng 3 năm 1945, quân Nhật lật
đổ chính quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Ông kỹ sư dưỡng phụ bị quân
Nhật bắt đem đi mất tích. Không còn nơi nương náu, ông Trương chỉ còn
con đường duy nhất là về lại quê xưa. Bảy tháng sau, quân Pháp từ Ban Mê
Thuột đổ xuống đồng bằng như thế chẻ tre. Ông Trương, lúc này đã là một
thanh niên, bị bắt. Khi Phòng Nhì Pháp thẩm vấn, ông đội (Phinh) thông
ngôn dịch sai câu trả lời của ông Trương, làm cho viên sĩ quan Pháp hiểu
lầm tức giận, đứng lên định tát vào mặt ông Trương. Nhờ lanh trí và với
căn bản Pháp văn vững chãi, ông Trương trình bày tận tường sự việc,
làm cho vị sĩ quan Pháp ngạc nhiên, thán phục. Thay vì làm tù binh, ông
Trương được đưa vào Nha Trang để làm thủ tục đồng hóa vào quân đội
Pháp. Sau đó ông được sự giúp đỡ của một số Sĩ quan Pháp tốt nghiệp
trường Võ Bị Saint Cyr, thi đỗ vào École Militaire InterArmes de Dalat
(EMIAD) ( trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt). Tốt nghiệp với thứ hạng cao,
ông được chọn làm huấn luyện viên cho các khóa Sinh Viên Sĩ Quan Hiện
Dịch
Rồi từ ngày ấy ông biền biệt xa quê,
nơi chôn nhau cắt rốn, cho tới hôm nay. Đúng ra, trong thời gian hơn
sáu mươi năm ấy, ông chỉ sống ở quê mình vỏn vẹn có ba năm, khi ông bất
ngờ được chọn về đây làm quận trưởng. Nhiều người cho đây là một điều
may mắn. Hơn nữa lúc này là thời Đệ Nhất Công Hòa, tiêu chuẫn để chọn
một quận trưởng rất khó khăn.Vậy mà khi nhận được Lệnh Bổ Nhiệm, ông đã
xin từ chối. Ông biết làm việc ngay ở quê mình là một điều không dễ, bởi
còn có nhiều người thân, em út trong nhà , bà con chú bác. Dù tình lý
có phân minh, cũng khó tránh được đôi lời dị nghị.
Nhưng cuối cùng ông cũng phải mang balô,
từ giã một tiểu đoàn thiện chiến, do chính ông dày công tổ chức và rèn
luyện, về chính quê mình nhận trách nhiệm mới, nặng nề phức tạp. Lời
khẩn cầu từ chối của ông không được chấp thuận. Lý do được Bộ Nội Vụ đưa
ra: Ông (cố vấn) Ngô Đình Nhu đang là dân biểu Quốc Hội (đảm trách hai
quận thuộc tỉnh Khánh Hòa, trong đó có quận của ông), đề nghị Trung
Ương bổ nhiệm một vị quận trưởng phải có đạo đức, lập trường kiên quyết
chống Cộng, vừa có kinh nghiệm tổ chức chiến đấu vừa am tường địa hình
và dân chúng trong quận. Trong danh sách những người được đề nghị, ông
Trương là đối tượng duy nhất đáp ứng các tiêu chuẩn trên.
Ba năm, sau khi đã ổn định tình hình và
tổ chức được một hệ thống chính quyền xã ấp cùng một lực lượng an ninh
vững mạnh, xây xong một con đập lớn (Bình Trung) và ngôi trường trung
học công lập đầu tiên cho quận, ông làm đơn xin được trở lại đơn vị cũ.
Là một sĩ quan chiến đấu, ông không hứng thú với những thủ đoạn ở chính
trường. Đơn chưa được xét, thì xảy ra cuộc đảo chính ngày 1.11.63. xóa
bỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa một thời thịnh trị. Ông bị đám tướng tá “cách
mạng” chụp cho chiếc nón Cần Lao, mặc dù ông là một phật tử ngoan đạo,
thuần thành. Cuối cùng không tìm ra tội, họ phải chấp nhận đề nghị của
ông: trả ông về quân đội. Ông được bỗ nhậm về Trung Đoàn 48BB biệt lập,
đang quần thảo với địch quân trong Chiến khu D. Bàn giao công việc cho
người kế nhiệm.Thêm một lần nữa ông phải ra đi trong thương tiếc của mọi
người. Và ông cũng không ngờ, lần ra đi này cũng là lần vĩnh viễn xa
quê.
Bao nhiêu năm lăn lộn ở các chiến
trường, biết bao lần vào sinh ra tử, đơn vị ông đã tạo nhiều chiến thắng
lẫy lừng. Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ rồi Đệ Tứ Đẳng ông được tưởng
thưởng từ khi còn khá trẻ, được chính các vị nguyên thủ quốc gia trao
gắn. Cũng có một thời ông được chọn về làm huấn luyện viên cho các quân
trường lớn : Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Võ Khoa Thủ Đức, Chỉ Huy Tham Mưu
Đà Lạt. Ông cũng là đồng soạn giả của một số Binh Thư dành cho các cấp
chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn bộ binh.
Tình hình Vùng 1 Chiến Thuật ngày
càng nặng nề, từ ngày đường mòn Hồ Chí Minh với những ống dẫn dầu từ Bắc
vào Nam - không hiểu vì sao - gần như bỏ ngõ (?), để từng đoàn xe pháo
Bắc quân xâm nhập. Từ những chiến trường khu D, Bình Long, ông được
điều ra tận vùng địa đầu hỏa tuyến, tái tổ chức một trung đoàn biệt lâp,
với trang bị và nhiệm vụ phù hợp với một sách lược do chính cá nhân ông
biên soạn lúc còn phục vụ tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt. Đó là kế
hoạch“Chữ Tâm Trong Lũy Tre Xanh” (The Hearth Within The Green Bamboo Rampart), có
nghĩa là phía quốc gia phải chinh phục được niềm tin của dân làng trước
(và trong) kế Hoạch Bình Định & Xây Dựng Nông Thôn. Và cũng vì
chính sách lược ấy, ông được thuyên chuyển đến vùng lãnh thổ này: Hai
quận Hòa Vang và Điện Bàn thuôc tỉnh Quảng Nam được cơ quan MACV đề nghị
làm thí điểm cho việc thực thi kế hoạch.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã tái
tổ chức xong trung đoàn, lấy Tâm Lý Chiến làm hành trang cho binh sĩ
mang vào vùng trách nhiệm, đến tận những nơi thâm sơn để theo dõi, bám
sát và tiêu diệt các đại đơn vị Bắc quân xâm nhập. Mặc dù luôn bóp méo,
viết sai sự thực, nhưng trong quân sử của đối phương không hề dám viết
một dòng nào về hai Sư đoàn 304 và 324B của chúng đã đụng độ với lực
lượng Hưng Quảng I của ta tại Quảng Nam. Bởi theo yêu cầu và chỉ điểm
của đơn vị ông, một ngày, bốn phi vụ B52 trải thảm tại một khu vực nhỏ
hẹp ở Gò Nổi (Phù Kỳ, huyện Điện Bàn) mà sau đó, các đơn vị Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ đã phải dùng Rome Plough của Sea Bee để vào chôn xác
quân thù. Đủ biết số tử vong của địch cao biết chừng nào.
Trong hồi ký, Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Gia Thọ, nguyên là bác sĩ quân y của Trung Đoàn, đã viết về ông khi vị bác sĩ này mới về trình diện:
….Tôi có cảm tình ngay với vị chỉ
huy mới, vừa lịch sự vừa dứt khoát, lệnh lạc rõ ràng, và coi quân y quan
trọng cho đơn vị. Tôi hình dung lại dáng người của ông, cao gầy, mặt
xương. Sau tôi biết ông là người có tú tài Pháp, sùng đạo Phật, đêm nào
cũng thắp nhang khấn ngoài trời, và trong ngôn ngữ truyền tin, ông là
Phượng Hoàng…..
và về chiến tích đầu tiên mà vị bác sĩ này được vinh dự góp phần, một ngày không xa sau đó:
….Kết quả cuộc tấn công của Việt
Cộng: ta gần như vô sự, chỉ có Canh, xạ thủ đại liên, rớt từ chòi cao
xuống, xương sống gãy một đốt đi lom khom và tôi, bị miểng đạn vạt mất
mông bên trái, không ăn thua gì. Còn địch thì để lại trên một trăm xác
chết ngoài hàng rào.
Sau trận đó, tôi được thưởng anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc, và chiến thương bội tinh.
Đại Tướng Hoa Kỳ Louis C. Wagner,
từng là cố vấn trưởng trung đoàn, được ông Trương đề nghị ân thưởng Anh
Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, trong tập bút ký nổi tiếng Steel and Blood, đã hết lời ca ngợi trung đoàn dưới sự chỉ huy của ông.
Nhưng với ông, người Mỹ đã làm cho ông thất vọng. Từ sự trở mặt của một đồng minh cho đến cả cái tình một thời chiến hữu.
Ngoài trách nhiệm nặng nề của người
anh cả một đại đơn vị, ông còn trách nhiệm của người anh cả đối với
những đứa em trai không cha, mẹ già, chu cấp lo lắng cho các em học
hành. Ông cũng không thể dắt díu hết bầu đoàn thê tử theo ông ra vùng
lửa đạn, nên phải gởi cậu trai lớn về quê ngoại Ninh Hòa và hai cậu con
trai nhỏ cho hai người em trọ học ở Nha Trang. Sau này, tất cả các em và
con trai đều theo bước chân ông vào quân ngũ. Có người là sĩ quan biệt
động quân, người ở hải quân, không quân.
Trung Đoàn Biệt Lập của ông trở thành
một đơn vị hàng đầu thiện chiến, luôn ở tuyến đầu lửa đạn. Cuộc đời ông
lại gắn chặt dưới những giao thông hào, trong những lô cốt làm bằng
những bao cát (được gọi là trung tâm hành quân) và đại gia đình ông bây
giờ chính là những người lính chiến dưới quyền, cùng ông sống chết, nhục
vinh.
Với khả năng lãnh đạo chỉ huy, đức
tính cương trực liêm khiết, cùng bao nhiêu kinh nghiệm chiến trường, ông
được tướng Ngô Quang Trưởng, điều về làm Tư Lệnh Phó cho một Sư Đoàn
thiện chiến vào bậc nhất miền Nam. Một Sư Đoàn đã tạo nên bao chiến tích
lẫy lừng cùng những vị Tư Lệnh và nhiều cấp chỉ huy nổi danh một thời
của Quân Lực: Ngô Quang Trưởng, Phạm văn Phú, …, Lê Huấn, Võ Toàn, …
Đầu tháng 3/75, sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ, Quân Đoàn II có lệnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên theo
Tỉnh Lộ 7. Một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh.
Tướng Ngô Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ Quân Đoàn I, trong khi
người bạn đồng minh phủi tay và chính quyền trung ương cùng cả một hậu
phương rối ren, hổn loạn. Sư Đoàn của ông cũng cùng chịu chung số phận.
Vị Tư Lệnh cùng vài vị trung đoàn trưởng tử nạn trực thăng, không ai tìm
ra tung tích. Ông nhìn cả một đại gia đình tan tác mà trong lòng như có
trăm ngàn vết chém. Cuối cùng ông cũng phải rời khỏi vùng đất địa đầu
miền Nam, nơi có những người lính anh hùng,giẫm lên xác thù, cấm cờ trên
Cổ thành Quảng Trị, có cố đô của một triều đại cũng từng một thời dẹp
Bắc bình Nam, mở rộng cả một vùng giang sơn bờ cõi, nơi đã hơn 30 năm
đứng vững trong bom đạn hung hãn của kẻ thù và những tranh chấp hận thù
của những người nhân danh tôn giáo. Ông đã phải cắt ruột mà đi, không
những chỉ bỏ lại máu xương, bao nhiêu nấm mồ đồng đội, cùng với những
chiến tích vang dội một thời, mà còn cả một đứa con trai, cũng là lính
chiến, rút lui theo đoàn quân lên tàu, nhưng chẳng bao giờ tới bến.
Người con trai của ông đã nằm lại vĩnh viễn ở một nơi nào đó cùng với
đồng đội - những chiến sĩ vô danh .
Như một phép màu, ông Trương đã được bốc
đi vào đúng giờ thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, khi địch quân cấm lá
cờ oan nghiệt nửa đỏ nửa xanh trên nóc ngôi nhà ” Dinh Độc Lập”. Hôm đó
người ông đi, mà hồn ông vẫn còn ở lại trên quê nhà.
Đến Mỹ, ông tìm một nơi tạm cư vắng vẻ,
cùng với một gia đình không trọn vẹn, sống âm thầm những tháng ngày còn
lại. Ông tìm lãng quên trong sách vở, với những đứa cháu nội ngoại không
hề biết quê hương nơi ông sinh ra và cả một đời chiến chinh và nỗi đau
cắt ruột. Niềm vui duy nhất của ông bây giờ là tìm lại những đồng đội
ngày xưa, nhắc nhớ nhau một thời trận mạc. Nhưng vui đó rồi lại buồn đó,
khi bất chợt có ai nhắc lại tên một người đã mất hoặc vẫn còn sống mà
khốn khổ lạc loài trên chính mảnh đất quê hương.
Những lúc rảnh rỗi, ông đóng cửa phòng,
đọc sách, hồi tưởng lại cả một chuỗi quá khứ của đời mình, nhớ lại từng
chi tiết trong các trận đánh, phân tích các điều thành bại rồi viết lại
và lưu giữ trong computer. Lâu lâu ông lại mở ra đọc, nghiền ngẫm hằng
giờ. Rồi thở dài. Ông tiếc thầm, vì những kinh nghiệm có được từ bao
nhiêu máu xương này không còn biết đem truyền lại cho ai.
Nhiều lúc ông da diết nhớ quê, nhớ mồ mả
cha mẹ tổ tiên, nhưng ông không bao giờ có ý nghĩ trở về, dù chỉ một
lần, và chỉ một đôi ngày ngắn ngủi. Bởi một lý do đơn giản: ông nghĩ nơi
ấy không còn là quê hương ông ngày xưa, mà chỉ còn là một vùng đất lạ
lẫm, mà mỗi ngày, mỗi một phút, lũ cầm quyền vong bản, hèn mạt, bất tài,
đua nhau bán rẻ quê cha đất tổ, cướp đi từng hạt cát của biển, hạt lúa
của ruộng đồng, từng cành cây của rừng, từng tảng đá của núi và cả những
giọt nước mắt, mồ hôi của những người dân khốn khổ, trong đó có nhiều
người bà con của ông đã gần 50 năm chưa hề gặp lại. Ông cũng hổ thẹn,
thấy chính mình có lỗi khi để quê nhà lọt vào tay bọn giặc man rợ, bất
lương.
* * *
Suốt một tuần nay, buổi sáng nào, sau khi thức dậy, ông cũng rón rén đến bàn thờ, tìm hai món quà mà ông bà sui đã tặng : một chiếc nón lá và một bao nilon chỉ toàn là cát.
Hôm nay, ông ngồi thật lâu, dường như
suy nghĩ một điều gì quan trọng lắm. Cuối cùng, ông đi tìm chiếc ghế,
đứng lên đóng một cây đinh vào vách phòng khách, nơi mà trước đây ông
luôn dặn dò, nhắc nhở vợ con mình không được làm điều ấy. Ông trịnh
trong treo chiếc nón lá lên đó. Rồi ông lùi ra nhìn chiếc nón. Bất chợt
trong nhạt nhòa nước mắt, ông nhìn thấy bóng dáng mẹ ông, nhớ tới bài
văn xuôi rất học trò của ông Thanh Tịnh, mà ông đã thuộc lòng từ thời
tấm bé :
“….Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy
sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường
làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần..”. Hôm ấy mẹ ông cũng đội một chiếc nón lá .
Nhớ tới bao nilon cát, ông tìm một tấm
nhựa mới, đổ hết cát từ trong chiếc bao hai lớp, lên tấm nhựa. Những hạt
cát mà ông bà sui của ông đã hốt lên từ bãi biển ở quê ông, nơi mà thời
còn nhỏ dại ông thường tụ tập tại đây tắm biển, vui đùa với đám bạn bè
con nít, reo hò đón những chiếc ghe đầy cá của những bác ngư ông láng
giềng trở về từ biển cả. Ông lấy cái lư hương trên bàn thờ xuống, lau
chùi bên trong sạch sẽ, lót lên một tấm vải màu đỏ, rồi trịnh trọng bốc
từng bốc cát bỏ vào. Những hạt cát đối với ông bây giờ là những hạt
ngọc, trong lóng lánh ông tưởng chừng như bao nhiêu đôi mắt của người
thân, của đồng đội, bạn bè, dù còn sống hay đã chết, bây giờ biền biệt ở
nơi nào đó, mịt mờ trong cõi hư vô.
Ông chỉ bỏ vào chiếc lư hương một nửa số
cát, nửa còn lại ông gói thật kỹ vào tấm vải đỏ, rồi bỏ vào trong một
chiếc hôp thiếc, vốn là hộp trà kỷ niệm lễ cưới của thằng con trai út.
Ông dặn lòng, tối nay, ông sẽ thức khuya
một đêm nữa, viết tờ di chúc cho vợ và các con. Cả một đời ông đã bỏ
lại quê nhà, sang xứ người khi tuổi đã về chiều, ông chỉ còn biết đem
hết công sức nuôi nấng, dạy dỗ các con. Trời không phụ lòng ông, tất cả
con cái đều đã nên người, hiếu thảo. Mai này, khi nhắm mắt ra đi, ông
cũng chẳng còn gì để lại, ngoài cuốn nhật ký ghi lại đời mình. Và bây
giờ có thêm chiếc lư đồng, trong đó chỉ có những hạt cát quê hương, mà
ông xem như “vật gia bảo” trên bàn thờ tiên tổ. Nửa số cát còn
lại, ông cất kỹ dưới đầu giường và xin vợ con ông sẽ rắc trên di thể của
ông trước khi đậy nắp quan tài.
Ông hình dung tới những chiếc lá trong
cơn bão, tả tơi, tan tác, bị cuốn đi trong trời đất mênh mông, để không
bao giờ được rơi về với cội. Lòng thấy xót xa. Bỗng bất chợt, ông nhìn
lên bàn thờ, mắt ông sáng lên, rạng rỡ, khi nghĩ rồi đây bên cạnh mình
còn có nắm cát của quê hương.
phạm tín an ninh